Trang

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

12-03-2013 : THỨ BA TUẦN IV MÙA CHAY


Thứ Ba Ngày 12/03/2013
Tuần 4 Mùa Chay Năm C


BÀI ĐỌC I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi không thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được, nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống. Đó là lời Chúa.

 ĐÁP CA: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9

Đáp: Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).

1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Đáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Đấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Đáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Đáp.

 CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Tv 50, 12a và 14a

Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.

 PHÚC ÂM: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh 'Vác chõng mà đi'?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Chữa Kẻ Bất Toại
Ngày nay, không ai lại không biết đến Mẹ Têrêsa Calcutta, Ðấng sáng lập dòng "Các Nữ Tu Truyền Giáo", chuyên lo việc tông đồ bằng việc phục vụ các bệnh nhân như bệnh cùi, ốm đau, cùng khổ, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm la liệt trên các hè phố.
Trước đây, có lần một vị sư Phật Giáo nói với Mẹ: "Tôi biết và yêu mến Ðức Kitô lắm, nhưng tôi ghét Giáo Hội của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên một nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Ðức Kitô".
Sau một năm có dịp làm việc với Mẹ, vị sư Phật Giáo đó phát biểu như sau: "Tôi đã quan sát các chị, bây giờ tôi thực sự tin rằng: các chị làm việc chỉ cốt để giúp người nghèo khổ, xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên chùa của chúng tôi để các chị làm bệnh xá miễn phí".
Nhờ các hoạt động từ thiện bác ái, Mẹ Têrêsa Calcutta đã nhận được nhiều giải thưởng của chính phủ Ấn Ðộ cũng như của nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế khác. Trong đó có giải Nobel Hòa Bình năm 1979. Tuy nhiên, giải thưởng làm Mẹ Têrêsa Calcutta thích thú nhất và hãnh diện nhất chính là đưa nhiều người về với Thiên Chúa, về với Giáo Hội Công Giáo và làm cho nhiều nhìn nhận và yêu mến Chúa Kitô hơn.

Anh chị em thân mến!

Là những người đồ đệ của Ðức Kitô, mỗi người chúng ta khi dấn thân vào công cuộc phát triển từ thiện xã hội, chúng ta không nên chỉ dừng lại ở chiều kích vật chất phàm trần mà thôi, nhưng phải cố gắng như Mẹ Têrêsa Calcutta để đưa anh chị em trở về với tình yêu Thiên Chúa, nhìn nhận Ðức Kitô là Ðấng cứu chuộc nhân loại.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được dịp nhìn thấy thái độ vừa từ thiện, vừa nâng cao tinh thần của Chúa Giêsu đối với người bất toàn nằm bên giếng nước. Chúa chữa anh được lành bệnh, đồng thời Ngài mời gọi anh hãy canh tân tâm hồn là đừng phạm tội nữa để khỏi phải khốn khổ hơn trước.
Có thể nói được rằng, người được Chúa Giêsu chữa lành trong đoạn Tin Mừng hôm nay là người nghèo khổ nhất trong số những người nghèo bệnh tật nằm bên bờ giếng gần thành Giêrusalem, lúc mà Chúa Giêsu đi ngang qua. Anh nằm chờ từ 38 năm nay, có biết bao nhiêu người đi qua, kể cả những vị lãnh đạo trong dân Do Thái, những kẻ thuộc nằm lòng Kinh Thánh và muốn tuân giữ luật Chúa dạy cho đến tận cùng, với đủ mọi chi tiết. Họ đã đi ngang qua đó, nhưng không nhìn thấy người anh em đang cần được giúp đỡ. Nhưng, Chúa Giêsu đã nhìn thấy và Ngài đã chữa anh được lành bệnh. Ðó là việc Ngài thực hiện những dấu lạ: cho người què được đi, cho kẻ bệnh tật được lành mạnh để kêu gọi những người đang chờ dấu lạ của Ðấng Cứu Thế sắp đến hãy mở mắt ra và nhìn nhận Ngài là Ðấng Cứu Thế.
Thế nhưng, không ai mở mắt tinh thần ra để nhìn sự hiện diện của Chúa. Người được chữa lành không nhận ra Chúa và những người Do Thái khác lãnh đạo tôn giáo đang có mặt ở đó cũng không nhận ra Chúa. Họ chỉ nhìn thấy trường hợp lỗi luật ngày Sabat và muốn gây sự với Chúa, hơn là vui mừng vì một người anh em được lành bệnh.
Phần Chúa Giêsu, Ngài không dừng lại ở việc chữa lành tật bệnh thể xác, nhưng Ngài muốn tiến xa hơn nên đã kêu gọi người được chữa lành hãy nghĩ đến phần linh hồn quan trọng hơn: "Anh đừng phạm tội nữa". Chúa Giêsu đã thực hiện cả hai công tác phát triển và cứu rỗi chung cả nhân loại.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã lưu ý người con tinh thần của ngài như sau:
Những người khác đang ở quanh con, cả nhân loại đang đau thương, khấp khểnh trên đường mịt mù. Ðời con phải là hiến dâng để bắc nhịp cầu đưa họ đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Bên Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả đều là anh em con. Món quà tuyệt hảo mà con có thể tặng người giúp việc cho con không phải là chiếc áo đẹp, đôi giày tốt, cái đồng hồ quí, nhưng là tình người, tình anh em mà con âm thầm tặng cho họ qua các cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày sống của con.
Mỗi người chúng ta cầu xin Chúa ban cho mình có một tâm hồn và đôi mắt như Chúa, để yêu thương và giúp đỡ khi nhìn thấy nhu cầu của anh em xung quanh đang cần đến. Công việc tông đồ của chúng ta không phải là việc làm của con người, nhưng là việc làm của Thiên Chúa, nên cần có những tâm tình của Ngài.
Là chi thể của nhiệm thể, chúng ta là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để gánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người nghèo khổ, là quả tim để khắc khoải yêu thương, là miệng để nói những lời bác ái, an ủi. Nhờ tông đồ mà Hội Thánh hiện diện giữa thế giới ngày nay.
Những việc làm tốt của chúng ta góp phần giúp anh chị em nhìn nhận Chúa và yêu mến Ngài hơn.

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con quả tim như Chúa, để biết yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa. Amen.


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần IV MC


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại sự sống cho con người.

Nước không thể thiếu trong đời sống con người. Tại Jerusalem và miền nam của Israel, nước còn quan trọng hơn nữa vì nằm trên núi và sa mạc. Nếu không có nước, con người và muôn lòai không thể sống. Nước còn có một công dụng khác: rửa sạch mọi nhơ bẩn. Nước thánh từ Đền Thờ chảy ra là hình ảnh của Nước Rửa Tội trong đêm Vọng Phục sinh, có thể thanh tẩy mọi ô uế trong tâm hồn.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự cần thiết của nước trong đời sống. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Ezekiel, tuy sống trong nơi lưu đày, có một thị kiến về nước từ bên phải của Đền Thờ Jerusalem chảy ra. Nước này nhiều đến độ làm thành một con sông lớn và chảy về phía Biển Chết và sa mạc Arabah. Nước chảy đến đâu đem sự sống cho muôn lòai đến đó. Nước này cũng chữa lành mọi bệnh tật của con người. Trong Phúc Âm, một người bị liệt đã 38 năm, nằm bên hồ Bethzatha chờ mặt nước nối liền Đền Thờ được khuấy động là nhảy xuống hồ để được chữa lành. May mắn cho anh, Chúa Giêsu đi ngang, nhìn thấy, và chữa lành. Ngài truyền cho anh đứng dậy, vác chõng, và đi về nhà.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.

1.1/ Thị kiến “Nước từ Đền Thờ chảy ra” của tiên-tri Ezekiel: Nhiều tác giả đã dùng biểu tượng “Nước từ Đền Thờ chảy ra” (x/c Joel 3:18, Zech 14:8, Psa 36:8-9, Rev 22:1). Có tác giả cho đây có lẽ là một ám chỉ của giòng nước chảy ra từ Vườn Địa Đàng (Gen 2:10-14), ngưng chảy vì tội của Adam, xuất hiện trở lại trong cuộc Xuất Hành qua sa mạc qua biến cố “Nước chảy ra từ Tảng Đá,” và sau cùng tái xuất hiện trong thành Jerusalem vào Ngày Cánh Chung như một giòng sông. Phía Đông của Đền Thờ Jerusalem là thung lũng Kedron, thường thì khô cạn, và người ta có thể băng ngang để leo lên Vườn Cây Dầu như Chúa Giêsu và các môn đệ thường làm. Thị kiến của Ezekiel muốn nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa. Ngài có thể làm cho nước ngập tràn thung lũng Kedron, làm thành một giòng sông chảy vào Biển Chết như sôngJordan.

1.2/ Nước từ Đền Thờ mang lại sự sống và chữa lành con người: Nơi nào có nước là có sự sống. Cây trồng bên suối nước sẽ luôn xanh tươi và sinh nhiều hoa trái. Trong thực tế, Biển Chết là nơi nước sông Jordanchảy vào; vì không có lối thóat nên nước trở nên rất mặn, và không một sinh vật nào có thể sống nổi. Thị kiến của tiên-tri Ezekiel có lẽ muốn nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa trong tương lai. Ngài sẽ làm nước từ Đền Thờ chảy ra nhiều đến nỗi làm thành một giòng sông lấp đầy thung lũng Kedron, chảy vào Biển Chết và thông xuống vùng sa mạc Arabah. Khi Biển Chết được thông thương, nước sẽ trở nên tinh sạch hơn và làm cho nước biển hoá lành. Vì thế, “Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” Một điều chắc chắn hơn, thị kiến này ám chỉ Nước Rửa Tội mà trong đêm Vọng Phục Sinh, khi chúng ta sẽ hát lên: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra; và nước ấy chảy đến những ai, thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên …”

2/ Phúc Âm: Người bệnh bất tọai chờ bên hồ nước Bethzatha để được chữa lành.

2.1/ Lịch sử của hồ nước Bethzatha: Trước thế kỷ 20, các học giả của Tin Mừng Gioan cho hồ nước này chỉ là biểu tượng, chứ không có thật tại Jerusalem, nhiều người còn chú giải 5 hành lang tượng trưng cho 5 Sách của Ngũ Kinh, 38 năm tượng trưng cho 38 năm dân Do-thái lang thang trong sa mạc. Trường Kinh Thánh và Khảo Cổ của Dòng Đa-minh, École Biblique, tìm ra tông tích của chiếc hồ này ở phía Tây của Đền Thờ, gần nhà thờ St. Ann hiện nay, cùng với các các di tích lịch sử của nó. Hai cái hồ tìm thấy nằm kế cận nhau được giải thích trong tờ hướng dẫn của các cha dòng White Friars như sau:
- Thời xa xưa, những hồ chứa nước được thiết lập trong thung lũng này. Một cái hồ đơn giản được đào để chứa nước chảy qua thung lũng như một cái hồ thiên nhiên. Sau này, cái hồ này được xây và biến thành hồ nhân tạo với chiều kích 40x50 m bằng cách dùng một ống dẫn nước rộng khỏang 6 m. Nước trong hồ được dẫn vào Đền Thờ bằng một con kênh nhỏ. Sách Isa 7:3 và 2 Kgs 18:17 ám chỉ con kênh nhỏ này.
- Vào cuối thế kỷ 3rd BC, một chiếc hồ thứ hai được thiết lập, có lẽ vào khỏang thời gian của Thượng Tế Simon (x/c Sir 50:3). Nó được xây ở phía Nam của ống dẫn nước, con kênh nhỏ được bao phủ và trở thành ống dẫn nước vào Đền Thờ.
- Vào giữa năm 150 BC và 70 AD, một trung tâm chữa bệnh nổi tiếng được phát triển về phía Đông của hai cái hồ này. Một giếng nước, chỗ tắm, và những bàn thờ cũng được thiết lập cho mục đích chữa trị và tôn giáo. Nơi đây là nơi tụ họp của nhóm người bị cấm không cho vào trong Đền Thờ vì bệnh tật. Họ chờ đợi khi thiên thần khuấy động nước là lăn xuống hồ để được chữa trị. Chính tại nơi Cửa Chiên này, Chúa Giêsu đã chữa lành người bại liệt.
- Vào thế kỷ 1st AD, một cái hồ lớn hơn, BIRKET ISRAEL, được xây gần Đền Thờ, làm cho những cái hồ ở Bethzatha không còn quan trọng nữa. Một tường thành mới được xây dựng về phía Bắc bởi Herod Agrippa vào năm 44 AD, ngăn cản không cho nước chảy vào Đền Thờ nữa.

2.2/ Chúa chữa lành người bại liệt đã 38 năm: Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có muốn khỏi bệnh không?" Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!" Với tình trạng bệnh tật của anh, không thể nào anh là người thứ nhất lăn xuống hồ. Chúa Giêsu biết anh đã chịu bệnh lâu năm, nên bảo: "Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!" Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được. Hôm đó lại là ngày Sabbath.

2.3/ Tranh luận về ngày Sabbath.
(1) Vi phạm ngày Sabbath: Vác chõng đi trong ngày Sabbath là vi phạm Lề Luật nặng nề, và có thể bị ném đá đến chết. Khi thấy anh vác chõng, người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày Sabbath, anh không được phép vác chõng!" Anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: "Anh hãy vác chõng mà đi!" Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh: "Vác chõng mà đi?" Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai.
(2) Cuộc gặp gỡ lần thứ hai: Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!" Anh ta đi nói với người Do-thái: Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày Sabbath.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Như nước cần cho sự sống phần xác thế nào, nước từ Đền Thờ chảy ra cũng cần cho sự sống phần hồn như vậy. Nước Rửa Tội xóa sạch mọi tội của con người và mang lại cho người lãnh nhận nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
- Không có sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, con người sẽ bị khô héo lâu năm như người bại liệt. Khi có sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc đời, Ngài sẽ chữa lành mọi bệnh tật cho con người.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


Sống Lời Chúa Thứ ba(Ga 5, 1-3.5-16)

Dẫn
Thiếu bác ái yêu thương, việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không hồn và là những hành động mù quáng.

Tin mừng hôm nay, kêu gọi chúng ta ý thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi tình bác ái, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh Chúa.

Chia sẻ
Anh Nguyễn Công Hùng, 29 tuổi, quê quê quán ở Nghệ An, hiện đang sống tại khu đô thị mới Linh Đàm, Hà Nội. Anh hiện là ủy viên ban cố vấn Hội Tin Học Trẻ Việt Nam và là giám đốc công ty cổ phần Nghị Lực Sống, chuyên giới thiệu, hướng nghiệp, đào tạo nghề cho người khuyết tật với hai nội dung chính là ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Bị sốt bại liệt từ nhỏ, anh Hùng phải ngồi xe lăn và luôn cần có người trợ giúp bên cạnh.
 Anh đã tự ra ứng cử Quốc hội Việt Nam khóa XIII và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 sẽ được tổ chức ngày 22 tháng 5. Với ước mong lên tiếng bảo vệ quyền lợi cho người khuyết tật trong vấn đề cải tiến chăm sóc y tế cho người khuyết tật được thỏa đáng, và đề nghị xem xét lại lĩnh vực đào tạo. Nhưng do tình trạng sức khoẻ, theo luật anh không đủ tiêu chuẩn để ra ứng cử vào quốc hội.
 Qua đây cho thấy, quyền được quan tâm chăm sóc, quyền được giáo dục, quyền được sống, trên hết là quyền làm người là khao khát của mọi người, dù họ là ai.

Anh chàng trong bài tin mừng hôm nay đã bị bại liệt suốt 38 năm. Chắc hẳn gặp rất nhiều khó khăn và đau khổ.
 Khó khăn trong việc chăm sóc bản thân. Khó khăn trong việc đi lại. Khó khăn mỗi khi tiếp xúc với người khác.
 Anh cũng gặp không ít đau khổ. Đau khổ vì bệnh tật hành hạ, Đau khổ vì bị mọi người bỏ rơi, ngay cả những người thân “ không có người đem xuống hồ…”. Đau khổ vì bị mọi người khinh ghét, bị xã hội xem thường. Anh bị liệt vào thành phần “mang kiếp cầm ca”, ăn bám xã hội. Nhưng có lẽ đau khổ nhất vẫn là nổi đau mặc cảm vì bị mọi người xem là người tội lỗi.
 Nổi khát khao lớn nhất của anh là được làm người bình thường như bao người. Được xã hội tôn trọng; được mọi người quan tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là được khẳng định giá trị và phẩm giá làm người của mình.

Hôm nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao khát đêm ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh bại liệt. Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui ấy lại bị chống đối. “ Hôm nay là ngày Sabát không được phép vác chõng”. Không những chống đối quyền đi lại và làm người của anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu vì đã vi phạm ngày Sabát.
 Lòng ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh nặng, một rào cảng đáng sợ đẩy con người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với nhau, khiến ngưòi khác không thể vươn lên sống xứng đáng là con người.
 Họ không hiểu rằng: “vinh quang Thiên Chúa là con người được sống”. Bất cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn nhận, bất cứ một con người nào được tôn trọng, thì nơi đó Thiên Chúa được tôn vinh.

Xin cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và khước từ thể hiện lòng nhân ái đối với người khác, là chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
 Yêu thương và thực thi bác ái đối với người khác cũng là cách chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa chay này.


THỨ BA TUẦN IV MÙA CHAY
Ga 5, 1 - 3a. 5 - 16

1 Ghi nhớ: Hãy trỗi dậy vác chõng mà đi.

2 Suy niệm:  Bài tường thuật hôm nay thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu làm nhiều sự lạ:
- Một người không lê thân nổi thế mà Chúa Giêsu lại bảo hãy vác chõng mà đi.
- Anh ta đang nghĩ mình sẽ được trị bằng nước thì Chúa Giêsu lại cho anh ta một phương thức trị bệnh khác: vác chõng.
Ông Giêsu này xem ra ngớ ngẩn thật!
Nếu bảo một người khỏe mạnh vác chõng thì may ra có thể được, còn ở đây lại là một kẻ bại liệt chờ người ta vác mình; mà anh ta đã nằm đó chờ đợi ba mươi tám năm rồi.
Suối nóng có thể chữa được bệnh, ai cũng biết vậy, nhưng có ai từng được khỏi bệnh nhờ vác chõng đâu ?
Ấy vậy mà cũng có kẻ ngớ ngẩn không kém, khi nghe Chúa Giêsu bảo gì thì làm nấy. Thế mà anh ta hết bệnh thật. Đúng là phép lạ !
Nhiều người cho rằng Kitô hữu là những kẻ mù quáng, tin vào những điều ngớ ngẫn. Cũng có lý, nhưng họ đâu biết rằng sự điên dại của Thiên Chúa còn khôn gấp   trăm gấp ngàn lần sự khôn ngoan của con người.

3 Sống Lời Chúa:  Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan.

4 Cầu nguyện:  Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa.

12/03/13 THỨ BA TUẦN 4 MC
Ga 5,1-16

COI CHỪNG CHAI LỲ TRONG TỘI !
“Tại Giê-ru-sa-lem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước gọi là Bét-Da-Tha. Ở đó có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. Chúa Giê-su biết anh ta sống trong tình trạng ấy đã lâu, thì nói :”Anh có muốn khỏi bệnh không ?” (Ga 5, 2.5-6)
Suy niệm: Đó là những lời đầu trong trình thuật phép lạ của Chúa tại hồ Bết-da-tha. Chúng ta thật bất ngờ về cách tra lời thờ ơ của người bệnh: Phải chăng sau ba mươi tám năm dài đằng đẵng đau ốm nằm bên bờ hồ trước sự vô cảm của những người chung quanh, anh ta đã mất hết hy vọng? Khỏi bệnh hay không, đối với anh có lẽ cũng thế thôi. Biết đâu, cứ như thế này mà lại hay: dù sao anh đã quen với cảnh sống này rồi… Anh thờ ơ ngay cả khi được khỏi bệnh: vác chõng mà đi, không cần tìm hiểu người vừa chữa lành mình là ai – trông thật bất cần đời. Thậm chí đến khi những người biệt phái tra vấn anh mới tìm hiểu điều đó và trả lời một cách hờ hững như thể là ông Giêsu ấy không có liên quan gì đến anh nữa. Nhưng coi chừng! Lời cảnh báo của Đức Giêsu thật kinh khủng: “Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước.”
Mời Bạn: Lời cảnh báo đó có thể “ứng nghiệm” vào chính mỗi người chúng ta. Có thứ tội nào tôi vi phạm cách “vô tư” như thể đó không phải là tội? Biết bao lần tôi lãnh nhận Bí tích Hoà Giải, thế nhưng, có những thứ tội chúng ta cứ tái phạm hoài. Phải chăng đó là dấu chúng ta chưa ăn năn dốc lòng chừa cho thật?
Chia sẻ: Vì sao ngày nay nhiều bạn trẻ “dị ứng” với việc lãnh nhận Bí tích hoà giải?
Sống Lời Chúa: Trong những dịp sám hối Mùa Chay, bạn hãy quyết tâm chừa bỏ hẳn một tật xấu mà bạn hay phạm nhất.
Cầu nguyện: Đọc kinh “Ăn Năn Tội.”

Muốn trở nên lành mạnh

Suy niệm:
 Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng khi nào nói đến chuyện
Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở vùng Giêrusalem.
Riêng Tin Mừng Gioan nói đến chuyện ngài chữa bệnh cho một anh bất toại
tại một cái hồ, gần Cửa Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.
Hồ Bết-da-tha này khá lớn, có hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.
Chính vì thế có đến năm hành lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.
Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền khác nhau,
nhưng ai đến đây cũng nuôi hy vọng khỏi bệnh.
 Giữa bao người ốm đau tàn tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.
Ngài biết anh mắc bệnh đã lâu, nằm trên chõng một thời gian dài.
Ba mươi tám năm, thời gian bằng một nửa đời người.
Chính Đức Giêsu là người đến với anh và mở lời bằng một câu hỏi:
“Anh có muốn trở nên lành mạnh không ?” (c. 6).
Câu hỏi có vẻ thừa này thật ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.
Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi của anh từ nhiều năm qua.
Anh bất toại không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.
Nhưng anh lại muốn trải lòng cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,
những lý do khiến mình phải nằm ở đây lâu đến vậy.
“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất.
Tôi không có được sự trợ giúp từ phía bạn bè thân thuộc.
Tôi cô đơn, trơ trọi một mình.
Giá mà tôi có ai đó giúp tôi lúc cơ may đến…
“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi” : đó là lý do thứ hai.
Khi phải lê đi bằng chính sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.
Tôi đã cố gắng nhiều lần, nhưng luôn phải cam chịu thất bại.
Bây giờ tôi còn dám tin vào mình nữa không ?
 Anh bất toại mong có một người bạn đem anh xuống nước đầu tiên.
Anh mơ thấy ngày trồi lên từ hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.
Anh chẳng tin rằng ngày ấy là hôm nay.
Người bạn anh mong đang ở gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.
Anh sẽ được khỏi bệnh mà người vẫn khô ráo.
“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !”: đây là lời mời hay mệnh lệnh ?
Bất ngờ, nhanh chóng và dễ dàng, anh đã đứng lên và đi được.
Cái chõng đã vác anh, bây giờ anh vác nó.
Hãy nhìn những bước đi đầu tiên của người ba mươi tám năm bất toại.
Anh đã trở nên lành mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14).
Giêsu đến với anh như một người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15).
Vì chữa bệnh cho anh này vào ngày sabát, ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi : Con có muốn trở nên lành mạnh không?
Con có muốn ra khỏi sự bất toại kinh niên của mình không ?
Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.
Sau khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).
LỜI NGUYỆN
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin ;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống ;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống ;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong…
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J



"Tức khắc người ấy được lành bệnh".

Người hay chữa bệnh ngày sa-bát
Đức Giêsu bảo: “Anh hãy chỗi dậy, vác chõng và bước đi!” Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước đi.
Hôm đó lại là ngày sa-bát. Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!” (Ga. 5, 8-10)
Một lần nữa chứng tỏ một điều chắc chắn này: Xưa kia luật lệ con người rất khó thay đổi, và hầu như không cải tiến được, vì nó ăn sâu vào bản tính nhân loại. Ngay cả ngày nay cũng vậy, người ta gắn bó với nhiều luật lệ từng chi tiết và trở thành một thứ hình thức cực đoan, đến nỗi bị tiêu diệt vì luật lệ. Chúng ta có dám phản đối lối giữ luật nô lệ đó không? Chừng nào chúng ta mới được soi sáng, chừng nào chúng ta mới sống theo tinh thần của luật và không theo lối từ chương lệ cổ, ước chi lòng thành tâm làm cho chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng. Sự gắn bó với những điều phụ thuộc làm cho chúng ta mù quáng về những điều cốt yếu. Những người Do thái giữ ngày Sa-bát thời Đức Kitô cũng vậy.
Đây trong một ngày Sa-bát, họ thấy người vác chõng. Mọi người đều biết anh là kẻ bị tê liệt lâu năm nằm ở hành lang hồ Bết-đa-tha. Người ta không biết ngạc nhiên, trong chốc lát, anh đã đi được. Sự lạ lùng nào đã xảy ra cho anh, sao anh đã được khỏi? Nhưng người ta chỉ chú ý đến việc anh vác chõng xúc phạm đến luật nghỉ lễ ngày Sa-bát: một gương mù quá tệ, bất trung chừng nào, ai dám xúc phạm lề luật? Chính ông Giêsu đó, loại người Na-gia-rét chẳng có gì tốt cả, nhưng dám làm nổ tung luật lệ, dám cho mình là Con Thiên Chúa, cho mình bằng Thiên Chúa, còn gọi Thiên Chúa là Cha riêng của mình.
Người Do thái không quan tâm tìm hiểu chân lý đó, mặc kệ chân lý! Họ chỉ biết có luật và mù quáng trung thành giữ luật thôi.
Kêu gọi chúng ta đừng bỏ ngày Chúa nhật để đi tìm thú vui bỉ ổi, chúng ta phải thấy rõ sự cần thiết làm vinh danh Chúa. Còn một cách giữ ngày Sa-bát nữa là yêu thương người lân cận, tuy luật không nói tới, nhưng tình yêu tha nhân là bằng chứng lòng yêu mến Thiên Chúa, đức thờ phượng và lời cầu nguyện của chúng ta.
Đoạn Tin mừng này kêu gọi chúng ta về trách nhiệm đối với anh em mình, họ đang cần chúng ta. Thường người ta tự hỏi sao ngày Chúa nhật không được sống thoải mái! Nhưng ta lại không tự hỏi: Tại sao không dùng ngày Chúa nhật để thực hiện tình bác ái, giúp đỡ bệnh nhân và kẻ nghèo khó, đi dâng lễ. Đó là những cách nhỏ bé chúng ta có thể để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày của Ngài.
J.M

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Ba

12 THÁNG BA

Đánh Thức Một Nỗi Khát Thâm Sâu Hơn

Bên bờ giếng ở Xy-kha, Đức Giê-su đã đề xuất trao ban nước hằng sống cho người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Mỏi mệt vì chuyến đi, Người ngồi xuống bên thềm giếng. Các môn đệ đã đi vào thành phố mua thức ăn. Một người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô đến giếng lấy nước; Đức Giêsu xin chị một ít nước uống. Chị ngạc nhiên, vì thường tình chẳng một người Do Thái nào lại xin bất cứ gì từ một phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Đã bao thế kỷ rồi, người Do Thái và người Sa-ma-ri-ta-nô sống trong sự thù địch với nhau. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho chị thấy rằng Người không dung nạp thành kiến, cũng không ủng hộ quan điểm của người Do Thái rằng một rabbi không nên nói chuyện với một phụ nữ cách công khai. Người không quan tâm đến sự kỳ thị quốc gia và chủng tộc, cũng không màng đến sự phân biệt nam nữ.

Đức Giêsu xin nước – và Người dẫn dắt người phụ nữ ấy đến nước hằng sống. Thành ngữ “nước hằng sống” trong ngôn ngữ của các ngôn sứ nhằm hướng chỉ đến ân phúc cứu độ trong thời Mê-si-a (Is 12,3). Nhưng vì không hiểu được ý nghĩa này, người phụ nữ tưởng rằng Đức Giêsu muốn nói đến một thứ nước kỳ lạ có sức giúp cơ thể chị không bao giờ cảm thấy khát nữa. Đó là cách mà Đức Giêsu đánh thức nơi người phụ nữ khát vọng về ơn huệ của Người: “Người phụ nữ thưa với Đức Giêsu: ‘Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi không còn bị khát nữa và khỏi phải mất công tới đây lấy nước” (Ga 4,15).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 12-3
Ed 47, 1-9.12; Ga 5, 1-16


LỜI SUY NIỆM: “Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: Anh có muốn khỏi bệnh không” (Ga 5,5-6)

Chúa Giêsu thấy và biết người bệnh đã nằm trong thất vọng quá nửa đời người. Nhưng trong anh, vẫn còn một chút hy vọng nào đó. Anh ta vẫn còn nằm chờ đợi đến cơ may của mình. Nên Chúa Giêsu đã khơi dậy một chút hy vọng nơi anh ta bằng một câu hỏi: “Anh có muốn khỏi bệnh không?” Câu hỏi này Chúa cũng đang hỏi mỗi chúng ta trong những ngày mùa chay này. Chúng ta có muốn ra khỏi bệnh nặng nhẹ làm nguy hại đến linh hồn và thân xác của mình không? Nếu chúng ta muốn thì Chúa sẽ chữa lành cho chúng ta dù là bệnh đã lâu năm. Chúa đang nhìn thấy và Chúa đang biết rõ. Chỉ cần tin và muốn được Chúa chữa lành. Chúng ta sẽ được sống trong hạnh phúc.

Mạnh Phương


12 Tháng Ba

Chúng Ta Không Phải Là Thiên Thần

Một cuốn phim Mỹ có tựa đề "Chúng ta không phải là Thiên Thần" do hai tài tử nổi tiếng là Robert de Niro và Sean Penn thủ diễn, đã kể lại một cuộc vượt ngục rất kỳ thú của hai tử tội bị giam trong một trại khổ sai nằm giữa biên giới Hoa Kỳ và Canada.
Hai tử tội này có lẽ đã từng phạm những tội ác như cướp của giết người. Nhưng từ một ngục thật kiên cố, họ không bao giừo có ý định trốn thoát. Thế rồi, một hôm, một người tử tội đang được đưa lên ghế điện, bỗng cướp súng hạ sát một số viên cai ngục và tìm đường tẩu thoát. Trên đường trốn chạy, hắn đã cưỡng bách hai người tù cùng trốn thoát.
Sau một đêm đào tẩu giữa núi rừng phủ đầy tuyết, hai người tử tội đã mon men tìm đến một ngôi làng. Một lão bà đã ngộ nhận là hai linh mục nổi tiếng trong vùng. Bất đắc dĩ họ đành phải đội lốt linh mục và được một tu viện gần đó tiếp đãi nồng hậu.
Giữa lúc đó, cảnh sát lại đi lùng khắp nơi để tìm cách bắt lại ba kẻ đào thoát. Người tử tội đã giết các viên cai ngục để trốn thoát nay bị sa lưới lại. Hôm đó là một ngày rước kiệu trọng thể kính Ðức Mẹ do tu viện nói trên tổ chức. Nhờ lớp áo nhà tu, một trong hai tên tù đã lẻn vào nhà giam để giải thoát kẻ vừa bị bắt lại. Người tù hung hãn cũng được khoác lên người chiếc áo dòng và nép mình trong chiếc kiệu vĩ đại có tượng Ðức Mẹ...
Giữa những tiếng cầu kinh sốt sắng của mọi người, hắn xuất hiện trước công chúng và dùng súng uy hiếp mọi người. Một em bé gái câm trong đám rước kiệu đã bị hắn bắt làm con tin. Trong khi mọi người ngã rạp xuống đường vì sợ hãi, thì một trong hai vị linh mục giả đã nhào lên chiếc kiệu để giải thoát em bé gái câm. Cuộc xô xát đã làm cho người tù hung hãn bị trúng đạn, nhưng em bé gái câm và tượng Ðức Mẹ lại bị quăng xuống dòng sông giá buốt...
Không chút do dự, vị linh mục giả còn lại đã nhào xuống dòng sông và cứu sống em bé. Mở mắt nhìn vị ân nhân, em bé bỗng nhận ra người tù vượt ngục mà hình ảnh được dán đầy trong khu phố...
Trong đoạn kết thúc cuốn phim, một người đã xin được tiếp tục tu trong tu viện, còn người cứu sống em bé tiếp tục làm lại cuộc đời với người mẹ của em...

"Chúng ta không phải là Thiên Thần". Thiên thần một lần vấp ngã là vĩnh viễn trầm luân. Con người không phải là Thiên Thần, cho nên vấp ngã có chồng chất, vẫn còn có cơ may để trỗi dậy và làm lại cuộc đời.
Cuộc phiêu lưu của người tù trên đây có lẽ cũng là hình ảnh của chính cuộc đời chúng ta. Chúng ta không là Thiên Thần, cho nên sau bao nhiêu lần vấp ngã, Chúa vẫn còn tiếp tục cho chúng ta một cơ may khác để bắt đầu lại. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Lịch sử của loài người phải chăng đã không là những mò mẫm, té ngã và chỗi dậy không ngừng ư? Thiên Chúa không bỏ cuộc vì con người, cho nên con người cũng không nên thất vọng về mình.
Thất bại có ê trề, tình người có bạc bẽo, đau khổ có chồng chất, tội lỗi có đè nặng đến đâu: Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho chúng ta tia sáng của Hy Vọng để mời gọi chúng ta trỗi dậy và tiếp tục tiến bước. Ngài mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm chính cái chết của Con Ngài trên thập giá. Loài người xem đó là tận cùng của số kiếp, nhưng Thiên Chúa lại nhìn vào đó như là khởi đầu của nguồn ơn cứu thoát...

(Lẽ Sống)
Thứ Ba 12-3

Chân Phước Angela Salawa

(1881 - 1922)

A
ngela phục vụ Ðức Kitô và những người bé mọn của Ðức Kitô với tất cả sức mạnh của ngài.
Sinh ở Siepraw, gần Kraków, Ba Lan, ngài là người con thứ 11 của ông bà Bartlomiej và Ewa Salawa. Vào năm 1897, ngài đến Kraków để sống với người chị Têrêsa. Trong Thế Chiến I, ngài giúp đỡ các tù nhân chiến tranh bất kể quốc tịch hay tôn giáo. Ngài thích nghiền ngẫm các văn bản của Thánh Têrêsa Avila và Thánh Gioan Thánh Giá.
Cũng trong thời chiến, ngài đã hết mình chăm sóc các thương binh của Thế Chiến I. Sau năm 1918, vì lý do sức khoẻ ngài phải chấm dứt công việc tông đồ này. Trong nhật ký, ngài tâm sự với Ðức Kitô, "Con muốn Chúa được kính mến nhiều cũng như khi Chúa bị khinh miệt." Ở chỗ khác, ngài viết, "Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy."
Trong lễ phong chân phước năm 1991 ở Kraków, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: "Chính trong thành phố này mà ngài đã hoạt động, đã chịu đau khổ và đã nên thánh. Trong khi sống theo tinh thần của Thánh Phanxicô, ngài vẫn đáp ứng một cách phi thường với tác động của Chúa Thánh Thần" (Báo L'Observatore Romano, tập 34, số 4, 1991)

Lời Bàn

Ðừng bao giờ lầm tưởng sự khiêm hạ với thiếu tự tin, thiếu ý chí và không có hướng đi. Chân Phước Angela đã đem Tin Mừng và sự giúp đỡ vật chất cho một số người "bé mọn" của Ðức Kitô. Sự hy sinh này phải khích động chúng ta hành động tương tự.

Lời Trích

Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết: "Các Kitô Hữu tốt lành nhất và đầy sức sống nhất thì không thể tìm thấy trong những người khôn ngoan hay tài giỏi, người trí thức hay có đầu óc chính trị, hoặc những người có địa vị xã hội. Bởi đó, những gì họ nói thì không được báo chí để ý đến; những gì họ làm thì công chúng không ai biết. Ðời sống của họ ẩn khuất dưới con mắt thế gian, và nếu họ có được chút gì nổi tiếng, điều đó thường xảy đến cách muộn màng, và rất ngoại lệ, và luôn luôn kèm theo nguy cơ bị bóp méo" (The Splendor of the Church [Sự Huy Hoàng của Giáo Hội], trang 187).
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét