Trang

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

12-05-2013 : (phần 2) LỄ THĂNG THIÊN năm C


Lễ Thăng Thiên Năm C
(Phần II)


Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên, ngày 12.5. 2013 
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN NĂM C
Sách Tồng Đồ Công Vụ 1.1-11; Thư Thánh Phaolô gửi Êphêsô 1.17-23
và Phúc Âm Thánh Luca 24. 46-53

I.     Giáo Huấn P.Â.:   
Tông đồ Chúa phải là chứng nhân cho việc Đức Kitô chịu khổ hình và phục sinh vinh quang “bắt đầu từ Giêrusalem”.
Tông Đồ phải truyền giảng việc Đức Kitô chịu khổ hình và Phục Sinh để mọi người sám hối và để được ơn tha tội.
Làm chứng nhân và truyền giảng tin mừng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. “Hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”.

II.  Vấn nạn P.Â.    
Vai trò chứng nhân cho việc Đức Kitô chịu khổ hình và phục sinh vinh quang.
     Theo Tân Ước, chứng nhân được hiểu là người xác nhận những việc làm của Chúa Giêsu đặc biệt về cái chết và sự Phục Sinh của Chúa như được đề cập trong Tông Đồ Công Vụ 1,22. Từ “chứng nhân” đặc biệt dùng để chỉ người chứng kiến việc Chúa chết và sống lại. Những chứng nhân nầy lấy chính mạng sống mình làm chứng về cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta quen gọi là tử đạo. Tử đạo bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp martus. Việc lấy máu mình làm chứng cho cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Kitô được phản ảnh trong Thư Thánh Phaolô gửi Do Thái 12.1.

     Khi nhận lệnh truyền “chính anh em là chứng nhân cho những điều nầy!” các tông đồ xác nhận mình đã thấy Chúa Kitô chết và sống lại để cứu chuộc nhân loại. Đồng thời khi cần, phải lầy máu mình mà làm chứng cho điều mình thấy và tin. Các tông đồ được kêu gọi hy sinh cả mạng sống mình vì làm chứng cho Chúa Kitô chết và Phục Sinh. Nên đức tin vào Chúa Kitô chết và Phục Sinh quan trọng hơn mạng sống con người ở trần gian. Thời nầy qua thời khác, hàng trăm hàng ngàn con người đã dám chết cho niềm tin Chúa Kitô chết và phục sinh.

     Thường người ta phân biệt hai hạng chứng nhân:
     De visu, eyes witness, tức chứng kiến tận mắt. Tiếng Việt hay nói: tai nghe mắt thấy.
     De auditu, second-hand witnesses, having heard from who have seen. Nghe thấy từ người đáng tin.
     Tồng đồ và môn đệ Chúa thời Chúa tại thế là những chứng nhân de visu. Các Ngài gần gũi, sinh hoạt với Chúa. Các Ngài sờ chạm Chúa và nhìn thấy Chúa chết treo trên thánh giá cũng như được Chúa Phục Sinh hiện ra. Các Ngài đã giảng về Chúa Kitô chết và Phục Sinh cũng như đã chết cho điều mìnhh làm chứng.

     Những thế hệ sau các tông đồ và chúng ta bây giờ là những chứng nhân “de auditu”. Chúng ta nghe tường thuật việc Chúa Kitô chết và Phục Sinh qua những chứnhg nhân “de visu”. Cho dù chỉ nghe thôi, chúng ta vẫn được kêu gọi làm chứng và sẵn sàng chết cho diều mình tin và làm chứng.

     “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”
     Tông đồ là chứng nhân về Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Tông đồ làm chứng và giảng nhân danh Đức Kitô Đấng đã chết và sống lại. Vắn tắt: Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại là người mà chúng ta phải làm chứng, là đề tài mà chúng ta phải giảng, là người mà chúng ta phải nhân danh và là niềm tin để được hoán cải và được cứu độ. Thời Giáo Hội sơ khai, Giáo Lý các Tông đồ gọi là Didache, giáo lý xoay chung quanh đề tài Giêsu thành Nazarét, đã chết và đã sống lại.

     Bắt đầu từ Giêrusalem: Không có nghĩa là tất cả các tông đồ hay các nhà truyền giáo phải bắt đầu giảng về Đức Kitô chết và sống lại tại Giêrusalem trước. Nhưng “Bắt đầu từ Giêrusalem” có nghĩa là: bắt đầu từ Chúa Giêsu, Đấng tự xưng mình là Giêsusalem mới, tức trung tâm phượng tự mới như trong Gio. 2.19 khi Ngài bảo “phá hủy đền thờ nầy và ta sẽ xây lại trong ba ngày”! “Bắt đầu từ Giêrusalem” còn có nghĩa là địa danh mà Chúa Giêsu đã bị đau khổ, bị giết chết và cũng là nơi Chúa Phục Sinh vinh quang. “Ở lại Giêrusalem” để nhận ơn Chúa thánh thần, trong ngày lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem và rồi “Bắt đầu từ Giêrusalem” mà đi truyền giảng tin mừng cứu độ về Chúa Giêsu đã chết và sống lại tại Giêrusalem. Sau đó hãy đi khắp muôn nơi rao truyền tin mừng cho muôn dân dưới sự hướng dẫn và trợ lực của Chúa Thánh Thần. Giêrusalem là thánh đô, là trung tâm của Cựu Ước. Tân Ước hay đạo mới, xây nền trên và hoàn hảo hoá Cựu Ước. Đạo mới sẽ xây Giêrusalem mới nơi mỗi tâm hồn, là đền thờ Chúa.  

     Sách Tông Đồ Công Vụ 2.1-40 cho biết các tông đồ đã làm như vậy. Họ đã tập họp với nhau tại Giêrusalem trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa xuống trên các tông đồ. Nhận đầy ơn Chúa Thánh Thần, các Ông đã đi khắp nơi rao giảng tin mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Cũng trong ngày ấy Phêrô đã giảng ở Công Trường Giêrusalem. Các dân nước đều hiểu sứ điệp Phêrô truyền đạt trong ngôn ngữ Aram của Ông. Ba ngàn người xin lãnh nhận bí tích rửa tội trong ngày đó.

     Kêu gọi họ sám hối để được tha tội:
     Lệnh truyền của Chúa:
     Các tông đồ phải làm chứng nhân cho Chúa Kitô, Đấng chết và đã sống lại.
     Các tông đồ phải nhân danh Chúa Kitô mà giảng về Chúa Kitô, Đấng chết và đã sống lại.
Phải ở lại Giêrusalem để nhận lấy Chúa Thánh Thần và đi khắp nơi giảng, kêu gọi mọi người sám hối để được tha tội. Có một nối kết nào giữa việc giảng về Chúa Kitô chết và phục sinh và việc sám hối và được tha tội.

Giảng về Đức Kitô, Đấng đã chết trên cây thánh giá. Nhân loại có tội. Chúa đến, hy sinh sát tế chính mình như chiên vô tội để chuộc tội cho nhân loại. Chúa Giêsu diễn tả xác thực hình ảnh con chiên bị sát tế, lấy máu bôi trên cửa thành dấu cứu con trai đầu lòng của người Do Thái đêm rời Ai Cập (Xuất hành 12, 1-28) Hình ảnh nầy đã được nhắc lại trong Tân Ước qua lời giới thiệu Chúa Giêsu của Gioan Tiền Hô cho dân chúng “Đây là Con Chiên Thiên Chúa….. (Gioan 1,29-34)

Giảng về Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá cũng là giảng về hậu quả của tội, của ác xấu mà con người đang mang. Người nghe giảng về Đức Kitô chết trên thánh giá phải đi đến thái độ nhìn nhận tội mình và thật lòng sám hối để được tha tội. Chúa chết nhưng rồi sẽ Phục Sinh vinh quang. Con người có tội, từ bỏ tội, như chết đi, nhưng rồi sẽ sống lại trong đời sống mới, đời sống của niềm vui, của yêu thương và hy vọng.

Chúa Giêsu chết, sống lại và lên trời nằm trong tiến trình của chương trình cứu độ của Thiên Chúa, có gì liên hệ với chúng ta?
Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa và Chúa Giêsu làm người là một.      
Tuy nhiên, Ngôi Hai Thiên Chúa trước khi nhập thể và thụ thai trong lòng Đức Maria là Thiên Chúa toàn năng và thiêng liêng, vô hình. Nhưng khi nhập thể tức khi mang lấy thân xác con người, thì là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Khi Chúa Giêsu sinh sống với các tông đồ và chết treo trần truồng trên Thánh giá, chính là Chúa Giêsu Nazaret, là Thiên Chúa với thân xác con người có thề chết. Khi Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, Ngài sống lại với thân xác con người, có thể ăn uống, nhưng đã biến đổi gọi là thân xác Phục Sinh. Ngài có thể xuất hiện khi cửa nhà các môn đệ đóng kín vì sợ người Do Thái. Hôm nay Chúa Kitô Phục sinh lên trời “trước mắt các tông đồ”. Đức Kitô lên trời với thân xác phục sinh. Vậy phải hiểu và tin rằng: Đức Ki tô phục sinh và lên trời với thân xác Phục sinh.
Từ đó chúng ta mới tuyên xưng rằng: tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đồi sau như trong Kinh Tin Kính đọc mỗi ngày Chúa Nhật. Việc Chúa Giêsu chết, sống lại, lên trời nằm trong chương trình cứu độ và rất thiết thân với chúng ta. Vì chúng ta được cứu độ nhờ cái chết, sự sống lại và lên trời vinh hiển của Đức Kitô.
Đức Kitô phục sinh lên trời trước mắt các tông đồ để nói rằng: Chúng ta trong thân xác hay chết này sẽ phải chết một ngày nào đó. Nhưng Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Nếu chúng ta tin vào Chúa Phục Sinh, thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như Chúa. Thân xác chúng ta cũng được biến đổi và lên trời vinh hiển như Chúa. Nên Chúa Kitô Phục Sinh là hoa quả đầu mùa, là trưởng tử của tạo vật mới như được đề cập trong Thư Thứ I gừi Corintô 15.27; Thư Thứ II gửi Corintô 5.17; Thư gừi Côlossê 1.15; và thư gửi giáo đoàn Philipphê 3.21. Các nhà chú giải Kinh Thánh gọi Chúa Giêsu là Đấng tiên phuông trong ý nghĩa nầy.
III.         Thực hành P.Â.:
Thiên đàng như thế nào? Có thể có thiên đàng trần gian hay biến trần gian thành thiên đàng không?

Thiên đàng theo Muslimparadise là nơi mà trinh nữ nhiều vô kể. Những trinh nữ nầy dành sẵn cho những anh hùng của Hồi Giáo…. Xem chừng như đây là ước mơ của những người háo sắc chăng?

Thiên đàng theo quan niệm của cộng sản là nơi không còn giai cấp, không còn người bóc lột người. Thiên đàng là nơi của cải vật chất thừa thải. Người ta sống tự do hạnh phúc và thoải mái. Người ta lao động theo khả năng và hưởng theo nhu cầu. Đây là ước mơ bình thường của những người nghèo, hạng nhân công bị chủ bóc lột. Nên cộng sản lớn mạnh ở những nơi nghèo, nơi con người chỉ có những ước mơ rất bình thường: ăn no mặt ấm đã là thiên đàng rồi.

Kitô giáo quan niệm thiên đàng là nơi có Chúa, Đấng Thánh tuyệt đối, Đấng hằng hữu, Đấng tình yêu và là Đấng có khả năng lấp đầy mọi khát vọng nơi con người. Không còn một thứ đòi hỏi nào trên Thiên đàng. Vì Chúa là tất cả (theo tư tưởng của Thánh Anselmô cả).

Thiên đàng của Kitô Giáo là nơi mà Chúa Kitô Phục Sinh lên trời. Ngài là Thiên Chúa Thánh Thiện, đi về nơi cực thánh. Ngài là Thiên Chúa hằng hữu, đi về nơi không có sự chết. Ngài là Thiên Chúa tình yêu, đi về nơi chỉ còn đức Ái, như Thánh Phaolô mô tả. Ngài là Đấng tuyệt hảo, đi về nơi không có gì bất toàn. Ngài là hoa quả đầu mùa, là trưởng tử của hàng tạo vật, Ngài là đấng đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Để sau cùng chúng ta cũng lên thiên đàng, nơi hạnh phúc và bất tử.

Như vậy thiên đàng trần gian chỉ là ảo tưởng hay là chiếc bánh vẽ của những ý thức hệ chính trị nhằm tạo sự đấu tranh. Không thể có thiên đàng nếu không có Chúa là Đấng Thánh. Nếu không tin Chúa thì làm sao có sự thánh thiện. Nếu không có Chúa thì làm sao có hoàn hảo hay trọn vẹn. Nếu thiên đàng chỉ là chuyện ăn no và làm tình thoải mái thì không trả lời được những đòi hỏi nơi bản năng. Vừa ăn no xong, người ta vẫn còn thèm ăn nữa. Dù mới làm tình xong người ta vẫn chưa thoả mãn hoàn toàn. Bất toàn và phàm tục thì làm sao gọi là thiên đàng?

Lm. Phêrô Trần thế Tuyên 


Cuộc sống chứng nhân

Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc.)

 

Lectio: L Thăng Thiên (C)

Chúa Nht, 12 Tháng 5, 2013
Sứ vụ của Giáo Hội:
Đi làm chứng cho sự tha thứ mà Chúa Giêsu ban cho tất cả mọi người 
Lc 24:46-53


Lời Nguyện Mở Đầu

Lạy Thiên Chúa Toàn Năng ngự trên cao,
Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con. 
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt Đối
Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm thánh.

1.  Phụng Vụ

a)  Tin Mừng: 

46 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:  “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, 47 và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem. 48 Các con là nhân chứng cho những sự việc này. 49 “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng mà Cha Thầy đã hứa.  Vậy các con hãy ở lại trong thành này, cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. 50 Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. 51 Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. 52 Các ông thờ lạy Người và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng; 53 các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

b)  Giây phút thinh lặng:

Chúng ta hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.

2.  Suy Niệm

a)  Một vài câu hỏi gợi ý:

 Nhân danh Thiên Chúa:  Trong cuộc sống hằng ngày của tôi, tôi đã nhân danh ai?
 Cho muôn dân:  Liệu tôi có đủ khả năng để tiếp đón tất cả mọi người hay tôi lại đối xử phân biệt một cách dễ dàng theo cảm quan của tôi không?
 Ở lại trong thành:  Tôi đã có ở lại trong những tình huống khó khăn nhất hay tôi có cố gắng ở lại, ngay cả trước khi tôi hiểu được ý nghĩa của các việc này, mà loại bỏ chúng không?
 Lời cầu nguyện của tôi:  Tôi đã có chúc tụng Thiên Chúa vì tất cả những việc Chúa đã làm trong đời sống của tôi không, hay tôi chỉ biết đòi hỏi những việc cho riêng bản thân mình thôi?

b)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Ít dòng chữ nói về đời sống, việc di chuyển, hành trình, hội họp … Đây là mục đích của việc như đã ghi chép  cho muôn dân.   Đời sống được đánh dấu bằng sự làm chứng.  Các môn đệ đã được sai đi, các ông không mang theo trên mình vật gì ngoại trừ trở thành đời sống, cử động, hành trình, hội họp, một cách mang lại sự sống ở bất cứ nơi nào các ông đi đến.

Câu 46:  “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại.” Điều gì đã được ghi chép?  Ở đâu?  Kinh Thánh chỉ cho chúng ta biết là có cuộc gặp gỡ.  Có vẻ như là công trình của Thiên Chúa không thể hoàn tất nếu không có nhân loại, và vì vậy Thiên Chúa đi tìm kiếm nhân loại ở mọi nơi và sẽ không bỏ cuộc cho tới khi Thiên Chúa có thể ấp ủ họ.  Đây là điều đã được ghi chép:  một tình yêu trường cửu, có khả năng chịu đựng được mọi đau khổ, uống hết chén thương đau cho đến giọt cuối cùng, để có thể nhìn được một lần nữa khuôn mặt của những người con thân yêu. Trong sâu thẳm của sự chết, Chúa Giêsu đã xuống thế để nắm lấy bàn tay của nhân loại và dắt dìu họ về quê trời.   Ba ngày!  Ba thời điểm:  cuộc khổ nạn, sự chết, sự phục sinh!  Đây là những gì đã được viết về Chúa Kitô và cho tất cả những ai thuộc về Người.  Cuộc thương khó:  bạn đầu hàng một cách thành tâm, và để người khác có thể làm cho bạn bất cứ điều gì người ấy muốn, họ có thể đối xử tử tế với bạn hoặc ngược đãi bạn, họ có thể tiếp đón bạn cách ân cần hoặc xua đuổi bạn … nhưng bạn sẽ tiếp tục yêu thương cho đến cùng.  Sự chết:  một sự sống không thể lấy lại … chết, không còn gì nữa … nhưng không phải là mãi mãi, bởi vì cái chết có quyền năng trên xác thịt nhưng linh hồn vì bởi Thiên Chúa mà có thì sẽ trở về với Thiên Chúa.  Sự Phục Sinh:  Mọi việc đều có ý nghĩa dưới ánh sáng của sự sống.  Tình yêu một khi đã cho đi sẽ không chết nhưng sẽ luôn luôn sống lại.

Câu 47:   và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem.   Lời của Chúa Giêsu được phán ra, đúng lúc, không chấm dứt.  Chỉ cần có người công bố những lời ấy.  Các thánh tông đồ đã được sai đi rao giảng nhân danh Thiên Chúa.  Họ đi đến tất cả mọi dân tộc.  Bây giờ không một dân tộc nào còn được gọi là dân riêng của Chúa nữa, nhưng tất cả được đều được gọi là dân được chọn.   Các môn đệ đi đến đặt tay trên vai của anh chị em mình và chuyển đổi họ, thay đổi họ hoàn toàn và nói với họ rằng:  Tất cả mọi người đều được tha thứ, anh chị em có thể sống một đời sống thiêng liêng một lần nữa, Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại vì anh chị em!  Đức tin không là một sự sáng chế.  Tôi đến từ Giêrusalem, chính mắt tôi đã trông thấy Người, tôi đã gặp gỡ Người trong đời tôi.  Điều tôi đang nói với anh chị em không vượt quá câu chuyện của tôi, một câu chuyện về sự cứu rỗi.

Câu 48:  Các con là những nhân chứng cho sự việc này.  Chúng ta biết Thiên Chúa từ kinh nghiệm. Trở thành những nhân chứng có nghĩa là mang Lời Chúa mà Đức Kitô đã viết trên da thịt của người ấy, đan từng chữ một.  Khi một người đã được Chúa Kitô đụng chạm đến, người ấy trở thành một ngọn đèn sáng rực, ngay cả chính người ấy cũng không biết!  Và nếu có ai đó muốn dập tắt ngọn lửa thì nó lại được thắp sáng trở lại, bởi vì ánh sáng không đến từ cây đèn mà là đến từ Chúa Thánh Thần đã đổ vào trong tâm hồn và chiếu soi sự thông hiệp đời đời không bao giờ dứt.

Câu 49:  “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng mà Cha Thầy đã hứa.  Vậy các con hãy ở lại trong thành này, cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”.  Lời phán hứa của Chúa Giêsu luôn luôn được thực hiện.  Người đã về trời, nhưng Người không để cho các bạn hữu của Người mồ côi.  Người biết rằng họ cần sự hiện diện thường trực của Thiên Chúa.  Và Thiên Chúa đã trở lại với loài người.  Lần này không còn bằng thể xác, nhưng vô hình trong ngọn lửa của một tình yêu không thể hiếu thấu được, trong lòng nhiệt thành của một sự ràng buộc không bao giờ bị tách rời, cầu vòng của sự giao ước đã được phê chuẩn, nụ cười rạng rỡ của Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần.  Được bao phủ bởi Đức Kitô và Chúa Thánh Thần, các thánh tông đồ sẽ không còn sợ hãi và cuối cùng có thể ra đi!

Câu 50:  Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Giây phút từ biệt thật là trang nghiêm.  Bêtania là nơi của tình bạn.  Chúa Giêsu giơ tay và chúc phúc cho các môn đệ của Người.  Đây là một lời chào và một món quà tặng.  Ra đi không có nghĩa là tách rời hẳn với các môn đệ, Chúa chỉ rời các ông để trở lại dưới một hình thái khác.     

Câu 51:  Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời.  Mỗi sự chia ly đều mang lại nỗi buồn.  Nhưng trong trường hợp này sực chúc phúc là một di sản của ân sủng.  Các tông đồ được sống trong sự hiệp thông nồng nhiệt với Chúa của mình đến nỗi mà các ông không nhận ra được sự chia cách.

Câu 52:  Các ông thờ lạy Người và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng.  Điều lớn nhất là nỗi vui mừng của các tông đồ, niềm vui mừng khi đi qua các đường phố của Giêrusalem với kho tàng vô tận, hân hoan vì được thuộc về nước Chúa.  Bản xác loài người của Chúa Kitô đã lên thiên đàng, để mở cánh cổng mà sẽ không bao giờ đóng lại nữa.  Niềm vui mừng về đời sống dư thừa mà giờ đây Chúa Giêsu đã đổ tràn đầy vào cuộc sống của các ông sẽ không bao giờ dứt…

Câu 53:  Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.   Ở lại …. là một động từ rất quan trọng đối với người Kitô hữu.  Ở lại bao hàm một sức mạnh đặc biệt, khả năng không trốn chạy trong những tình huống khó khăn nhưng để sống trọn vẹn với những tình huống ấy, thưởng thức chúng đến tận mọi chiều sâu.  Ở lại:  một chương trình rao giảng Tin Mừng được chia sẻ với tất cả mọi người. Khi ấy lời chúc tụng được tuôn ra một cách chân thành, bởi vì khi sống trong thánh ý của Thiên Chúa thì giống như được uống một loại rượu bổ dưỡng và say sưa của hạnh phúc.

c) Suy Niệm:

Chứng kiến lòng nhân đức trong đời sống của Giáo Hội thì không còn nghi ngờ gì vì đó là tấm gương rõ ràng nhất cho việc truyền bá Tin Mừng.  Đó là một dụng cụ dùng để làm tơi đất ra để cho những hạt giống của Lời Chúa rơi xuống có thể kết tụ nhiều hoa trái.  Tin Mừng không thể chọn cách nào khác hơn để đụng chạm đến trái tim người ta hơn là tình yêu thương lẫn nhau, một phương cách dẫn thẳng đến nguồn:  “Đây là điều răn của Thầy:  các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15:12).  Chúng ta tìm thấy tất cả điều này trong thời Giáo Hội sơ khai:  “Đây là bằng chứng tình yêu, đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3:16). Người môn đệ đã gặp gỡ và biết Chúa Giêsu, người môn đệ Chúa yêu, biết rằng ông không thể nói về Chúa mà không đi theo con đường Chúa đã đi.  “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14:6)  Còn từ ngữ nào tốt đẹp hơn để có thể diễn tả con đường cao quý cho việc truyền bá Phúc Âm hơn là từ ngữ tình yêu nhưng không?  Chúa Kitô là con đường của việc rao giảng Tin Mừng.  Đức Kitô là sự thật để chuyển tải Tin Mừng.  Chúa Kitô là đời sống Phúc Âm hóa.  Và tình yêu mà Người đã yêu chúng ta là sự công bố Tin Mừng, một tình yêu cho đi không có điều kiện, tình yêu này sẽ không bao giờ bị lấy lại mà sẽ tiếp tục cho đến tận thế, một cách trung thành, ngay cả phải trả cái giá bằng cái chết nhục nhã trên thập giá, để hiển thị khuôn mặt của Chúa Cha là Chúa của Tình Yêu, một tình yêu tôn trọng quyền tự do của con người, ngay cả khi sự tự do này đồng nghĩa với chối bỏ, xúc phạm, phỉ báng và tử vong.  “Tổ chức từ thiện của các Kitô hữu có một sức mạnh rao giảng Tin Mừng rất lớn.  Đến mức mà việc bác ái được xem như là một dấu chỉ và cửa sổ của tình yêu Thiên Chúa, nó mở tâm trí và trái tim cho việc công bố Lời Chân Lý.  Như Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã nói:  con người trong thời đại này đi tìm kiếm tính xác thực và sự cụ thể, coi trọng nhân chứng hơn là thày dạy, và tựu chung họ chỉ cho phép mình được hướng dẫn để khám phá ra chiều sâu và nhu cầu của tình yêu Thiên Chúa nếu họ cảm động bởi dấu hiệu hữu hình của việc từ thiện” (CEI, Việc Rao Giảng Tin Mừng Và Nhân Chứng Của Việc Từ Thiện, trích trong Enchiridion CEI, vol. 1-5, EDB, Bologna 1996 n. 24) Mọi nỗ lực mục vụ mà muốn cho thấy mối liên hệ giữa đức tin và việc từ thiện trong ánh sáng của Tin Mừng, và nên lưu ý rằng đặc tính của tình yêu Kitô giáo là sự gần gũi và chăm sóc, có nhiệm vụ thúc đẩy và duy trì sự cởi mở với những người khác trong việc phục vụ.  (xem Lc 10:34).

3.  Cầu Nguyện

Thánh Vịnh 22:22-31

Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
cho anh em tất cả được hay,
Và trong đại hội dân Ngài,
con xin dâng tiến một bài tán dương:
“Hỡi những ai kinh sợ Đức Chúa,
hãy ca tụng Người đi!
Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào ta hãy tôn vinh Người!
Dòng dõi Ít-ra-en tất cả,
nào một dạ khiếp oai!”

Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường,
Chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ,
Cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ,
Nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.

Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng,
Ngày đại hội toàn dân.
Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn
trước mặt những ai kinh sợ Người.
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thỏa thê,
Người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng,
“Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.”

Toàn thế giới, muôn người nhớ lại
Và trở về cùng Chúa,
Mọi dân tộc dưới trần
phủ phục trước Tôn Nhan.
Bởi vì Chúa nắm quyền vương đế,
Người thống trị chư dân!

Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
Phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa,
con cháu tôi sẽ phụng sự Người.
Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa
Cho các thế hệ tương lai;
Và truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người:
Rằng:  “Đức Chúa đã làm như vậy!”

4.  Chiêm Niệm

Lạy Chúa, con biết rằng việc rao giảng Lời Chúa đòi hỏi một đời sống tâm linh sâu xa, chân thật và thánh thiện cho việc làm nhân chứng.  Những người có đức tin trưởng thành, có thể sống hòa đồng một cách tốt đẹp để tạo cơ hội cho kinh nghiệm bản thân về đức tin, một nơi gặp gỡ và môi trường tăng trưởng cho việc tiếp xúc với tha nhân để từ đó xây dựng những mối liên hệ sâu xa hướng về Giáo Hội, thế giới và lịch sử.  Nhưng thưa Chúa, con cảm thấy bất xứng.  Trong một bối cảnh mà các hình ảnh, chữ nghĩa, dự án, kế hoạch và tài liệu nối tiếp nhau một cách hàng loạt và không thứ tự, gần như làm hỗn loạn các ý nghĩ và cảm giác.  Làm chứng tá là một chữ đặc biệt dành cho giây phút suy tư, cho thời khắc ngẫm nghĩ lại.  Nhưng con có phải là người đã bị lôi cuốn bởi các hình ảnh, chữ nghĩa và kế hoạch không?  Có một điều con chắc chắn, và điều này an ủi con.  Ngay cả người chứng tốt đẹp nhất, trong một thời gian dài sẽ trở thành không có khả năng, nếu người ấy chưa thông suốt, thiếu biện minh, chưa xác nhận bằng lời công bố rõ ràng minh bạch về Chúa Giêsu.  Tin Mừng, được công bố bởi một nhân chứng sống, chẳng chóng thì chầy cần phải được công bố bởi lời của đời sống.  Con sẽ biện minh cho sự hy vọng của con bằng cách công bố tên của Chúa, lời giáo huấn của Chúa, cuộc đời của Chúa, lời hứa của Chúa, mầu nhiệm của Chúa là Giêsu Nagiarét chính là Con Thiên Chúa.  Điều này dường như đối với con là cách đơn giản nhất để khơi dậy sự chú ý đi tìm hiểu và gặp gỡ Người, thưa Thầy và thưa Chúa, Người đã sống như Con Thiên Chúa để cho chúng con được thấy thiên nhan của Chúa Cha.  Mọi nỗ lực mục vụ ngày hôm nay cho thấy là nó gắn liền với đức tin, lạy Chúa, để chúng con sẽ có thể khẩn cầu cùng Chúa, xin cho cánh cổng rao giảng được mở lại để chúng con công bố mầu nhiệm của Chúa Kitô, loại rao giảng mà Lời của Chúa đã làm những việc kỳ diệu nơi những ai có lòng tin.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét