Trang

Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

13-05-2013 : THỨ HAI TUẦN VII MÙA PHỤC SINH


Ngày 13/05/2013
Thứ Hai sau Chúa Nhật VII Phục Sinh
Cv 19,1-8


Bài Ðọc I: Cv 19, 1-8
"Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?"

Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ: "Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?" Họ trả lời: "Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói". Ngài lại hỏi: "Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?" Họ thưa: "Phép rửa của Gioan". Phaolô liền bảo: "Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Ðấng sẽ đến sau ông, tức là Ðức Giêsu". Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người.
Ngài vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và thuyết phục về nước Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 67, 2-3. 4-5ac. 6-7ab
Ðáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Như làn khói toả, chúng rã tan, như mẩu sáp ong gần lửa chảy ra, những đứa ác nhân tiêu vong trước nhan Thiên Chúa. - Ðáp.
2) Những người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người là Chúa, hãy mừng rỡ hân hoan trước nhan Người. - Ðáp.
3) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.

Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 16, 29-33
"Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra". Chúa Giêsu đáp lại các ông: "Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Môn Ðệ Bỏ Thầy
"Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha luôn ở với Thầy".
Những lời này Chúa Giêsu nói trước để an ủi các môn đệ trong biến cố sắp xảy đến với Ðức Giêsu và cho chính họ. Họ đã mường tượng nhiều nguy cơ sẽ đến với họ và đến với Thầy mình. Họ hoang mang, nhưng Chúa Giêsu trấn tĩnh, Người bảo họ "đừng sợ", có Chúa Cha ở với Người, Người ở với họ và Người sẽ vượt thắng hết thế gian, cản trở mọi gian nan, Ngài nói: "Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,33).
Ðó cũng là những lời Chúa Giêsu nói với mỗi người chúng ta, nhất là chúng ta đều lo lắng về ngày mai, về những thử thách sẽ đến trong tương lai, ai không lo cho ngày mai thì bị xem như là kẻ khờ khạo và vô ý thức. Nỗi sợ hãi và lo lắng cho ngày mai còn đặc biệt hơn cho những người khi họ nghĩ đến năm 2000, họ nghĩ rằng có thể là tận thế hay gần đến tận thế. Lo lắng cho ngày mai là bản tính con người, vì ngày mai là một phần quyết định cho đời mình mà mình lại không quyết định được. Ngày mai ấy lại đáng lo vì chính mình Chúa Giêsu đã xác nhận rằng: "Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khổ" (Ga 16,33).
Gian nan khốn khó như là thân phận con người và của mọi người. Anh em sẽ khốn khó hơn vì anh em là đồ đệ của Thầy, vì anh em tin và theo Thầy. Người nói: "Nếu thế gian ghét anh em thì nó đã ghét Thầy trước..." (Ga 15,18-22). Song chính vì đức tin mà chúng ta phải gian nan đau khổ, thì cũng chính nhờ đức tin vì Thiên Chúa mà chúng ta sẽ được an ủi. Cùng với Chúa, chúng ta vượt thắng đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ của Người, "lấy độc trị độc". Chính sự chết của Ngài mà Ngài đã chiến thắng sự chết và đem lại sự sống trưởng cửu cho những kẻ tin Ngài.
Chúng ta cần lưu ý để không thể sai lầm về sự chiến thắng của Thiên Chúa, thái độ và hành động chiến thắng của Người là bằng tình thương bằng hy sinh mà khắc phục được thế gian và đau khổ. Người không chủ trương thắng bằng những lối hống hách, nhưng thói kiêu căng "thừa thắng xông lên" để chà đạp những người yếu hèn hơn mình, không phải chiến thắng bằng tiền của hay khoa học, mà bằng tình thương chân thật, dám chết cho người mình yêu. Hiểu sai lầm về tình thương của Thiên Chúa sẽ khiến chúng ta đi lạc đường lầm lối như Chúa nói: "Giờ sẽ đến và khi đã đến rồi, anh em sẽ phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình" (Ga 16,32); "Chúa Cha ở với Thầy và Thầy ở với anh em". Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng phù trợ khác và Ngài đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14,16).
Thiên Chúa ở gần chúng ta luôn mãi để nâng đỡ và che chở chúng ta, song tiếc thay chúng ta không biết hay không màng chi đến Ngài, như hai môn đệ trên đường Emmau có Chúa cùng đi với họ trong những lúc họ chán nản nhất mà họ không nhận ra. Như câu chuyện người đi trên cát kể rằng: Trong giấc mộng nửa đêm, một người kia mơ thấy mình đi bộ với Thiên Chúa trên bãi biển. Người kia đã hồi tưởng mọi giai đoạn cuộc sống của mình được chiếu lại trên bầu trời xanh, trong đó anh cũng thấy có hai cặp dấu chân in song hành trên cát, một của anh và một của Chúa. Nhưng khi nhớ lại đến một quãng đời đen tối nhất của mình, thì anh lại thấy lúc đó chỉ có một cặp dấu chân mà thôi. Như hoảng sợ, anh liền hỏi Chúa: "Lạy Chúa, Chúa nói rằng một khi con theo Chúa thì nhất định Chúa sẽ mãi mãi đồng hành với con, nên con không hiểu được tại sao lúc con cần Chúa hơn hết thì Chúa lại bỏ con?"
Thiên Chúa trả lời: "Này con yêu quí của Cha, Cha rất yêu thương con và không bao giờ lìa bỏ con, lúc con bị đau khổ thử thách nhất, con thấy có chỉ có một cặp dấu chân trên cát là vì lúc đó Cha bồng con trên tay". Amen.
(Veritas Asia)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần VII PS

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn ngữ xử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng.

Người rao giảng phải xử dụng ngôn ngữ nào để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả? Trước tiên, xét về phía người rao giảng, vì họ là người đem lời chân lý của Chúa đến cho con người; nên lời của họ phải chứa đựng sự thật. Thứ đến, xét về phía người nghe, đại đa số là thường dân và không có vốn liếng văn chương nhiều để hiểu biết những lời nói bóng bảy, chải chuốt. Vì thế, ngôn ngữ các nhà giảng thuyết dùng phải làm sao cho đơn giản, trong sáng, và dễ hiểu. Hơn nữa, mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là đưa khán giả tới niềm tin vào Thiên Chúa và thúc đẩy việc ăn năn xám hối; chứ không phải là để thưởng thức những áng văn hay phân tích văn chương. Vì thế, nhà giảng thuyết phải dùng những lời chân tình, do Thánh Thần hướng dẫn, để đánh động tâm hồn khán giả, giúp họ nhận ra tình thương Thiên Chúa, và nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của họ, sẵn sàng cho sự hoán cải tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ cụ thể trong việc loan truyền Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, khi Phaolô đến Ephesô và hỏi các tín hữu ở đây họ đã lãnh nhận Thánh Thần chưa, họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Phaolô giải thích cho họ về sự khác nhau giữa hai Phép Rửa, và khi họ đã hiểu, ông làm Phép Rửa nhân danh Đức Kitô cho họ, và họ được lãnh nhận Thánh Thần. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu biết Cuộc Thương Khó đã gần kề, Ngài xử dụng ngôn ngữ chân thành của tình yêu để giúp các Tông-đồ hiểu rõ những gì sắp xảy ra; để các ông biết cách đối phó khi phải đương đầu với tình thế.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Phaolô kiên nhẫn giáo dục các tín hữu tại Ephêsô.
1.1/ Phaolô phân biệt hai Phép Rửa: Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, nhiều tín hữu nghĩ chỉ có một Phép Rửa duy nhất là Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả. Họ chưa bao giờ nghe tới Phép Rửa bằng Thánh Thần nhân danh Đức Kitô, và tại sao phải chịu Phép Rửa này, như lời các tín hữu tại Ephesô trả lời Phaolô hôm nay: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Hiểu biết sự thiếu thốn của dân, Phaolô kiên nhẫn mở trí cho họ:
(1) Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả: là Phép Rửa tỏ lòng sám hối. Ông Gioan làm Phép Rửa này để tha thứ và chuẩn bị tâm hồn cho dân để họ tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu. Phép Rửa này cần thiết, nhưng không phải là Phép Rửa duy nhất.
(2) Phép Rửa bằng Thánh Thần của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan, nhưng không để được tha tội, vì Ngài chẳng có tội gì để được tha. Các Giáo Phụ cắt nghĩa, Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan để thánh hiến Nước của sông Jordan và tất cả nước mà Giáo Hội dùng để rửa tội cho các tín hữu. Nhưng điều khác biệt chính giữa hai Phép Rửa là sự hiện diện của Thánh Thần đậu xuống trên Ngài.
Khi các tín hữu chịu Phép Rửa, họ không chỉ được tha tội, nhưng còn được thánh hóa bởi Thánh Thần. Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách làm cho họ hiểu biết Lời Chúa, và ban những ơn thánh cần thiết để giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của những người làm con Chúa. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi chứng kiến anh chị em tân tòng gia nhập đạo: họ không chỉ chịu Phép Rửa bằng nước, nhưng còn lãnh nhận Thánh Thần qua việc xức dầu, và sau cùng được lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể trong cùng một nghi lễ. Đối với các em bé, Giáo Hội chia ra làm ba Bí-tích riêng biệt trong quá trình thành người trưởng thành của em: Rửa Tội khi ra đời, lãnh nhận Mình Chúa khi đến tuổi biết phân biệt, và Thêm Sức khi đến tuổi biết làm chứng.
1.2/ Phaolô làm Phép Rửa ban Thánh Thần cho các tín hữu: "Khi ông Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người." Nói tiếng lạ không chỉ giới hạn vào việc nói các ngôn ngữ khác nhau như các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; nhưng trải rộng trong việc nói ngôn ngữ làm cho người khác hiểu những gì mình nói: ngôn ngữ của sự thật và của tình yêu. Nói tiên tri cũng không giới hạn vào việc tiên báo những sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai; nhưng là nói thay Chúa, loan truyền những Tin Mừng cho những người chưa được nghe Thiên Chúa nói trong cuộc đời của họ. Khi các tín hữu được nói tiếng lạ và nói tiên tri, họ không nói những lời vô nghĩa và lộn xộn như những người mất trí; nhưng là những lời sự thật và xây dựng mà các tín hữu khác có thể hiểu. Sau khi làm Phép Rửa, ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ.

2/ Phúc Âm: Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.
2.1/ Đức tin và sự thử luyện:
(1) Chúa Giêsu nói từ tâm lòng với các môn đệ: Như chúng tôi đã đề cập trong những lần chia sẻ trước, trình thuật hôm nay nằm trong phần giáo dục dành riêng cho các môn đệ của Chúa Giêsu. Khán giả khác thì ngôn ngữ và lối suy luận dùng cũng phải khác, nhất là Chúa Giêsu không cón nhiều thời gian để dạy dỗ các ông, nên Ngài dùng ngôn ngữ của trái tim để chuẩn bị cho các ông những gì sắp xảy đến. Không lạ gì mà các ông hiểu và thưa Ngài: "Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến."
(2) Giờ các môn đệ có đức tin là giờ mà cả Thầy trò phải chịu thử thách. Đức Giêsu đáp: "Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ - và giờ ấy đã đến rồi - anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy." Chúa Giêsu không có ý mỉa mai các môn đệ khi nói những lời này, nhưng Ngài muốn các ông hiểu hai sự thực quan trọng: Thứ nhất, đức tin cần phải được thử luyện để biết đâu là đức tin vững chắc. Thứ hai, người nào có đức tin vững chắc không bao giờ cô độc; người ấy luôn có Thiên Chúa đồng hành và vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
2.2/ Chúa Giêsu để lại hai nguồn bình an của Ngài cho các môn đệ.
(1) Các môn đệ được bình an khi phản bội Thầy: Làm sao chúng ta hiểu câu tuyên bố của Chúa: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an." Chúa biết các ông sẽ phản bội Ngài vì sợ hãi và yếu đuối trong Cuộc Thương Khó; nhưng Chúa vẫn yêu thương và trung thành với các ông. Chúa muốn nói những lời này trước khi sự phản bội xảy ra, để các ông đừng thất vọng đến chỗ tìm quyên sinh như Judah, nhưng biết tin vào sự tha thứ của Ngài.
(2) Lời hứa chiến thắng trước khi đụng trận: "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." Không có gì kích thích lòng nhiệt thành của các môn đệ hơn là lời hứa sẽ chiến thắng. Một khi đã nắm chắc phần thắng lợi trong tay, người môn đệ sẽ lao vào chiến trường mà không gian nguy nào có thể làm chùn chân ông.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta không cần dùng những lời lẽ văn chương bóng bảy hay chải chuốt trong việc loan báo Tin Mừng; nhưng cần những lời sự thật, đơn sơ mà mọi người đều có thể hiểu.
- Quan trọng hơn nữa là chúng ta nên dùng những lời chân tình phát xuất từ trái tim, và được sưởi ấm bởi Thánh Thần. Khán giả dễ nhận ra và đồng cảm với những người quan tâm đến cuộc sống của họ, vì Thánh Thần cũng là Người đang hoạt động trong khán giả.
- Chúng ta đừng sợ bất cứ điều gì trong hành trình rao giảng Tin Mừng, vì chúng ta tin tưởng Ba Ngôi Thiên Chúa luôn đồng hành để soi sáng, nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên,OP.


HẠT GIỐNG NẨY MẦM  TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 16,29-33

A. Hạt giống...
Đề tài giáo lý thứ 14 : về cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian.
Chúa Giêsu báo trước rằng khi Ngài chịu nạn thì các môn đệ sẽ bỏ Ngài : " Nầy đã đến giờ, và đến giờ rồi, các con sẽ mỗi người một ngã, bỏ mặc Thầy một mình"
Chúa Giêsu còn tiên báo xa hơn về cuộc sống của môn đệ sau khi Ngài ra đi : "Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".

B.... nẩy mầm.
1. "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian"
Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuốm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người gói trong những tấm da thú bị đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên tiếng rì rầm : "Bọn  Thiên Chúa giáo ! Bọn Thiên Chúa giáo !"... Đây là cảnh tượng cuộc hành hình những Kitô hữu tiên khởi thời Néron năm 64.
Lịch sử Giáo Hội mở ra với những cuộc bách hại. Và trải qua 2000 năm, bị nghi ngờ, bị thù ghét và bách hại luôn là số phận của người Kitô hữu. Tại sao ? Lời Chúa Giê-su hôm nay là câu trả lời quý giá cho tôi.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng là Kitô hữu nghĩa là tham dự vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa. Xin cho con luôn biết can đảm đối diện với thập giá. (Epphata)
2. Nếu chỉ tin có phần đầu của Lời Chúa thì chúng ta sẽ lo sợ lắm. Chúng ta phải tin luôn phần sau của Lời Chúa nữa "Thầy đã chiến thắng thế gian". Chắc chắn như thế, Chúa Giêsu đã bị biết bao gian nan khốn khó cùng một lúc đổ dồn lại tấn công Ngài, bao nhiêu kẻ thù liên minh lại để làm hại Ngài, đến nỗi Ngài phải bị chết, chết rất là đau đớn rất là nhục nhã. Có thể nói khi Ngài chết là Ngài gánh chịu tất cả mọi thứ gian nan khốn khó. Bởi vậy khi Ngài sống lại thì không phải Ngài chỉ chiến thắng một sự gian nan khốn khó nhưng là tất cả mọi gian nan khốn khó. Chiến thắng ấy không phải chỉ của riêng Ngài mà còn là bảo đảm cho chiến thắng của tất cả những ai theo Ngài.
3. Nhưng để có thể đón nhận những gian nan khốn khó sẽ đến và để có thể vững tin vào chiến thắng, chúng ta phải "can đảm lên". Xin Chúa ban cho con thêm can đảm.
4. (những mầm khác)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

13/05/13 THỨ HAI TUẦN 7 PS
Đức Mẹ Fatima
Ga 16,29-33

CAN ĐẢM LÊN !
“Can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 15,33)
Suy niệm: Cuộc sống hôm nay bị vây bủa tư bề bởi bao nỗi lo sợ: thất bại trong công ăn việc làm; gia đình bất hòa và bầu khí gia đình ngột ngạt, khó thở; con cái hư hỏng cha mẹ buồn khổ; bệnh tật đe dọa từng ngày; cái chết rình rập… Tình cảnh này giống như lời Đức Gioan Phaolô II diễn tả: “Điều hiển nhiên lúc này là chúng ta đang trải qua một giai đoạn cực kỳ mong manh của lịch sử, trống vắng mọi điểm tựa của đạo đức. Một giai đoạn của những giá trị và ý thức hệ bị hóa lỏng. Trong đó, người muốn tiến lên chỉ còn phương thế duy nhất là phải bước đi trên mặt nước”. Trong hoàn cảnh đen tối đó, ngài đã nhớ đến và lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”. Can đảm lên vì: “…Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ và sự chết… Người hiện diện giữa chúng ta… và Hội Thánh ở lại trong Người.” (Tông thư CửaĐức Tin, số 15).
Mời Bạn: Phản ứng tự nhiên của con người trong tình cảnh mệt mỏi, chán chường là buông trôi cuộc đời. Chúa Giêsu đã làm gương khi giờ phút quyết liệt của cuộc hiến tế trên thập giá, Ngài vẫn hướng về Chúa Cha và phó thác: “con phó hồn con trong tay Cha”. Hôm nay, Chúa cần bạn sống niềm tin với niềm xác tín để cùng với Chúa “đi trên nước” vượt qua biển trần thế này.
Sống Lời Chúa: Trong mọi hoàn cảnh, hãy nhớ đến và lặp lại lời Chúa Giêsu nói với Giáo hội: “Anh em đừng sợ… Thầy đã thắng thế gian”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa dẫn dắt con từ chỗ thất vọng đến niềm hy vọng. Xin cho con cảm nghiệm được niềm vui ‘có Chúa ở với’ trong mọi ngày, và ‘can đảm lên’trong mọi hoàn cảnh.


Suy niệm Ga 16,29-33
Lạy Chúa, những lời Chúa nói hôm nay là trước lúc Chúa bị bắt, bị kết án, bị đóng đinh và chết trên cây thập giá. Đây là thời gian đầy tình cảm, thầy trò phút cuối bên nhau. Nếu những cuộc chia ly bình thường như thế này thì đầy nước mắt. Nhưng đối với Chúa thì tràn ngập niềm vui, vì con đường của Chúa đi không phải là con đường cùng. Hơn nữa Chúa cũng cho các môn đệ biết trước con đường mà các ông phải đi, hậu quả các ông phải chịu và phần thưởng mà các ông sẽ được.
“Này đến giờ, và giờ ấy đã đến” (Ga 16,32a).  Đó là giờ mà Chúa phải bước lên thập giá. Đối với loài người đó là một sự thất bại ê chề, một nỗi buồn khôn tả. Còn với Chúa đó là giờ phút vinh quang, là niềm vui tột đỉnh, vì chính giờ phút đó “Con Người được tôn vinh”. Ai tôn vinh Chúa trong lúc này đây? Chẳng lẽ các môn đệ? Họ bỏ Thầy mình mà chạy trốn hết. Chẳng lẽ các biệt phái và kinh sư? Chính họ đã kết án Chúa. Chẳng lẽ quân lính? Họ đã đóng đinh Chúa… Không ai hết mà chính Chúa Cha: “Thầy không cô độc đâu vì Chúa Cha ở với Thầy” (Ga 16,32b).
Chúa Giêsu nói điều đó để các môn đệ khỏi ngã lòng trước cái chết của Ngài: “Thầy nói với anh em những điều đó để trong Thầy anh em được bình an” (Ga16,33a). Đó cũng là tiên báo con đường mà các ông phải đi vì: “môn đệ không hơn thầy”. “Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khó” (Ga16,33b). Tuy nhiên sau đó là một lời mạnh mẽ của Chúa: “Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga16,33c).
Lạy Chúa, lời Chúa hôm nay cho con biết rằng theo Chúa không phải là đi trên con đường trải thảm nhưng đi trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi trên con đường thập giá, thì con là môn đệ của Ngài, con cũng phải vác thập giá mỗi ngày mà theo. Điều đó giúp con nhìn lại cuộc sống của mình. Con cứ tìm kiếm những sung sướng, những hưởng thụ cho bản thân. Mỗi khi gặp vất vả một chút thì con kêu than. Mỗi khi gặp trái ngang trong đời thì con bấn loạn lên.
Nếu con ý thức được con đường mình phải đi và đi trong Chúa thì con sẽ được bình an. Đôi khi con vác thập giá, chịu đựng những gian nan, những thử thách trong đời nhưng con không được bình an, vì nơi thập giá đó không có Chúa Giêsu, trong gian nan thử thách đó không có tình yêu của Chúa. Những lúc đó, quả thật con đang tự sức mình vũng vẫy giữa đầm lẫy, đang cố bơi giữa đại dương mênh mông, đang cố độc giữa dòng đời tấp nập.
Vì vậy lạy Chúa xin cho con ý thức được theo Chúa là con phải vác thập giá mỗi ngày, nhất là cho con biết cần đến Chúa để luôn chạy đến với Chúa. Vì nếu không có Chúa con không làm gì được đâu. Amen.
Lm. Thin Duy

Nương tựa vào Chúa.

Cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và các môn đệ như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay, đã được thực hiện trong khung cảnh Bữa Tiệc ly, trước giờ Chúa Giêsu vượt qua khỏi đời này để về cùng Cha. Trong những giờ phút đó, Chúa Giêsu cảm thấy được an ủi khi nghe lời tuyên xưng từ miệng các môn đệ Ngài: “Giờ đây chúng con nhận ra là Thày biết hết mọi sự… Vì thế chúng con tin Thày từ Thiên Chúa mà đến”. Có thể gọi đó là lời tuyên xưng niềm tin của các môn đệ; nó không phải là những lời bộc phát, nhưng được kết tinh sau ba năm theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến các phép lạ Ngài làm.
Đáp lại lời tuyên xưng ấy, Chúa Giêsu cảnh tỉnh các môn đệ về sự yếu đuối mỏng dòn của niềm tin nơi con người, đồng thời cho các ông thấy đâu là nơi nương tựa vững chắc nhất. Như Phêrô vừa tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì liền sau đó lại ngăn cản Thày đi vào con đường khổ nạn dẫn tới vinh quang; vừa khẳng quyết theo Thày đến tận cùng, nhưng rồi lại lớn tiếng chối bỏ Thày. Các môn đệ giờ đây tin nhận “Thày từ Thiên Chúa mà đến” nhưng khi giờ đến, các ông sẽ tản mác mỗi người một nơi, bỏ mặc Thày một mình. Nhưng dù có bị các môn đệ bỏ rơi, Chúa Giêsu cũng không đơn độc một mình, bởi vì có Chúa Cha hằng ở với Ngài.
Những kẻ theo Chúa ngày hôm nay cũng có những lúc cảm thấy bị bỏ rơi và không biết tìm nương tựa nơi đâu? Họ chỉ có một nơi nương tựa duy nhất đó là Thiên Chúa, Đấng hằng quan tâm săn sóc con người và ban ơn trợ lực để giúp họ thắng vượt mọi thử thách. Chúa Giêsu đã báo trước các yếu đuối của các môn đệ cũng như những gian truân các ông sẽ phải chịu, nhưng không để làm các ông lo sợ, trái lại để các ông thêm tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa gia tăng nơi chúng ta niềm cậy trông phó thác, để giữa những đêm tối của cuộc đời, chúng ta luôn được bình an, tin tưởng, vì biết rằng có Chúa hằng ở cùng chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thứ Hai 13-5

Thánh Pancratius

(c. 304)

T
hánh Pancratius là vị tử đạo thời tiên khởi mà chúng ta biết rất ít về ngài. Truyền thuyết nói rằng ngài sinh vào cuối thế kỷ thứ ba và được người chú ở Rôma nuôi dưỡng sau khi cha mẹ mất sớm. Sau đó, hai chú cháu theo Kitô Giáo. Trong thời gian cấm đạo của Hoàng Ðế Diocletian, Pancratius bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi.
Ngài được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài. Thánh Pancratius được nước Anh đặc biệt sùng kính vì Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho Thánh Pancratius, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland.

Lời Trích

"Chúng sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và chúng sẽ điệu anh em đến trước mặt vua quan vì danh Thầy. Ðó là cơ hội để anh em làm chứng. Hãy nhớ rằng, đừng lo nghĩ cách bào chữa, vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói khôn ngoan khiến tất cả các địch thủ không tài nào chống đối hay bắt bẻ được" (Luca 21:12-15).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét