THỨ SÁU 04/10/2013
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
26 Quanh Năm
Thánh Phanxicô Átxidi-Lễ
Nhớ
Bài Ðọc I: (Năm I) Br 1, 15-22
"Chúng ta đã
phạm tội trước mặt Chúa và không tin tưởng vào Người".
Trích
sách Tiên tri Barúc.
Sự
công chính thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng ta, còn sự thẹn mặt thì thuộc về
chúng ta: như ngày nay, nó thuộc về toàn cõi Giuđa: thuộc về dân cư Giêrusalem,
vua chúa, quan quyền, tư tế, tiên tri và các tổ phụ chúng ta. Chúng ta phạm tội
trước mặt Chúa là Thiên Chúa chúng ta, và chúng ta không tin tưởng, không cậy
trông vào Người. Chúng ta không suy phục Người, không nghe tiếng Chúa là Thiên
Chúa chúng ta, để chúng ta bước đi trong các giới răn Người đã ban cho chúng
ta. Từ ngày Chúa dẫn các tổ phụ chúng ta ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay,
chúng ta chẳng tin tưởng vào Chúa là Thiên Chúa chúng ta: chúng ta vô tâm lìa
xa Chúa để khỏi nghe tiếng Người. Chúng ta mắc phải nhiều tai hoạ và những lời
chúc dữ mà Chúa đã báo cho Môsê tôi tớ Người, khi Người dẫn dắt tổ phụ chúng ta
ra khỏi đất Ai-cập, để ban cho chúng ta đất chảy sữa và mật như ngày hôm nay.
Chúng ta không nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa chúng ta theo như mọi lời các tiên
tri Chúa sai đến cùng chúng ta. Mỗi người chúng ta cứ theo lòng gian tà của mình,
làm tôi các thần ngoại, thực hành các sự dữ trước mắt Chúa là Thiên Chúa chúng
ta.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 78, 1-2. 3-5. 8. 9
Ðáp: Lạy Chúa, xin giải
thoát chúng con vì vinh quang danh Chúa (c. 9bc).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa,
ngoại bang đã xông vào gia nghiệp Chúa, họ làm ô uế thánh điện của Ngài, họ biến
Giêrusalem thành nơi đổ nát! Họ ném tử thi thần dân Chúa làm mồi nuôi chim trời,
và huyết nhục tín đồ Ngài cho muông thú đồng hoang. - Ðáp.
2)
Họ đổ máu chư vị đó dường như nước lã quanh Giêrusalem, mà không có kẻ chôn
vùi. Chúng con đã bị bêu ra cho láng giềng phỉ nhổ, cho lân bang chế diễu nhạo
cười! Tới ngày nào, lạy Chúa, Chúa còn giận mãi? Và lòng ghen hận Chúa còn như
lửa nấu nung? - Ðáp.
3)
Xin đừng nhớ tội tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận
chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.
4)
Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh
Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia,
alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa.
- Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 13-16
"Ai tiếp đón
Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi
Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các
ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối.
Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi.
"Còn
ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời?
Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục.
"Ai
nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai
khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Nguy Cơ Của
Những Tiện Nghi Vật Chất
Có
một hiện tượng chung tại các nước đang phát triển, đó là người dân nghèo từ
thôn quê đổ xô ra thành thị. Tại đô thị dễ tìm được công ăn việc làm, đời sống
nhiều tiện nghi, thú tiêu khiển cũng nhiều hơn. Nhưng hiện tượng đô thị hóa nào
cũng có mặt trái của nó: người dân đưa nếp sống thôn dã lên thành thị, giao
thông tắc nghẽn, việc buôn bán lấn chiếm vỉa hè, trật tự công cộng không được
tôn trọng, và trầm trọng hơn vẫn là đời sống luân lý đạo đức xuống cấp, nạn phạm
pháp gia tăng.
Thời
Cựu Ước, các Tiên tri đã không ngừng lên tiếng cảnh cáo dân chúng về cuộc sống
đồi bại tại các đô thị. Chúc dữ các đô thị vốn là một đề tài quen thuộc trong lời
rao giảng của các Tiên tri. Dường như có hai lý do khiến các Tiên tri lên án
các đô thị: Một đàng các Tiên tri muốn nhắc nhở dân chúng về cuộc sống du mục
trong sa mạc, tại đó họ đã nghe được tiếng Chúa và đã kết ước với Ngài, cuộc sống
càng đơn giản, con người càng dễ kết thân với Chúa; nhưng đàng khác, nhận thấy
cuộc sống đồi bại của các thành phố ngoại giáo trong vùng, các tiên tri muốn cảnh
cáo dân chúng về mối nguy cơ có thể chạy theo một cuộc sống như thế. Sự đồi bại
nguy hiểm nhất mà các Tiên tri không ngừng lên án một cách gắt gao, đó là việc
tôn thờ ngẫu tượng và nếp sống vô luân của thị dân, điển hình nhất là của các
đô thị sa đọa là Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn.
Trong
Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu
đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin,
Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành
câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một
mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với
người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô
thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng
ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.
Tuy
nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô
đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới
có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là
giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của
Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình,
nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người
sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết
hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một
quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người
với Thiên Chúa.
Dù
muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại
không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc
sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin
phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu
trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những
sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có
lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường,
một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm
tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một
số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái,
liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.
Nguyện
cho Lời Chúa luôn là động lực thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta trong mọi sinh hoạt
và quan hệ hằng ngày của chúng ta, để trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng ta
luôn tìm gặp Chúa trong tha nhân và trong mọi biến cố.
(Veritas Asia)
Các bài đọc lễ nhớ
Thánh Phanxicô Átxidi :
Ngày 4 tháng 10
Lễ Thánh Phanxicô Assisi
Lễ Nhớ
Bài Ðọc I: Gl 6, 14-18
"Nhờ cây Thập
giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh
em thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ
về thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu
đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Ðức Kitô có cắt bì hay
không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới.
Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và
cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi
nữa, vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu. Anh em thân mến, nguyện
ân sủng của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em. Amen.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8.
9-10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là
phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin bảo toàn
con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: "Ngài là
chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận
mạng của con". - Ðáp.
2)
Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ,
cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên
hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3)
Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia: x. Mt 11, 25
Alleluia,
alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, chúc tụng Cha, vì Cha đã mạc khải các mầu
nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 25-30
"Chúa đã giấu
các điều ấy cùng kẻ khôn ngoan thông thái, và đã tỏ bày ra cho những kẻ bé mọn".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng
Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những
điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như
vậy.
"Mọi
sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng
không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất
cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho
các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm
nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì
êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Bí Quyết Trẻ Trung
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Sống
cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh
trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh
nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật
cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách
mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.
Sứ
điệp của thánh nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện
thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi
luôn biết giữ một tâm hồn tươi trẻ. "Tuổi tác không phải là điều kiện thể
lý cho bằng bầu khí của tâm hồn". Có lẽ thánh nhân không phải là người đã
nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn ngài đã sống theo châm ngôn ấy.
Ngài
biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng
cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo
lắng, không buồn giận.
Những
khám phá của khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống
một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ,
các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:
-
Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.
-
Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.
-
Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.
-
Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn
rã của trẻ em.
-
Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.
-
Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà
cũng như cảnh tuyết rơi.
-
Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.
-
Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.
-
Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.
Không
khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những
yếu tố cần thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó
không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh
Phanxicô Assisi?
Một
tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên
đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với
chúng ta: "Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống
chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ,
các con sẽ không được vào Nước Trời".
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 26 TN1
Bài đọc: Bar
1:15-22; Lk 10:13-16
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Chúa – biết
mình
Chu
Tu đã tuyên bố một câu bất hủ: “Biết người, biết ta: trăm trận trăm thắng.” Nhiều
người chẳng những đã không biết mình mà còn mù tịt về Thiên Chúa. Hậu quả là
con người thường có khuynh hướng lấy những gì mình biết mà áp dụng cho Thiên
Chúa; vì thế, con người dễ kiêu ngạo và khinh thường Thiên Chúa, khinh thường
những người làm việc cho Thiên Chúa, và lọai Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời. Các
Bài đọc hôm nay dạy cho chúng ta những trường hợp phải tránh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.
Tiên-tri
Baruch là một kinh-sư, người đồng thời với tiên-tri Jeremiah. Nhiều người còn
cho ông là thư ký của Jeremiah. Cả hai sống trong một giai đoạn rất khó khăn của
vương quốc Judah, khi cả nước bị rơi vào tay vua Babylon, Đền Thờ bị phá hủy,
và rất nhiều người cùng với vua quan bị lưu đày qua Babylon. Trình thuật của
ông hôm nay là một lời thú tội, sau khi đã cẩn thận xét mình về mối tương quan
giữa Thiên Chúa và con cái Israel.
1.1/
Tình thương Thiên Chúa và sự dạy dỗ của Ngài: Khi nhìn lại quá khứ, Baruch
nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho con cái Israel quá cao vời: Ngài đã
đưa ra khỏi đất nô lệ Ai-cập, dẫn đưa họ vào miền Đất Hứa tràn đầy sữa và mật
mà Ngài đã hứa với các tổ-phụ. Ngài đã thân hành ban cho dân Thập Giới qua
trung gian Moses, để dân chúng biết sống đúng mối liên hệ vơi Thiên Chúa và với
tha nhân. Khi vua quan và dân chúng đi trật đường, Ngài đã gởi các tiên-tri tới
để sửa dạy; không phải chỉ một người hay một lần, mà rất nhiều người và nhiều lần.
Họ không những không chịu nghe, mà còn xỉ nhục và đánh đập các tiên-tri nữa.
1.2/
Tội lỗi và hình phạt: Trong
khi Thiên Chúa thương yêu, dạy bảo, và tìm mọi cách để làm cho con cái Israel
ăn năn trở về; họ vẫn cứng lòng và ngoan cố trong tội.
(1)
Tội lỗi con người: Tiên-tri
Baruch thú nhận: ''Tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa.'' Một số tội
ông liệt kê ra như sau:
+ Tội không vâng phục: Chúng tôi đã không
nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa, không vâng giữ các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề
ra.
+ Tội cứng lòng không chịu
nghe lời các ngôn sứ sửa dạy: Chúng tôi đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến
với chúng tôi.
+ Hai tội chính của con cái
Israel được nhắc đi nhắc lại trong sách các tiên-tri: (1) Bỏ Thiên Chúa để
chạy theo các thần ngoại bang; và (2) sống bất công với tha nhân.
(2)
Hình phạt: Thiên Chúa,
qua ông Moses, đã báo trước hình phạt xảy ra nếu không chịu giữ các điều răn là
phải chết. Giờ đây, khi toàn dân phải hổ ngươi bẽ mặt trong chốn lưu đày là xứng
đáng với tội lỗi của mình; họ không được than trách Thiên Chúa.
2/
Phúc Âm: Biết mình để đừng kiêu ngạo
(1) Hai thành của Do-Thái, Chorazin và
Bethsaida: Sử
gia Eusebius và thánh Jerome định vị Chorazin là một thành phố nằm cách
Capernaum 2 dặm về phía Bắc. Vì nó nằm trên ngọn đồi nên từ đây một người có thể
nhìn xuống Capernaum và Biển Hồ. Thành phố này rất phồn thịnh cho tới thế kỷ 2
AD. Tuy Phúc Âm không tường thuật Chúa rao giảng hay làm phép lạ ở Chorazin,
nhưng có lẽ vì thành rất gần Capernaum nên đã nghe những gì Chúa giảng và chứng
kiến những gì Chúa làm. Bethsaida, tiếng Do-Thái có nghĩa là “nhà của cá.”
Thành này nằm ở phía Tây của Hồ Tiberias. Đây là chỗ sinh sống của các Tông Đồ
Phêrô, Anrê, và Philip, và cũng là nơi Chúa thường xuyên lui về để nghỉ ngơi
(Mk 6:45, Lk 9 :10, Jn 1:44, 12:21). Tại đây, Chúa làm phép lạ chữa người mù
(Mk 8:25) và chữa mẹ vợ của Phêrô (Mt 8 :14, Mk 1 :30).
(2)
Hai thành của Dân Ngọai, Tyre và Sidon: Hai thành này nằm dọc theo bờ biển Mediteranean về
phía Bắc của Do-Thái là Lebanon hiện giờ. Vì nằm trên bờ biển và là nơi giao
thông giữa Á Châu và Âu Châu nên hai hải cảng này rất phồn thịnh. Trong suốt cuộc
đời rao giảng của Chúa, chỉ có 2 Thánh Ký Matthew và Mark tường thuật một lần
Chúa Giêsu đi đến Tyre và Sidon (Mt 15:21, Mk 7:30) và làm phép lạ một lần: chữa
con gái người đàn bà Dân Ngọai Canaanite, sau khi đã khen ngợi đức tin của bà
(Mt 15:28, Mk 7:30). Tuy không được Chúa Giêsu đến rao giảng và không được chứng
kiến những phép lạ Chúa làm như các thành khác của người Do-Thái; nhưng mỗi khi
nghe nói Chúa rao giảng những thành trì gần nơi họ ở, họ kéo nhau tới để lắng
nghe Chúa giảng; và niềm tin của người đàn bà xứ Canaanite đã làm Chúa ngạc
nhiên.
Khi
so sánh giữa 2 thành của Do-Thái (Chorazin và Bethsaida) với 2 thành của Dân Ngọai
(Tyre và Sidon), Chúa đã phải thốt lên: "Khốn cho ngươi, hỡi Chorazin! Khốn
cho ngươi, hỡi Bethsaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại
Tyre và Sidon, thì họ đã mặc áo vải thô từ lâu, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi.
Vì thế, trong Ngày Phán Xét, Tyre và Sidon sẽ được xử khoan hồng hơn các
ngươi.”
(3)
Capernaum được
nhắc tới 16 lần bởi cả 4 Thánh Ký. Matthew và Mark tường thuật Chúa Giêsu bắt đầu
sứ vụ rao giảng của Ngài sau khi bị cám dỗ trong sa mạc tại Capernaum (Mt 4:13,
Mk 1:21); Ngài thường xuyên trở lại đây rao giảng (Mk 2:2, Lk 4:31); và diễn từ
quan trọng nhất về Bí Tích Thánh Thể được nói trong hội đường của người Do-Thái
tại đây (Jn 6). Nơi đây Chúa đã làm rất nhiều phép lạ (Lk 4:23): chữa lành người
đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng (Mt 8:5, Lk 7:10); chữa người bị quỉ ám (Mk
1:26, Lk 4:33); chữa lành người bất tọai (Mk 2:12); làm phép lạ đầu tiên cho nước
hóa thành rượu tại Cana, rất gần Capernaum (Jn 2:11); chữa con trai của một
công chức (Jn 4:52); bắt sóng biển phải im lặng (Jn 6:21). Nhưng cũng tại
Capernaum Chúa gặp rất nhiều thử thách và chống đối (Mt 17:24, Mk 2:7). Dân
chúng tại Capernaum đã được nghe Chúa giảng nhiều lần và chứng kiến rất nhiều
phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn cứng lòng, kiêu ngạo không chịu tin vào Ngài; đó
là lý do tại sao có những lời của Chúa hôm nay: “Còn ngươi nữa, hỡi Capernaum,
ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận
âm phủ!”
(4)
Hậu qủa của sự chấp nhận hay khước từ các môn đệ: Chúa Giêsu tuyên bố:
"Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà
ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy." Điều này cho chúng ta thấy
sự quan trọng của các môn đệ. Chúa Giêsu đã ban cho các ông tất cả những gì cần
thiết cho việc rao giảng Tin Mừng trước khi sai các ông đi. Các ông là đại diện
cho Chúa Giêsu giống như Chúa Giêsu là đại diện cho Thiên Chúa; người được sai
đi có đầy đủ uy thế và quyền hành như người sai đi. Chúng ta thường có khuynh
hướng coi nhẹ những người đại diện, xem họ không có uy quyền bằng chủ nhân của
họ. Chúng ta đừng quên những lời tường thuật của các môn đệ có khả năng làm
Thiên Chúa khen thưởng hay đánh phạt chúng ta.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta hãy vâng nghe những lời chỉ dạy của Thiên Chúa qua Thập Giới và hướng
dẫn của Giáo Hội; để có thể tránh tội lỗi và hình phạt gây ra bởi tội.
-
Chúng ta phải học biết về Thiên Chúa để hiểu biết đường lối của Ngài và tránh
được kiêu ngạo. Đừng có thái độ “ếch ngồi đáy giếng.”
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
(trang blog đã dựa vào các bài của Cha Tiên chỉnh sửa lại
cho hợp với các bài đọc hôm nay)
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 26–
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Lc 10,13-16
A. Hạt giống...
Sau khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa
Giêsu liên tưởng đến những thành phố đã không đón nhận Tin Mừng. Đó là
Khôradin, Bétsaiđa và Caphácnaum. Những thành này đều ở ven biển hồ Galilê, đều
tương đối giàu có và trình độ văn hóa cao hơn những thành khác.
Nhưng sự giàu có và kiến thức của họ đã khiến họ
kiêu căng tự mãn nên họ không thèm đón nhận Tin Mừng. Bao nhiều lời rao giảng
và phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở những nơi đó đều hầu như hoàn toàn vô ích.
Bởi thế, lẽ ra họ được hạnh phúc, nhưng Chúa
Giêsu bảo “Khốn cho họ”.
B.... nẩy mầm.
1. Trong những buổi chia sẻ Lời Chúa, nếu tôi
nghĩ rằng mình đã biết nhiều hay mình đã đạo đức rồi, thì lời của những anh chị
em khác chia sẻ sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho tôi. Bởi trí tôi quá đầy, lòng
tôi quá đủ cho nên không gì có thể vào thêm được nữa.
2. Những kẻ bị chúc dữ trong đoạn Tin Mừng này là
những người sống ở các thành phố. Nếp sống văn minh thành phố dễ đẩy người ta
xa Chúa : do cám dỗ của vật chất, do tâm hồn quá ồn ào, do ý nghĩ mình thông
giỏi…
Dù muốn dù không càng ngày chúng ta càng dấn sâu
vào văn minh thành phố. Xin Chúa giúp chúng ta làm thế nào để vẫn giữ được tâm
hồn sa mạc : hướng về siêu nhiên hơn tự nhiên, hướng nội hơn hướng ngoại, trọng
tình yêu hơn hưởng thụ, xử dụng tiện nghi vật chất trong tình thần làm chủ hơn
là tinh thần nô lệ…
3. “Ai nghe các con là nghe Thầy, và ai khinh dễ
các con là khinh dễ Thầy. Mà ai khinh dễ Thầy là khinh dễ Đấng đã sai Thầy” :
Chúa Giêsu đang nói về những sứ giả của Ngài, đem lời Ngài đi rao giảng. Nghe
họ tức là nghe Chúa, từ chối họ tức là từ chối Chúa.
Dù tôi là kitô hữu, là tu sĩ, Linh mục, Chúa vẫn
còn gởi các sứ giả của Ngài đến với tôi, để khuyên bảo, nhắc nhở tôi. Những
người đó có thể là một người bạn của tôi, cấp trên của tôi hoặc cấp dưới của
tôi nữa. Nghe họ là nghe Chúa, không nghe họ là không nghe Chúa !
4. Một nhà hiền triết đã nói với một ông vua rất
giàu có như sau : Không ai có thể được xem là hạnh phúc thật khi trái tim người
đó còn bị trói buộc với của cải vật chất. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Ai nghe anh em là nghe Thầy ; và ai khước từ
anh em là khước từ Thầy ; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy (Lc
10,16).
Lời Chúa hôm nay chỉ cho tôi một thái độ sống, đó
là sống cho Đức Kitô, sống vì Đức Kitô. Tôi phải sống như thể tôi sống nhưng
không phải tôi sống mà là Chúa Giêsu sống trong tôi, để bất cứ ai nghe tôi là
nghe Chúa, và ai khước từ tôi là khước từ Ngài.
Thật là một vinh dự đáng tự hào, một trách nhiệm
lớn lao. nhiều lúc tôi tự hỏi trong thực tế mình đã nghe Lời Chúa để có thể nói
lời Ngài chưa ? Tôi dám chịu khước từ vì Ngài không ?
Lạy Chúa, xin cho biết lắng nghe Lời Ngài trong
thế giới hôm nay để con nhận ra và sống Lời Ngài trong những giây phút hiện
tại. (Hosanna)
Lm. Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
04/10/13 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Th. Phanxicô Átxidi
Lc 10,13-16
Th. Phanxicô Átxidi
Lc 10,13-16
TRUNG THÀNH VỚI LỜI CHÚA
“Ai nghe anh em là nghe Thầy;
và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã
sai Thầy.” (Lc 10,16)
Suy niệm: Lời của Thiên Chúa chính là nguồn mạch cho
việc loan báo của người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã cho biết như thế. Lời của Chúa
Cha là chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đến với trần gian. Chúa Giêsu ban
tặng Lời Chúa cho nhân loại và giao cho Giáo Hội tiếp tục sứ mạng loan báo của
Ngài. Do đó, Giáo Hội, nghĩa là mọi tín hữu, chỉ sống đúng bản chất của mình
khi tham gia vào sứ mạng loan báo này, mà lời họ loan báo phải là Lời của Thiên
Chúa. Vì thế, Chúa xác quyết: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ
anh em là khước từ Thầy.” Sứ mạng này đòi hỏi Kitô hữu trước hết phải
“Tin Mừng hóa” chính mình, nghĩa là phải cải hóa và canh tân liên tục theo Lời
Chúa. Con người hôm nay khước từ Lời Chúa có thể là bởi vì họ đã không nhận
thấy bằng chứng cho lời các Kitô hữu loan báo thể hiện qua đời sống của họ.
Mời Bạn: Bạn khó chịu vì những lời bạn loan báo không
được người nghe đón nhận, thế nhưng, có bao giờ bạn xét xem những lời bạn loan
báo có đích thực là Lời Chúa không? Và đời sống của bạn có làm cho những lời
loan báo đáng tin không?
Chia sẻ: Trong đời sống thường ngày, có dịp nào để bạn
loan báo Lời Chúa không? Bạn gặp khó khăn nào khi loan báo và khi đó bạn ứng xử
thế nào?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tâm niệm một câu Lời Chúa và loan báo
cho người khác điều bạn cảm nghiệm từ lời ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con trung thành với Lời Chúa và tin nhận
lời Chúa Cha ban là Lời Hằng Sống nuôi dưỡng nhân loại chúng con.
Suy niệm
Chúa Giê-su là
Thiên Chúa làm người, Người luôn hiền hậu và khiêm nhường, đầy lòng yêu thương
và nhân từ với mọi người, ngay cả tim đèn leo lét Người không nỡ dập tắt, cây
lau bị ngã, Người không nỡ bẻ gãy. Thế nhưng tại sao bài Tin Mừng hôm nay lại
ghi lại những lời quở trách nặng nề của Chúa dành cho những thành như:
Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum.
Chúa Giê-su xuống
thế làm người, sau 30 năm sống ẩn dật, Người ra đi rao giảng Tin Mừng, mạc khải
Thiên Chúa Cha, kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng. Những thành như
Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum là những thành dân Israel, được diễm phúc in
dấu chân của Chúa, được nghe những lời giáo huấn của Chúa, được chứng kiến
những phép lạ Chúa làm. Nhưng những con người ở những thành này lại lòng chai
dạ đá, cứng đầu cứng cổ, không chịu ăn năn sám hối, canh tân đời sống, khước từ
những lời giảng dạy của Chúa. Thế là Chúa phải thốt lên những lời quở trách xem
ra rất nặng nề: “khốn cho ngươi”. Giả như Chúa đến những thành dân ngoại
như Tyrô và Siđon để rao giảng thì họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa từ lâu
rồi. Vì thế trong ngày phán xét nhưng thành đó sẽ được xét xử khoan hồng hơn
những thành mà được Chúa rao giảng Tin Mừng và kêu gọi sám hối.
Vì sao những thành
dân Israel lại không chịu ăn năn sám hối và tin theo Chúa. Có thể họ quá biết
rõ con người Chúa Giê-su. Một con người xuất thân từ một gia đình nghèo ở một
làng quê hẻo lánh và nghèo khổ, con của một bạc thợ mộc tầm thường. Họ không
nhận ra nguồn gốc đích thực của Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Có thể họ tự hào
là dân riêng của Chúa, là con cháu của tổ phụ Abraham, nên sẽ được Thiên Chúa
nâng lên đến tận trời.
Hôm nay Hội Thánh
kính nhớ thánh Phanxicô Assisi, ngài là một trong những vị thánh có công canh
tân đời sống của Hội Thánh lúc bấy giờ. Ngài nhận thấy đời sống xa hoa, giàu
sang trong Hội Thánh khi đó. Ngài đã cảnh tỉnh Hội Thánh hãy ăn năn sám hối,
trở về với tinh thần nghèo khó, bằng cách ngài khước từ của cải tài sản đáng ra
ngài được thừa hưởng từ người cha. Nhờ đó, Hội Thánh nhận ra sai lầm và trở về
sống theo lời mời gọi của Chúa trong tinh thần nghèo khó vì Nước Trời.
Những lời chúc dữ
của Chúa Giê-su dành cho những thành như Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum
cũng là bài học cho chúng ta hôm nay.
Chúng ta cũng được
Chúa chọn làm dân riêng khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, được gia nhập vào cộng
đoàn Hội Thánh, được lắng nghe Lời Chúa, được Hội Thánh dạy dỗ và hướng dẫn,
nhất là Chúa ban cho chúng ta chính Mình và Máu Chúa để dưỡng nuôi linh hồn.
Thế nhưng đời sống của chúng ta nhiều khi chẳng khác gì một người không biết
Chúa, có khi còn tệ hơn nữa. Cũng bon chen, tranh giành, lọc lừa, mưu mô xảo
quyệt như người đời, khước từ những lời giáo huấn của Hội Thánh mà sống đạo
theo ý riêng của ta.
Lạy Chúa, xin
cho chúng con luôn biết nhận ra con người yếu đuối mong manh với những giới
hạn, để luôn đón nhận những lời dạy dỗ bảo ban của Chúa qua những giáo huấn của
Hội Thánh, qua những người thay mặt Chúa hướng dẫn. Đồng thời, xin Chúa ban
thêm ơn can đảm giúp chúng con thực tâm sám hối ăn năn về những lỗi phạm của
chúng con và không ngừng canh tân đổi mới đời sống sao cho phù hợp với thánh ý
của Chúa.
Lm. Seoka
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4
THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô
Assisi, Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn
mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một
sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó
ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối
sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của
Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh
Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của
con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau
khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu
tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng
trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng
hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần
như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các
thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột:
tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột
giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở
nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ
rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng.
Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa
Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài
gặp gỡ.
Người
tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được
gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự
nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng
thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ
đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng
ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa,
ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói:
“Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa
ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc
họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ
lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin
Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành
cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó,
nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống
lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình
và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
04-10
Thánh
Phanxicô Assisi; Br 1,15-22; Lc 10,13-16
LỜI SUY NIỆM: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi
Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và
Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi.”
(Lc 10,13)
Chúa Giêsu lên án nhưng con
người không biết quan tâm đến ơn cứu độ của Ngài, không biết quan tâm đến những
ân ban của Ngài trong cuộc sống, chỉ biết quan tâm đến cơm áo gạo tiền và tiện
nghi cuộc sống, mà đánh mất chính mình cùng nhân phẩm của mình cùng chà đạp lên
nhân phẩm của người anh em. Chúng ta cần phải ý thức lại với chính mình; như
xưa thời ngôn sứ Ba-rúc: “Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên
Chúa chúng tôi, không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng
tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục dịch
các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.”(Br
1,21-22)
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-10
Thánh PHANXICÔ ASSISIS
(1181 - 1226)
Thánh Phanxicô sinh tại
Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ong Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có,
lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc
gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành
và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị
để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ.
Năm 1201, Phanxicô tham gia
cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn
bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn
còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được
Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh
nhân.
Ngày 16 tháng 4 năm 1206,
Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô.
Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một
ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục,
thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa.
Hai năm sau, có lẽ vào ngày
24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi
đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục
ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai
người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21;
10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật
vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng
phê chuẩn.
Đức giáo hoàng Innocentê
III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình
này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm
huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần
Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi
việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ
coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng
liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như
các anh em thống hối nghèo miền Assisi.
Năm 1212, Phanxicô khích lệ
Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời
nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo
khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara.
Không bao giờ Phanxicô muốn
lập một "Hội dòng". Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng
một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình
thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi
nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho
các người lãnh đạo mà Ngài gọi là "Hiền mẫu" hay là "tôi tớ"
của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola.
Năm 1216, Phanxicô tham dự
đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường
Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ
trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau.
Năm 1219. Nhóm huynh đệ
tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu
tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes.
Chính Phanxicô, bất chấp những
cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp
Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học
thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng
hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo
của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống
tu trì.
Trước sức ép liên tục, bây
giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản
luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về
đàng thiêng lêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô
III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng)
Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm
huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ.
Chính Phanxicô lại lui vào
trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được
Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như
hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224,
Ngài đã viết "bài ca mặt trời". Năm 1226, Ngài viết chúc thư
(testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật
dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân.
Ngày 02 tháng 10 năm 1226,
sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ
trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH Grêgoriô
IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại
giáo đường do anh Elia xây cất.
(daminhvn.net)
Thứ Sáu 4-10
Thánh Phanxicô Assisi
(1182-1226)
Thánh Phanxicô Assisi là
một người nghèo hèn nhưng đã làm bàng hoàng và phấn chấn Giáo Hội bởi ngài sống
sát với phúc âm--không trong ý nghĩa cực đoan, nhưng thực sự sống theo những gì
Ðức Giêsu Kitô đã nói và hành động, một cách vui vẻ, không giới hạn và không
một chút tự tôn.
Cơn trọng bệnh đã giúp
chàng thanh niên Phanxicô nhận ra sự trống rỗng của một đời sống vui nhộn khi
còn là người lãnh đạo nhóm trẻ ở Assisi. Sự cầu nguyện--thật lâu giờ và thật
kham khổ--đã giúp ngài trút bỏ mọi sự để theo gương Ðức Kitô, đến độ ngài đã ôm
lấy một người cùi mà ngài gặp trên đường. Ðiều đó nói lên sự tuân phục những gì
ngài được thụ khải trong khi cầu nguyện: "Phanxicô! Mọi sự con yêu quý
và khao khát qua thân xác thì đó chính là điều con phải khinh miệt và ghét bỏ,
nếu con muốn biết ý định của Thầy. Và khi con bắt đầu thi hành điều này, tất cả
những gì đối với con dường như ngọt ngào và đáng yêu sẽ trở nên quá quắt và cay
đắng, nhưng tất cả những gì mà con thường hay tránh né sẽ trở nên thật ngọt
ngào và cực kỳ vui sướng."
Từ thánh giá trong một
nguyện đường bỏ hoang ở San Damiano, Ðức Kitô nói với ngài, "Phanxicô,
hãy đi xây dựng nhà của Thầy, vì nó đã gần sụp đổ." Phanxicô trở nên
một người hoàn toàn khó nghèo và là người lao động thấp hèn.
Chắc chắn ngài đã nghi
ngờ ý nghĩa sâu xa của câu "xây dựng nhà của Thầy." Nhưng ngài không
bằng lòng chấp nhận việc đi xin từng cục gạch về xây lại nguyện đường hoang phế
ấy. Ngài từ bỏ tất cả những gì ngài có, ngay cả đống quần áo ngài cũng trao lại
cho cha của mình (là người đòi Phanxicô bồi thường những gì ngài đã cho người
nghèo), để ngài hoàn toàn thuộc về "Cha trên trời." Thời gian ấy,
ngài bị coi là một người đạo đức "gàn dở", ngài đi ăn xin từng nhà
khiến các bạn cũ phải buồn rầu và ghê tởm, và bị những người thiếu suy nghĩ
nhạo cười.
Nhưng sự thực dần tỏ lộ.
Người ta bắt đầu nhận ra rằng con người này đang cố gắng trở nên một Kitô Hữu
đích thực. Ngài thực sự tin vào điều Ðức Kitô dạy: "Hãy đi công bố nước
trời! Ðừng mang theo vàng bạc, tiền của trong túi, đừng mang theo bao bị, giầy
dép, gậy gộc" (x. Luca 9:1-3).
Quy luật đầu tiên của
Phanxicô cho những người muốn theo ngài là thu lượm tất cả những văn bản của
Phúc Âm. Ngài không có ý thành lập một dòng tu, nhưng một khi tu hội thành
hình, ngài đã bảo vệ và chấp nhận mọi hình thức tổ chức hợp lý cần thiết. Sự
tận tụy và tuyệt đối trung thành với Giáo Hội của ngài quả thật là tấm gương
sáng trong một thời đại mà nhiều phong trào cải cách dường như muốn phá vỡ sự
hợp nhất của Giáo Hội.
Ngài bị giằng co giữa
một đời sống tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin
Mừng. Và ngài đã quyết định theo đuổi đường lối sau, nhưng luôn luôn trở về sự
tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội. Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi
Châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tầu và đau nặng. Ngài cũng
cố gắng hoán cải các vua Hồi Giáo ở Ai Cập trong lần Thập Tự Chinh thứ năm.
Trong những năm cuối
cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau
nặng. Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh, là những vết thương
thực sự của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài.
Trong giờ phút cuối
cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài Ca Anh Mặt Trời, "Ôi
lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người Chị Tử Thần." Ngài hát Thánh Vịnh
141, và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để
nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.
Lời Bàn
Thánh Phanxicô Assisi
trở nên nghèo hèn chỉ vì ngài muốn giống Ðức Kitô. Ngài yêu quý thiên nhiên vì
đó là một công trình mỹ miều của Thiên Chúa. Ngài hãm mình phạt xác để có thể
hoàn toàn phó thác cho thánh ý Chúa. Sự khó nghèo của ngài đi đôi với sự khiêm
tốn, mà nhờ đó ngài hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Nhưng
tất cả những điều ấy chỉ để dẫn vào tâm điểm của đời sống tâm linh của ngài:
sống đời sống phúc âm, đã được tóm lược nơi lòng thương xót của Chúa Giêsu và
được tỏ lộ cách tuyệt hảo nơi bí tích Thánh Thể.
Lời Trích
"Lạy Chúa Giêsu
Kitô, chúng con chúc tụng và ngợi khen Chúa, ở đây và trong toàn thể mọi nhà
thờ trên toàn thế giới, vì qua thánh giá của Ngài, Chúa đã cứu chuộc nhân loại"
(Thánh Phanxicô).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét