07/04/2016
Thứ Năm tuần 2 Phục Sinh
Bài Ðọc
I: Cv 5, 27-33
"Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với
Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem
các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: "Ta đã ra lệnh
cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý
các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ
trên chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Ðức
Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa
đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel
được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng
với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người?" Khi
nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 33, 2 và 9. 17-18. 19-20
Ðáp: Kìa người
đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng
tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết
Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.
2) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di
tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ
khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.
3) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những
tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng
Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 16, 7 và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ sai
Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 3, 31-36
"Ðức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn
quyền trong tay Con Ngài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng:
"Ðấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra,
thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Ðấng từ trời mà đến thì vượt
trên hết mọi người. Ðiều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó.
Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người,
thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa sai đến thì
nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến
Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời.
Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tin Vào Ngài Thì Sẽ Ðược Sống
Một chú sói xám đang quan sát xem có cách nào để lọt
vào vườn nho hầu làm giảm bớt cơn đói khát đang làm khổ mình. Tình cờ sói xám lọt
được vào một vườn nho có đầy quả chín mọng, thật là một điều may mắn. Những
chùm nho mơn mởn đang đong đưa trước gió, nhưng chúng lại quá cao, khiến sói ta
chẳng có cách gì với tới. Sói xám đành nằm dưới gốc nho há miệng chờ đợi xem
trái nho nào chín rụng chăng. Vừa đợi sói xám vừa thầm ước: "Ôi, những
trái nho ngon ngọt làm sao! Lúc này ước chi có được một trái nho rơi vào miệng
ta, chắc hẳn là tuyệt vời".
Chờ mãi, chờ mãi mà chẳng có một chút may mắn nào.
Soi xám nổi giận nguyền rủa: "Những chùm nho khốn kiếp, chùm nào rớt xuống
ta sẽ nghiền nát chẳng còn chút xót thương". Tuy nhiên, dù cho sói xám có
mơ ước hay nguyền rủa đến đâu đi nữa, thì những chùm nho vẫn điềm nhiên vui đùa
trước gió. Dưới đất chú sói rũ rượi nằm chờ và trên không những chùm nho vẫn tiếp
tục đong đưa trước gió.
Anh chị em thân mến!
Nếu không có mầu nhiệm cứu chuộc thì mãi mãi đất trời
xa cách và nhân loại vẫn luôn khao khát đợi chờ. Thiên Chúa đã đoái thương
trông đến những sự cùng cực khổ sở của nhân loại, Ngài đã bắc một nhịp cầu nối
liền trời với đất để cho con người hạ giới được no thỏa niềm vui thiên quốc.
Tiếp nối bài Tin Mừng hôm qua, Tin Mừng hôm nay cũng
trình bày cho con người về tình yêu thương ấy. Thật vậy, để tìm đến cội nguồn sự
thật của một công việc hay một biến cố, luôn luôn cần đến những người đã nghe
và đã thấy, vì họ là những người đã được chúng kiến.
Tòa án cần nhiều chứng để việc xét xử được trung thực.
Khế ước cần nhiều người chứng để công việc được minh bạch và bảo đảm. Lời nói của
người làm chứng càng giá trị khi họ là những người theo dõi sự việc suốt từ đầu
đến cuối, và chính bản thân họ là những người trực tiếp đến sự việc chứ không
qua trung gian một ai khác.
Trong hành trình tìm kiếm nguồn hạnh phúc đích thực
trên trời, nhân loại may mắn gặp được người chứng thực. Người này không phải chỉ
chứng thực mà thôi, nhưng đã sống từ đầu, và người ấy chính Chúa Giêsu.
Khi nói về Thiên Chúa Cha và những sự trên trời, thì
chẳng ai bằng Chúa Giêsu. Vì những điều Ngài nói, Ngài đã không lấy từ một nguồn
tài liệu nào cũng chẳng do ai kể lại, nhưng là những gì mà Ngài đã sống, vì
ngoài Ngài ra chưa một ai được lên trời.
Lời nói của Chúa Giêsu không những bảo đảm về sự thật
Nước Trời mà còn ban Nước Trời cho những ai đón nhận và tin vào lời Ngài, vì
Ngài là Thiên Chúa: "Cha yêu mến Con nên đã ban mọi sự trong tay
Ngài". Bởi thế, lời của Chúa Giêsu không đơn thuần chỉ trình bày chân lý,
nhưng còn đòi hỏi phải tin và sống theo. Nếu không mãi mãi mang lấy hình phạt.
Một dịp may đã đến với Nicôđêmô, ông đã gặp được
chính Ðấng từ trời xuống để nói về trời. Tuy nhiên, ông chưa được gọi là môn đệ
Ðức Kitô, vì ông chưa tin.
Hôm nay, Kitô hữu cũng có một may mắn như Nicôđêmô
là được gặp gỡ và hiểu biết về Ðức Kitô. Hệ luận của sự gặp gỡ này là: nếu
không tin và không sống điều đã lãnh nhận thì sẽ không được sống đời và phải nằm
dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Nguyện xin Ðấng có Lời ban sự sống đời đời ban thêm
sức mạnh cho mỗi người trong chúng ta để chúng ta luôn trung thành với những điều
Ngài đã chỉ dạy. Dù rằng thế giới hôm nay đang có nhiều khuynh hướng muốn đi
ngược lại với lời dạy của Ngài, muốn xóa bỏ gương mặt của Ngài hoặc muốn đuổi
Ngài ra khỏi tâm hồn của con người.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần II PS
Bài đọc: Acts 5:27-33; Jn 3:31-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần khiêm nhường nhận ra và chấp
nhận uy quyền của Thiên Chúa.
Vũ trụ quá bao la trong khi khả năng hiểu biết của
con người quá hạn hẹp. Nếu con người chưa biết hết được những gì xảy ra dưới đất,
làm sao có thể thông suốt những sự trên trời? Vì thế, con người cần tránh thái
độ “cóc ngồi đáy giếng.” Vì cóc chỉ thấy được một bầu trời hạn hẹp bằng miệng
giếng, cóc cho mình là nhất. Cóc có biết đâu bên ngoài miệng giếng là cả một vũ
trụ mênh mông!
Vũ trụ tiềm tàng bao sức mạnh kinh hồn trong khi con
người lại quá yếu đuối. Nếu con người chưa có sức mạnh đủ để đương đầu với những
sức mạnh của thiên nhiên (gió bão, núi lửa, động đất), làm sao con người có thể
chống lại uy quyền của Thiên Chúa? Nếu con người vẫn ngoan cố chống chọi uy quyền
của Thiên Chúa, khác nào như con người lấy trứng chọi vào đá!
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người biết khả
năng hạn hẹp của mình. Trong Bài Đọc I, khi Thượng Hội Đồng cấm các tông đồ
không được rao giảng đạo lý Đức Kitô; các tông đồ cương quyết bảo vệ lập trường
của mình: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu nhắc nhở cho mọi người về nguồn gốc của Ngài: “Đấng từ trên cao mà đến
thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới
đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.
Trong Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả
các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên,
Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn con người phải chịu trách
nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy có can đảm chấp nhận và
tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi cho người khác.
1.1/ Các Tông-đồ trình bày niềm tin của mình: Mặc dù các
ông đã chối từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện
ra, các ông đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của
Thánh Thần, các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người:
Trước tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức
Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi
người nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã
làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt
làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”
Khi bị Thượng Hội Đồng đe dọa và ngăn cấm không cho
rao giảng Danh Chúa Giêsu, ông Phêrô và các Tông-đồ khác đáp lại rằng: "Phải
vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”
1.2/ Phản ứng ngoan cố của Thượng Hội Đồng: Đã sai lầm
khi luận tội và xin đóng đinh Chúa Giêsu, họ vẫn không chịu nhận tội khi các
Tông-đồ làm chứng cho Ngài. Vị Thượng Tế hỏi các Tông-đồ: "Chúng tôi đã
nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm
cho Jerusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ
trên đầu chúng tôi!" Khi các Tông-đồ trả lời phải vâng lời Thiên Chúa hơn
vâng lời người phàm, họ giận điên lên và muốn giết các ông.
Một câu trả lời hết sứ hợp lý, nhất là cho những con
người mang tiếng bảo vệ Lề Luật của Thiên Chúa; thế mà họ không nhận ra sự thật,
lại còn để cho sự kiêu ngạo và ghen tị thống trị con người họ, và dùng sức mạnh
để áp đảo các Tông-đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật; nhưng thực ra họ coi thường
Lề Luật; chẳng hạn: (1) Họ kết án Chúa Giêsu mà không điều tra về Ngài như Lề
Luật đòi hỏi; (2) Họ đòi đóng đinh Chúa vào thập giá ngay cả khi một người ngoại,
Philatô, đã tuyên bố Ngài vô tội; và (3) Họ đe dọa, đánh đòn, và muốn giết cả
hai nhân chứng, Phêrô và Gioan, khi các ông muốn làm chứng cho Chúa Giêsu. Nói
tóm, họ không còn biết gì đến Lề Luật như chức vụ họ đòi phải thi hành; nhưng họ
để cho tính nóng giận và sự ghen tức làm chủ, để rồi chỉ biết dùng bạo lực để
đàn áp người vô tội.
2/
Phúc Âm: Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời.
2.1/ Chúa Giêsu mặc khải cho con người những gì từ
Thiên Chúa: Chân lý căn bản con người cần khiêm nhường nhìn nhận: “Đấng từ trên cao
mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện
dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.” Tiên tri Isaiah cũng từng
tuyên sấm những gì Thiên Chúa nói: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và
đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu (Isa 55:9).
Vì có sự khác biệt lớn lao như thế, nên con người
không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều đó không được mặc khải và
soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người những mầu nhiệm
của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người để họ có thể hiểu những
chân lý này. Chúa Giêsu nói: “Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã
nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì
xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”
Sở dĩ con người không tin vào Đức Kitô là vì từ trước
tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết, theo lời các ngôn sứ, Thiên
Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân; nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ
dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ không phải bằng khiêm nhường
chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa cho họ biết về sự liên hệ
giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ từ chối không
tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở cho họ biết nếu họ chưa thông
suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc trên trời.
2.2/ Hậu quả của việc nhìn nhận hay chối từ Con
Thiên Chúa: Nếu một người nhìn nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đi, họ sẽ được
hưởng sự sống đời đời, được nhận lãnh Thánh Thần, và được hưởng muôn hồng ân mà
Thiên Chúa Cha đã trao vào tay Người Con. Nếu họ từ chối không tin Đức Kitô là
Đấng được Thiên Chúa sai đến, họ sẽ không được hưởng sự sống đời đời, nhưng cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để nhận biết sự khôn ngoan và
uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải nhìn nhận khả năng giới hạn và sự yếu
đuối của mình. Có như vậy, chúng ta mới biết cách sống làm sao cho đúng và đạt
được kết quả tốt đẹp cho cuộc đời.
- Ai tuyên bố phải hiểu mới tin là người kiêu ngạo
và rồ dại. Kiêu ngạo vì cho mình có thể thông suốt mọi sự trên trời cũng như dưới
đất. Rồ dại vì không biết giới hạn của mình và bỏ lỡ cơ hội để học hỏi những điều
mới lạ.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
07/04/16 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 2 PS
Thánh Gio-an La-san, linh mục
Ga 3,31-36
Thánh Gio-an La-san, linh mục
Ga 3,31-36
Suy niệm: Người ta không thể sống mà không tin vào bất
cứ ai, hoặc bất cứ cái gì. Những người như thế chỉ còn cách ra hoang đảo mà
sống. Nếu chỉ để sống cuộc đời “tạm” này mà con người còn cần phải có niềm tin,
thì huống hồ là để được sống đời đời, con người tất yếu cũng phải tin. Tin để
được sống đời đời, cuộc sống siêu việt, thì niềm tin ấy cũng phải đặt vào Đấng
Siêu Việt, Đấng là chính sự sống đời đời. Đấng ấy chính là “người Con” của
Thiên Chúa, là Đức Giê-su Ki-tô. Thực ra sự sống đời đời đã được ban cho con
người ngay từ thuở ban đầu nhưng con người đã phạm tội và đánh mất nó; nay nhờ
Con Thiên Chúa chịu chết và phục sinh, sự sống đời đời được ban lại cho những
ai đặt niềm tin nơi Ngài. Chính vì thế Chúa Giê-su đã khẳng định: “Ai
tin vào người Con thì được sự sống đời đời” (Ga 3,36).
Mời Bạn: Thánh
Phao-lô lặp lại chân lý ấy: “Nếu
miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm
cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9). Chân lý ấy không chỉ để phát biểu, mà bạn và
tôi còn cần đón nhận và “sống” nó nữa. Đó là gắn kết thành một thân thể với
Ngài qua việc lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và đi theo Ngài qua việc thực hành
giáo huấn của Ngài.
Chia sẻ: Bạn
đã thật sự tin vào Chúa Giêsu hay chưa? Nếu đã tin, bạn nghĩ phải sống thế nào
cho phù hợp?
Sống Lời Chúa: Suy
niệm Lời Chúa, lãnh nhận Thánh Thể và thực hành bác ái huynh đệ đó là việc
thường ngày của bạn nếu bạn muốn là Ki-tô hữu thực sự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là sự sống đời đời của con. Xin cho con vững
tin vào Ngài. Amen.
Đấng từ trên cao mà đến
Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu. Cha tôi yêu
mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha, Người vẫn ở với tôi và không để
tôi cô độc.
Suy
niệm:
Giêsu
ơi! Ngài từ đâu đến?
Tôi
là Đấng từ trên cao mà đến.
Tôi
là Đấng từ trời mà đến (c.31).
Tôi
sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất.
Nhưng
tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi.
Gốc
của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).
Dù
cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.
Khi
làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.
Giêsu
ơi! Ngài làm gì vậy?
Tôi
làm chứng về điều tôi đã thấy và đã nghe (c. 32).
Tôi
làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi.
Tôi
đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói.
Nhiều
vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa
và
cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người.
Nhưng
họ không phải là Con như tôi.
Họ
chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi.
Chẳng
ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).
Chỉ
mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.
Giêsu ơi! Ngài là ai?
Tôi
là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).
Chẳng
có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai.
Chẳng
có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.
Khi
nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.
Tôi
đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó.
Tôi
chẳng làm điều gì tự mình,
tôi
chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).
Tôi
chẳng nói điều gì tự mình,
tôi
chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26).
Chính
khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.
Giêsu
ơi! Ngài có hạnh phúc không?
Tôi
hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu.
Cha
tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),
Người
vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29).
Người
yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).
Tình
yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).
Tôi
có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.
Bởi
vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).
Hãy
đón nhận lời chứng của tôi (c. 33).
Hãy
tin vào tôi để được sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).
Hãy
đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.
Cầu
nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Charles de Foucauld)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7
THÁNG TƯ
Được
In Dấu Ấn Sự Sống
Chúng
ta hãy cảm tạ vì cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Kitô. Chúng ta hãy cảm tạ vì
Chúa Cha đã tôn vinh Người. Người là Đấng đã hủy mình ra không, “trở thành vâng
phục cho đến chết, chết trên Thập Giá” (Pl 2,8).
Vâng,
công cuộc cứu chuộc thế giới được hoàn tất trong cuộc Phục Sinh của Người. Dấu ấn
của sự chết đã được tháo gỡ khỏi ngôi mộ đá lạnh lùng. Và dấu ấn sự sống đã được
đóng vào trái tim của những người tin. “Đức Kitô đã chịu hiến tế để làm chiên lễ
Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7).
Chúng
ta hãy cảm tạ vì hy tế của Đức Giêsu – hy tế đã đạt tới chính ngai tòa của Chúa
Cha. Chúng ta hãy cảm tạ vì tình yêu của Chúa Cha – tình yêu đã được mạc khải
nơi cuộc Phục Sinh của Chúa Con.
Chúng
ta hãy cảm tạ vì hơi thở của Chúa Thánh Thần Đấng trao ban sự sống. Hơi thở này
được đón nhận bởi các Tông Đồ, qui tụ tại căn gác thượng theo chỉ thị của Đức
Giêsu. Đức Kitô sẽ đến giữa họ, ngay cả xuyên qua những cánh cửa đóng kín. Người
sẽ nói với họ: “Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội
người ấy được tha… “ (Ga 20,22-23).
Chính
từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu mà chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi của
chúng ta. Cuộc hoán cải của chúng ta xảy ra nơi chính Thập Giá của Người. Và
nơi cuộc Phục Sinh của Người, chúng ta chiến thắng trên tội lỗi của mình. Người
đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Người đã trao cho
chúng ta chính sự sống của Người, Người mở lối cho chúng ta bước vào sự sống
vĩnh cửu bất diệt.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
07-4
Thánh
Gioan Lasan, linh mục
Cv
5, 27-33; Ga 3, 31-36
Lời
suy niệm: “Đấng
được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần
Khí cho Người vô ngần vô hạn.”
Trong
Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thấy được, những nhác sợ của các ông đã được xóa mất
sau khi nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên cam đảm, khôn ngoan trong
việc đối đáp và rao giảng trước mọi thế lực muốn chống lại chương trình: “Loan
Báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa.” Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh sử Gioan
đang giới thiệu Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu được Thiên Chúa
sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, và mọi sự đã được giao cho Người, để
những ai tin vào Người thì được sự sống đời đời.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúng con tin Chúa là Chúa của chúng con và là Đấng Cứu Độ của
chúng con. Xin Cho chúng con có lòng ham thích đọc và học hỏi Lời Chúa để chúng
con ngày càng được trưởng thành trong đức tin và yêu mến Chúa nhiều hơn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
07-04
Thánh
GIOAN LASAN
Linh
Mục (1651 - 1719)
Thánh
Gioan Lasan là bổn mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc
cung ứng một hệ thống giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo
như bị bỏ rơi hoàn toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà
là việc tạo lập nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính
nỗ lực này đặt nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.
Không
phải khuynh hướng tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật
vậy, hoàn cảnh gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một
chuẩn bị cho Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan
Baotixita, là con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị
lẫn gia tài của cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông
dân chúng nghèo khổ.
Vào
tuổi 16, khi đang theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons
enfants), thánh nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học
tại chủng viện Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong
linh mục năm 27 tuổi.
Cho đến
lúc này, chưa có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài. Nhưng
ít lâu sau, Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê hương xứ sở
mình. Việc này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn Ngài tới chỗ
đưa họ về nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa quan phòng định
cho Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho dân nghèo, lớp dân
bị xỉ nhục trong "thế kỷ huy hoàng" vì sự hư dốn và ngu dốt của họ.
Chọn
thánh ý Thiên Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình
trọn vẹn cho công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy
cũng một địa vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những
người đồng hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được
quyết định của Ngài.
Năm
1684, Ngài biến đổi nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với
danh hiệu Sư huynh. Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày
nay, phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực
giáo dục, Ngài nhận định rằng: sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một
linh mục nào vào dòng. Luật này ngày nay vẫn còn được áp dụng.
Những
năm đầu, hội dòng rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết
chịu đựng và vững tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : - Tại
sao mà không tin tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu
thốn.
Mối
quan tâm chính của Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy
không thể thỏa mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo
viên, năm 1678 Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên
trong lịch sử giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.
Sau
khi lập trường ở những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ
Thánh Xuân Bích (Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công
trình lan rộng mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn
phí cho các bạn trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn
sóc các thiếu niên Ai Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo
nhu cầu của họ.
Mục
đích tốt đẹp của Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học
sinh và học phí. Họ kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án
và bị cấm không được mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên
Ngài cũng bị trục xuất khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng
sang nhiều nơi khác và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.
Ở Rouen,
Ngài đã lập hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí, cho học
sinh miền quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi đời.
Cả hai đều rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời ở
Rouen để kiện toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác phẩm
Meditations (nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực hành
tâm nguyện)
Ngài
từ trần ngày thứ sáu tuần thánh 09 tháng 04 năm 1719.
(daminhvn.net)
07
Tháng Tư
Bình An Trong Tâm Hồn
Purna,
một môn đệ của Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng
còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi
lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến:
"Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn
ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm
hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu,
mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật
sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện,
vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá
con". Ðức Thích Ca tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném
con, thì con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con
vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không
cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".
Nghe
môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp:
"Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt
lìa đời?". Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng
con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải
thoát con khỏi thân xác hay hư nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo:
"Purna, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa,
kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân
Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến
và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những
ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết
nghĩ tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng
ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình
nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến,
nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù,
ghen ghét.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét