Trang

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

17-04-2016 : (phần II) CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH - CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

17/04/2016
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH năm C
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật IV Phục Sinh - Năm C
CHÚA NHẬT IV MÙA PHỤC SINH
NĂM C

LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH
Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17
Ga 10,27-30
Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta;
Ta biết chúng và chúng theo Ta

(Ga 10,27)
I. CÁC BÀI ĐỌC:
Thiên Chúa Giavê được biết đến trong Kinh Thánh Cựu Ước như Vị Mục Tử nhà Israel, như Đấng chăn giữ nhà Giuse. Hình ảnh người mục tử và đàn chiên có thể còn xa lạ đối với nhiều người Việt chúng ta, nhưng đối với những dân tộc đã trải qua lối sống du mục như dân Israel, thì đây lại là những hình ảnh thường xuyên đập vào mắt họ, gần gũi và thân thương đến độ có thời đã trở nên “kinh điển” trong văn chương Kinh Thánh, khiến không ít tác giả Kinh Thánh (nhất là những vị đã được ơn linh hứng để nói ra hay viết lại các áng văn trong các thánh vịnh, và trong sách ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien) đã không ngần ngại dùng hai hình ảnh này để nói về tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và dân Người.
Trong lúc loan báo Tin Mừng Nước Trời, chính Chúa Giêsu cũng đã dùng hình ảnh người Mục Tử Nhân Lành để nói về chính mình, để bày tỏ chính mình cho chúng ta, hôm qua cũng như hôm nay. Người cũng dùng hình ảnh đàn chiên để nói về những ai đi theo Người, những ai thuộc về Người.  
Trong Cựu Ước, một số thánh vịnh và các bản văn tiêu biểu trong sách ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien đã trình bày cho chúng ta một số nét chính quan trọng về Thiên Chúa như Vị Mục Tử Nhân Lành. Những nét tiêu biểu này có thể được tóm lược lại như sau:
1/ Thiên Chúa Giavê là Vị Mục Tử nhà Israel, là Đấng chăn giữ nhà Giuse (x. Tv 80,1). Còn Israel là đoàn chiên do tay Người dẫn dắt (x. Tv 79,13). Trong tư cách Vị Mục Tử Nhân Lành, Thiên Chúa là Đấng đã làm cho dân Israel được no thỏa, họ chẳng thiếu thốn gì; Người dẫn dắt họ tới nguồn nước trong lành và bổ sức cho họ. Người làm cho dân Israel không còn phải khiếp sợ trước quân thù, hay rơi vào cảnh hãi hùng khi đối diện với những bước thăng trầm của lịch sử. Người dẫn dắt Israel bước vào nẻo chính đường ngay, bước đi trên con đường cứu độ của Người (x. Tv 23,2-3).  
2/ Thiên Chúa Giavê là Vị Mục Tử Nhân Lành nhà Israel vì Người không bao giờ loại bỏ dân Người. Với những con chiên lạc nhà Israel, Vị Mục Tử Nhân Lành đưa về, thâu nhận họ lại, và canh giữ họ như mục tử canh giữ đàn chiên (x. Gr 31,10).
3/ Trước một dân Israel đang sống xa cách Thiên Chúa của mình, Thiên Chúa không ngừng kêu gọi họ hoán cải, trở về với Người, đồng thời Người hứa ban cho họ những vị mục tử đẹp lòng Người; những vị mục tử này sẽ khôn ngoan sáng suốt chăn dắt dân Người (x. Gr 3,14-15).
4/ Khi dân Israel đang sống trong cảnh lưu đày tại Babylon, Thiên Chúa ưu ái hứa với họ: Người sẽ đưa họ trở về quê cha đất tổ, đồng thời Người sẽ ban cho họ một Vị Mục Tử Mới, một Đavit mới, để hướng dẫn họ (x. Ed 34,23-24).
Người tín hữu Công Giáo chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Kitô chính là Vị Mục Tử mà ngôn sứ Êdêkien đã nói tới. Người không phải chỉ là một trong số những vị mục tử sống đẹp lòng Thiên Chúa, nhưng Người là Vị Mục Tử Tối Cao, làm đẹp lòng Thiên Chúa mọi đàng. Được kể là Con Vua Đavit, nhưng Đức Giêsu đích thực là Đức Chúa của chính vua Đavit, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Người đồng thời là thủ lãnh của các vị mục tử nhân loại khác, vốn đảm nhận sứ mạng mục tử từ nơi Người.
Qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu Kitô đã hoàn toàn chiến thắng tử thần, qua đó, Người giải thoát chúng ta là đoàn chiên của Người khỏi bóng đêm của tội và sự chết, để chúng ta cùng được vinh thắng với Người. Đây cũng là những sứ điệp chính mà ba bài đọc Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh, cũng là Chúa Nhật Lễ Chúa Chiên Lành, muốn nêu bật. Thật vậy, Bài Tin Mừng theo thánh Gioan (x. Ga 10,27-30) cho chúng ta nhận ra hai điểm quan trọng:
1/ Chúa Giêsu dùng hình ảnh “Vị Mục Tử” và “đoàn chiên” để nói đến tương quan mật thiết giữa Người và những ai theo Người. Theo đó, Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, Người biết từng con chiên trong đàn. Người ban sự sống đời đời cho đoàn chiên. Những ai biết nghe tiếng Người và theo Người thì lãnh nhận được sự sống đời đời từ nơi Người.
2/ Đàn chiên là quà tặng Chúa Cha ban cho Người. Người luôn trân trọng món quà quý giá này. Ngài luôn gìn giữ và bảo vệ đàn chiên mà Chúa Cha trao ban cho Người, và không ai có thể cướp đàn chiên từ tay Ngài và cũng như từ Chúa Cha.
Còn trong Bài đọc 1, trích từ sách Tông Đồ Công Vụ (x. Cv 13,14.43-52), tác giả Sách Thánh cho chúng ta thấy sức mạnh và ơn cứu độ của Chúa Kitô Phục Sinh không hề bị giới hạn vào một biên giới hữu hình nào. Người không chỉ là Vị Mục Tử của một số các môn đệ đầu tiên, vốn đa phần là những người Do-thái. Người còn là Vị Mục Tử của tất cả những ai mở lòng ra đón nhận Người, cho dù họ thuộc về một nền văn hóa hay sắc dân nào đi nữa. Không ai vì lý do sắc tộc, văn hóa, hay tôn giáo mà bị loại trừ khỏi lòng xót thương và ơn cứu độ của Người. Cũng như không ai có thể ngăn cản Người tỏ lòng xót thương và ơn cứu độ cho muôn người.
Thật vậy, khi nhiều người Do-thái tại Antioch miền Pisidia, vì sinh lòng ghen tức, mà tự đóng sập cửa lòng mình lại trước sứ điệp cứu độ mà hai tông đồ Barnabas và Phaolô loan báo, thì công cuộc loan báo Tin Mừng của hai vị tông đồ không vì thế mà chựng lại. Trái lại, hai vị tông đồ quyết định hướng về phía dân ngoại, mở ra những vùng đất truyền giáo mới đầy hứa hẹn cho Giáo Hội thời sơ khai, làm cho nhiều người trở nên môn đệ của Chúa Kitô Phục Sinh, trở thành đoàn chiên của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Cuối cùng, bài đọc 2, trích từ Sách Khải Huyền (x. Kh 7,9.14b-17), cho chúng ta thưởng nếm cảnh giới hạnh phúc trên Thiên Quốc dành cho những ai được ân thưởng ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, sau khi họ đã trải qua nhiều gian nan thử thách lớn lao trong hành trình sống đức tin của mình. Trong đoạn Sách Thánh này, Chúa Giêsu Phục Sinh, Vị Mục Tử Nhân Lành của chúng ta, lại được trình bày qua hình ảnh “Con Chiên” đang ngự giữa ngai với Thiên Chúa. Trước ngai Thiên Chúa và trước Con Chiên có một đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi đang “mặc áo trắng”, tay cầm nhành lá thiên tuế. 
Tấm áo trắng mỗi người đang mặc trên mình chính là tấm áo “họ đã giặt sạch và tẩy trắng trong máu Con Chiên”. Cành thiên tuế họ cầm trên tay là dấu hiệu của cuộc chiến thắng, cuộc vượt qua từ sự chết để đi vào sự sống mới với Thiên Chúa và với Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Sau khi trải qua bao gian nan thử thách lớn lao trên đời, giờ đây trên thiên quốc, họ được ân thưởng đứng “chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”, cất cao tiếng ngợi khen tung hô Thiên Chúa, Đấng đã cứu độ họ.
Những vị này không còn phải sống trong cảnh đau khổ và bị bách hại nữa, vì Con Chiên đang ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh, nghĩa là, Con Chiên, trong vai trò của Vị Mục Tử như chính Thiên Chúa Giavê trong Cựu Ước (x. Tv 23, 2-3), sẽ ban cho họ sự sống muôn đời bên Thiên Chúa.  
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN TỈNH
1/ Ngôn ngữ Kinh Thánh dùng hình ảnh Vị Mục Tử và đàn chiên để nói về tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và Dân Người. Theo bạn, hai hình ảnh này có ý nghĩa gì? Là người tín hữu Công Giáo Việt Nam, vốn thuộc một nền văn hóa và ngôn ngữ khác với dân Israel, bạn nghĩ chúng ta có thể dùng hình ảnh nào khác để nói về tương quan thiết thân giữa Thiên Chúa và người tín hữu?
2/ Chúa Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, để chúng ta được sống và sống dồi dào. Theo bạn, các vị mục tử của chúng ta cần thể hiện những đặc tính nào để đoàn chiên được Thiên Chúa trao phó cho các ngài có thể tăng trưởng và tiến triển theo lòng Chúa mong ước?
3/ Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu làm linh mục, tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội. Bạn đã, đang và sẽ làm gì cho những ai đang sống và sẽ sống ơn gọi cao quý này trong Giáo Hội? Nếu cảm nhận mình cũng được Chúa kêu gọi trở nên vị mục tử cho đoàn chiên của Chúa, bạn sẽ làm gì?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã sai Đức Giêsu Kitô đến trần gian như vị mục tử tốt lành để quy tụ nhân loại thành một đoàn chiên duy nhất. Trong ngày cầu nguyện cho ơn gọi hôm nay, chúng ta hân hoan cảm tạ Chúa và tha thiết dâng lời nguyện xin:
1. Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các vị mục tử trong Hội Thánh luôn sẵn sàng quên mình, tận tình phục vụ đoàn chiên Chúa trao phó, và đem đến cho họ sức sống dồi dào.
2. Trên thế giới hiện nay còn rất nhiều người chưa thuộc về ràn chiên của Chúa. Chúng ta cùng cầu xin cho những ai chưa tin nhận Chúa Kitô được đón nhận hồng ân đức tin, qui tụ về một đoàn chiên duy nhất trong Hội Thánh hầu được hưởng ơn cứu độ muôn đời.
3. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.” Chúng ta cùng cầu xin cho có nhiều người trẻ biết lắng nghe và quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi, dấn thân trong đời sống tu trì và nỗ lực trở nên những thợ gặt lành nghề cho cánh đồng truyền giáo bao la.
4. Cỗ võ và nâng đỡ ơn gọi là trách nhiệm chung của mọi người. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tích cực đóng góp vào công cuộc đào tạo linh mục tu sĩ, bằng lời cầu nguyện và sự nâng đỡ cả tinh thần lẫn vật chất.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là cha rất nhân từ, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con luôn nhận biết tiếng của Đức Kitô Mục Tử, cùng hăng say sống theo gương yêu thương phục vụ của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Chủ đề :
Mục tử nhân lành

"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi"
(Ga 10
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày Chúa Giêsu là người mục tử tốt lành : Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài thí mạng sống vì chúng ta, và Ngài dẫn chúng ta tới sự sống thật. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở thành chiên của Ngài, không phải những con chiên bướng bỉnh mà là những con chiên biết chủ mình là ai, biết tiếng chủ và ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ.
II. Gợi ý sám hối
- Chúa Giêsu muốn dẫn chúng ta tới sự sống thật, còn chúng ta nhiều khi từ chối không nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
- Chúa Giêsu biết rất rõ từng người chúng ta và yêu thương chúng ta vô cùng, thế mà lắm khi chúng ta hồ nghi tình thương của Chúa.
- Chúa Giêsu đã chịu biết bao đau khổ vì chúng ta, còn chúng ta nhiều khi gặp đau khổ thì nản lòng như kẻ không có đức tin.

III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cv 13,14.43-52)
Việc truyền giáo của Phaolô và Barnaba tại Antiôkhia miền Pixiđia :
- Theo thói quen, Phaolô rao giảng Tin Mừng cho người do thái trước tiên.
- Nhưng vì họ từ chối, nên Phaolô quay sangh rao giảng cho dân ngoại.
- Dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin Mừng và tôn vinh Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 99)
Câu quan trọng nhất trong Tv này, và cũng là câu được dùng làp câu đáp, là : "Chúng ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt".
3. Tin Mừng (Ga 10,27-30)
Chúa Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản thân Ngài : Ngài là mục tử : "Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất"
4. Bài đọc II (Kh 7,9.14-17)
Thị kiến của Gioan tông đồ về dân thánh Chúa :
- họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ
- họ đứng trước ngai Con Chiên
- Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát
Dương Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô : "Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc". Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" (Ga 10,27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa ; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trát tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phao lô viết : "Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô" (Rm 10,17).
- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augúttinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì ? Đức Ki tô đã trả lời : "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10,28). Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người : "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha" (Ga 10,29). Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa !
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ để chúng con được nằm gọn trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho chúng con luôn đi theo Chúa là chủ chiên nhân lành của cuộc đời chúng con mà thôi. Amen. (TP)
* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục
Trong một quyển chuyện đề tựa "Quyền lực và vinh quang", nhà văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở Nam Mỹ : Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các Linh Mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa số các linh Mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại thì cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một Linh mục. Ông này ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một Linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu Linh mục thì họ lại cần tới ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu. Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền : rửa tội một em bé là mấy đồng, giải tội một người là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự lễ là mấy đồng... tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích nên ông Linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước lúc bị bắn, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa tay ban phép giải tội cho ông, đó là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.
Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều :
Thứ nhất : Linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người công giáo được bàn tay Linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng : Khi ta vừa mới sinh ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta ; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình Thánh Chúa cho ta rước lễ ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta ; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta ; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao ? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thôn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho họ.
Thứ hai : Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc " Này là Mình Ta" thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng ; ông nói "Ta tha tội cho con" thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân..
Hôm nay là ngày Giáo hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta : chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài". Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn. Xin gì ?
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
Xin cho những người đang theo tiếng gọi của Chúa hôm nay, tức là các chủng sinh, các em dự tư, được bền tâm vững chí. Dù hoàn cảnh có nhiều khó khăn, nhưng Chúa đã nói "Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được rỗi".
Xin cho các linh mục của chúng ta được xứng đáng là những phương tiện tốt Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân, nghĩa là xin cho các ngài được thánh thiện và bình an chăm lo việc đạo đức cho giáo dân.
* 3. Bài giảng của Thánh Cyrillô thành Alexandria (+ 444)
Dấu hiệu phân biệt ai là con chiên của Đức Kitô, ấy là thái độ sẵn sàng lắng nghe và vâng phục, trong khi dấu hiệu cho biết những con chiên lạ là sự cứng đầu.
"Lắng nghe" là chấp nhận điều được nói. Những người "lắng nghe" như thế thì "được Thiên Chúa biết", nghĩa là kết hợp với Thiên Chúa.
Thực ra chẳng ai mà Thiên Chúa không biết. Vì thế khi Đức Kitô nói "Ta biết các chiên Ta" thì có nghĩa là "Ta sẽ đón nhận chúng và cho chúng kết hợp với Ta bằng một sự hợp nhất huyền nhiệm và trường tồn".
Đức Kitô còn nói : "Các chiên của Ta thì đi theo Ta". Thực vậy, nhờ ơn thánh, các tín hữu đi theo những bước chân của Đức Kitô. Họ không tuân giữ những quy định của Lề luật, vì thực ra đó chỉ là hình bóng. Đúng ra là họ đi theo những giới răn của Đức Kitô và nhờ đó vươn mình lên tới tầm cao của ơn gọi làm con Thiên Chúa. Khi Đức Kitô lên trời, họ cũng được lên theo.
"Ta ban cho chúng sự sống đời đời" : đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu "sự sống" này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Ngài, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Ngài, như lời Ngài nói : "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời" (Ga 6,54)
* 4. Thuộc về đàn chiên của Chúa
Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu thương, đó là một cảm giác vô cùng an ủi. Ai mà không muốn thuộc về đàn chiên của Chúa ! Thế nhưng thế nào là thuộc về đàn chiên Chúa ? Muốn thuộc về đàn chiên Chúa thì phải làm sao ?
- Thứ nhất là phải tin vào Ngài : chúng ta gia nhập đoàn chiên Chúa và trở thành tín hữu, nghĩa là người tin.
- Nhưng tin chỉ mới là bước thứ nhất. Bước thứ hai là phải nghe tiếng Ngài : "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta". Nghe tiếng Chúa Giêsu nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ.
- Thứ ba là đi theo Ngài : "Chiên của Ta đi theo Ta". Theo Chúa là thực hành lời Ngài dạy.
Liên hệ giữa chúng ta với Chúa phải là hai chiều. Con chiên phải chọn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu không muốn và cũng không thể cứu ta ngược với ý muốn của ta. Nhưng chỉ cần ta thực lòng muốn và cố gắng thuộc về Ngài thì Ngài sẽ chăm sóc ta trong cuộc sống và trong cái chết nữa. Ngài hứa ban cho ta sự sống đời đời : "Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong".
Nhưng như thế không có nghĩa là hễ thuộc về Chúa thì sẽ được Ngài bảo đảm cho có một cuộc sống dễ chịu ở đời này đâu. Ngược lại là đàng khác. Những kẻ thuộc về Chúa có thể bị bách hại, nhưng ai vẫn trung thành thì sẽ được chia phần vinh quang của Ngài trên trời (bài đọc 2). Gian truân và thử thách là những cơ hội để ta chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục Chúa.
Đàn chiên là hình ảnh của nếp sống cộng đoàn. Ngay cả trên bình diện nhân loại thôi thì ai cũng cần có cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Chúa muốn những kẻ theo Ngài phải sống trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta tìm được sự nâng đỡ, khuyến khích và tình thân. Chúng ta không thể thuộc về Chúa Giêsu mà không thuộc về đoàn chiên của Ngài. (FM)
* 5. "Ta biết chiên của Ta"
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận ra ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quý ngài đến nỗi khi ngài lâm trọng bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người còn xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, Thánh Gioan Boscô đã khoẻ lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói "Ta biết chiên của Ta". Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều mức độ biết : có khi chỉ là biết mặt, biết tên ; có khi biết như một người quen ; có khi biết như một người bạn thân thiết.
Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà văn do thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong trại tù Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự : "Tôi chưa bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi đã biết quá ít về người mà tôi yêu quý nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một cái cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp phải vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có nét mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn ăn không ?"
E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng than của rất nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ không biết con cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng, nhưng nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu nhiều mất mát. Đời sống trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà không biết nhau thì không thể yêu thương nhau được.
"Biết" là điều rất quan trọng đối với những người-chăm-sóc (carers). Những người-chăm-sóc cần biết kẻ mà mình chăm sóc. Bước đầu là biết tên. Nhưng muốn biết thật thì phải biết cả lịch sử cuộc đời họ. Nếu không biết họ đến với ta từ một thế giới như thế nào và sẽ trở về một thế giới như thế nào thì ta chỉ coi họ như một chiếc bóng mà thôi.
Nhưng cái "biết" phải có hai chiều. Chúa Giêsu biết chiên của Ngài và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Chúa Giêsu không sợ để cho người ta biết mình. Còn chúng ta đôi khi lại sợ. Chúng ta không muốn người khác đi vào cuộc sống chúng ta, biết chúng ta nghĩ gì, cần gì, đang lo buồn về chuyện gì và đang hy vọng những gì. Có lẽ vì chúng ta sợ người ta biết mình rõ quá rồi sẽ từ chối mình. Từ đó chúng ta chỉ muốn người ta biết chúng ta qua cái vẻ bề ngoài mà chúng ta cố tỏ ra. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể tạo được một tình cảm trìu mến với người khác nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách với họ và không cho họ biết rõ chúng ta ?
Đối với Chúa cũng vậy. Ngài là mục tử tốt lành. Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống đời này và cả đời sau nữa. Nhưng phải có tương quan hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài bằng cách lắng nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
Trong một cuộc họp, có hai người được mời đọc Thánh Vịnh 22 "Chúa là mục tử của tôi".
Người thứ nhất là một diễn viên nhà nghề nhưng không có đức tin. Anh phát âm rất chuẩn, giọng rõ ràng, ngắt câu hợp ý. Nghe anh đọc xong ai cũng vỗ tay.
Người thứ hai là một tín hữu xác tín về đức tin. Anh phát âm không chuẩn lắm, anh còn đọc hơi nhanh nữa. Nhưng giọng anh rất tình cảm. Ai nghe anh đọc cũng đều xúc động.
Khi hai người đọc xong, người diễn viên đến bắt tay người tín hữu và khen : "Xin chúc mừng. Anh đã đọc rất hay". Người tín hữu đáp : "Không, anh mới là người đọc hay, còn tôi thì tệ quá."
Người diễn viên phân tích : "Chắc chắn là anh đọc hay hơn tôi mà. Một điều rất hiển nhiên là : Tôi thì biết Thánh Vịnh 22, còn anh thì biết Người Mục Tử."
Chúng ta hãy để ý : Tác giả Thánh vịnh 22 không nói "Chúa là một mục tử", cũng không nói "Chúa là vị Mục tử", nhưng nói "Chúa là Mục Tử của tôi". Người tín hữu kia đã đọc Thánh vịnh 22 bằng cảm nghiệm sống của mình, cho nên anh đã làm cho người khác xúc động.
* 7. Ơn gọi yêu thương
Vết thương sâu nhất là vết thương lòng :
đó là cảm giác rằng mình không được yêu,
rằng mình chẳng quý giá gì đối với ai cả.
Ngày nay nhiều người bị thương trong lòng.
Mỗi người chúng ta đều có thể chữa lành vết thương cho họ.
Chúng ta có tay để làm
có trí để hiểu
và nhất là có tim để yêu thương.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày ơn gọi.
Mà mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã sống lại vinh hiển và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Chúng ta cùng chúc tụng Người và dâng lời cầu xin :
1. Chúa đã đón nhận niềm tin yêu của thánh Phêrô / và trao cho người nhiệm vụ dẫn dắt đoàn chiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Đức Thánh Cha đương kim / cũng được niềm tin yêu như vậy.
2. Chúa Giêsu là Vị Mục tử nhân hậu / đã chết để cho đoàn chiên được sống dồi dào / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử của chúng ta / cũng sẵn lòng hy sinh tất cả cho đoàn chiên Chúa đã trao ban.
3. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban cho Giáo hội Việt nam có được nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ / để đoàn chiên Chúa không bao giờ thiếu người chăm sóc dưỡng nuôi.
4. Việc đào tạo linh mục tương lai cho các giáo phận / đòi hỏi phải đầu tư lâu dài và tốn kém / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết hết lòng cộng tác vào công việc cao quý này / bằng lời cầu nguyện và bằng việc quảng đại giúp đỡ Chủng Viện.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương, Chúa đã chết để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con cũng biết đền đáp phần nào tình thương của Chúa bằng chính đời sống bác ái yêu thương của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
Kinh tiền tụng : nên dùng Kinh tiền tụng phục sinh số 2, vì có nói tới cuộc sống mới.
Trước kinh Lạy Cha : Hiện giờ chúng ta rất giống với một đoàn chiên đang quy tụ quanh chủ chiên là Chúa Giêsu bên bàn tiệc Thánh thể. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
VII. Giải tán
Anh chị em đã biết Chúa Giêsu là mục tử dẫn dắt đời mình, cho dù có khi xem ra Ngài đang dẫn chúng ta qua thung lũng tối tăm, nhưng điếm tới cuối cùng sẽ là đồng cỏ xanh tươi, suối ngọt và bóng mát. Vậy anh chị em hãy ra về trong niềm vui mừng phó thác trọn vẹn cho Chúa Giêsu dẫn dắt.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh (C)
Chúa Nhật, 17 Tháng 4, 2016
Chúa Giêsu vị Mục Tử Nhân Lành
Con chiên Người nhận biết Người
Ga 10:27-30


1. Bài đọc

a) Lời nguyện mở đầu:

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến và đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, xin hãy ban cho chúng con ân sủng để đọc đi đọc lại trang này của sách Tin Mừng một cách sốt sắng, ghi nhớ một cách trìu mến và thực hành trong cuộc sống chúng con.  Chúng con ước ao được đến gần với mầu nhiệm của Con Người của Chúa Giêsu được chất chứa trong hình ảnh của người Mục Tử. Vì điều này, chúng con khẩn khoản cầu xin Chúa hãy mở lòng mở trí chúng con để chúng con có thể hiểu biết được quyền năng sự Phục Sinh của Chúa.  Lạy Chúa Thánh Thần của sự sáng, xin hãy soi sáng tâm trí chúng con, để chúng con có thể hiểu được Lời của Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Tốt Lành; xin hâm nóng trái tim chúng con để chúng con có thể nhận thức được rằng những lời này không quá xa vời với chúng con, rằng chúng chính là chìa khóa cho kinh nghiệm hiện tại của chúng con.  Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến, vì nếu không có Chúa, Tin Mừng chỉ là những dòng chữ vô hồn; với Chúa, Phúc Âm trở thành Thần Khí của Sự Sống.  Lạy Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, xin hãy ban cho chúng con; chúng con cũng cầu xin điều này cùng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và là mẹ chúng con, và tiên tri Êlia, ngôn sứ của Chúa, vì danh Đức Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, và là Chúa chúng con.  Amen!

b)  Đọc Tin Mừng:

27  Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng:  “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng, và chúng theo Ta; 28 Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp chúng khỏi tay Ta. 29 Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. 30 Ta và Cha Ta là một.”

c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Sự im lặng bảo vệ ngọn lửa của Lời Chúa đã thấm nhập vào trong chúng ta qua việc lắng nghe Lời Người.  Nó giúp chúng ta duy trì được ngọn lửa sốt sắng trong lòng.  Hãy dừng lại giây lát trong thinh lặng, hãy lắng nghe để chúng ta có thể tham dự vào quyền năng sáng tạo và tái sáng tạo của Ngôi Lời.

2. Suy Niệm

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Bài Phúc Âm của Chủ Nhật tuần này được trích ra từ chương 10 của Tin Mừng viết theo thánh Gioan, bài giảng của Chúa Giêsu trong ngày lễ của người Do Thái kỷ niệm thánh hiến Đền Thờ Giêrusalem được tổ chức vào cuối tháng mười hai (lễ kỷ niệm việc tái thánh hiến Đền thờ, vốn đã bị tàn phá bởi người Syria gốc Hy Lạp, do công trình xây dựng của Giuđa Máccabê vào năm 164 trước Công Nguyên).  Lời của Chúa Giêsu liên quan đến mối quan hệ giữa người Chăn Chiên (Chúa Kitô) và đoàn chiên (Giáo Hội) thuộc về một cuộc tranh luận thực sự và riêng tư đã xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái.  Họ hỏi Chúa một câu hỏi rõ ràng và đòi hỏi Người phải trả lời cũng cụ thể và công khai như thế:  “Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai sự thật cho chúng tôi biết” (10:24).  Sách Phúc Âm của thánh Gioan trong những đoạn khác cũng có viết về việc người Do Thái cố ý tìm cho bằng được một sự khẳng định rõ ràng từ Chúa Giêsu liên quan đến căn tính của Người (2:18; 5:16; 8:25).  Trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm, câu hỏi tương tự cũng đã được đặt ra khi Chúa Giêsu bị điệu ra trước mặt các Thượng Tế (Mt 26:63; Mc 14:61; Lc 22:67).  Câu trả lời của Chúa Giêsu được trình bày trong hai giai đoạn (các câu 25-31 và 32-39).  Chúng ta hãy xem xét một cách sơ lược bối cảnh của giai đoạn đầu tiên nơi mà phần phụng vụ của chúng ta được trình bày.  Người Do Thái đã không hiểu được dụ ngôn Người Mục Tử (Ga 10:1-21) và bây giờ họ muốn Chúa Giêsu cho một sự mặc khải rõ ràng hơn về căn tính của Người.  Về điều này, lý do việc cứng lòng tin của họ không phải là vì thiếu sự rõ ràng mà bởi vì họ từ chối thuộc về đoàn chiên của Chúa, để trở thành con chiên của Người.  Một câu nói tương tự của Chúa Giêsu có thể soi sáng thêm ý nghĩa này khi chúng ta đọc đoạn Tin Mừng của thánh Máccô 4:11:  “Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn.”  Lời của Chúa Giêsu là ánh sáng chỉ dành cho những ai đang sống trong cộng đoàn giáo hữu, còn đối với những ai quyết định đứng ngoài thì những lời này chỉ là những ẩn ngữ rời rạc.  Đối với việc không tin của người Do Thái, Chúa Giêsu phản đối hành vi của những kẻ thuộc về Người và những kẻ mà Chúa Cha đã ban cho Người; và cũng là mối quan hệ với họ.

Ngôn ngữ của Chúa Giêsu không nhất thiết hiển nhiên ngay lập tức đối với chúng ta; thay vì việc so sánh những tín hữu như một bầy chiên làm chúng ta lúng túng.  Trái lại, chúng ta không hề xa lạ gì với đời sống của những người làm nông và chăn chiên, và đây không phải là một điều dễ hiểu rằng đoàn chiên nào sẽ đại diện cho một dân tộc và ai là những người chăn chiên.  Mặt khác, đối tượng mà Chúa Giêsu nhắm vào khi dùng ngụ ngôn này chính là những người mục tử.  Điều hiển nhiên là dụ ngôn được hiểu từ quan điểm của một người muốn chia xẻ gần như tất cả mọì thứ với đoàn chiên của mình.  Ông biết đoàn chiên của mình: ông thấy được mọi ưu và khuyết điểm của từng con; các con chiên cũng hiểu được sự hướng dẫn của người chăn chiên: chúng nghe theo lời người chăn và những chỉ dẫn của ông.

i)  Các con chiên của Chúa Giêsu thì lắng nghe tiếng Chúa: đây là một câu hỏi không chỉ dành cho người đang nghe ở bên ngoài (3:5; 5:37) mà nó còn dành cho người đang chăm chú lắng nghe (5:28; 10:3) đến người lắng nghe vâng phục (10:16-27; 18:37; 5:25).  Trong bài giảng về người mục tử, sự lắng nghe này thể hiện lòng phó thác và hiệp nhất của đoàn chiên với người mục tử (10:4).  Tĩnh từ và sở hữu từ “của tôi” không chỉ cho thấy sự sở hữu đơn giản các con chiên, mà nó còn cho thấy rằng các con chiên thuộc về người chăn chiên, và chúng thuộc về gần như người chăn chiên chính là chủ của chúng (10:12).

ii)  Kế đến, điều này tạo nên một mối giao tiếp mật thiết giữa Chúa Giêsu và các con chiên:  “và Ta biết chúng” (10:27). Đây không phải là một câu hỏi về kiến thức trí tuệ; theo ý nghĩa Kinh Thánh “để biết ai đó” có nghĩa là, điều quan trọng hơn cả là phải có một mối quan hệ cá nhân và cách nào đó sống trong cảm thông với người ấy.  Một sự hiểu biết không loại trừ các đặc tính của loài người như sự đồng cảm, yêu mến, cảm thông tự nhiên.

iii)  Trong đức tính của sự hiểu biết về tình yêu này, người mục tử kêu gọi đoàn chiên của mình đi theo mình.  Việc lắng nghe theo Vị Mục Tử cũng liên quan đến một nhận thức rõ ràng, bởi vì trong nhiều tiếng gọi có thể khác nhau, các con chiên phải chọn lựa nghe theo tiếng gọi tương ứng với một Đấng cụ thể (Đức Giêsu).  Noi theo sự nhận thức này, lời đáp trả sẽ tích cực, cá nhân và trở thành sự vâng phục.  Đây là kết quả từ sự lắng nghe.  Vì vậy, giữa việc lắng nghe và việc chọn lựa theo người Mục Tử là sự nhận biết về Đức Giêsu.

Sự nhận biết mà các con chiên có về Đức Giêsu đã mở lối cho một hành trình dẫn đến tình yêu:  “Ta cho họ sự sống đời đời”.  Đối với tác giả Phúc Âm, đời sống là ân sủng của sự hiệp thông với Thiên Chúa. Trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm, khi nói về “sự sống” hay “sự sống đời đời” thì liên quan đến tương lai; trong Tin Mừng của thánh Gioan, nó chỉ về một sự sở hữu thực sự.  Điều này được thường xuyên lặp đi lặp lại trong lời diễn giải của Gioan:  “Ai tin vào Con Người thì được sự sống đời đời” (3:36); “Thật, Ta bảo thật các ông: ai nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời” (5:24; 6:47).

Mối quan hệ tình yêu của Chúa Giêsu cũng trở nên cụ thể bởi kinh nghiệm của sự bảo vệ mà Người có dịp trải qua:  đó là việc mà những con chiên “sẽ không bao giờ bị hư mất”.  Có lẽ, điều này muốn nói đến hình phạt đời đời.  Và sau đó còn được thêm rằng “không ai có thể cướp được chúng”.  Những câu nói này cho thấy vai trò bàn tay của Thiên Chúa và của Đức Kitô đã ngăn không cho trái tim của những người này bị cướp đi bởi các quyền lực tối tăm khác. Trong Kinh Thánh, bàn tay, trong một số bối cảnh, còn là một ẩn dụ chỉ về sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng bảo vệ (Đnl 33:3; Tv 31:6).  Mặt khác, động từ “cướp mất” (harpázö) gợi ý cho ta biết rằng cộng đoàn của các môn đệ cũng sẽ không tránh khỏi được những cuộc tấn công của ma quỷ và của cám dỗ.  Nhưng những chữ “không ai có thể cướp được chúng” cho thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô bảo đảm cho cộng đoàn một sự ổn định chắc chắn không nao núng để họ có thể vượt qua được mọi cơn cám dỗ của sợ hãi.

b)  Một vài câu hỏi gợi ý:

Giúp chúng ta chuẩn bị cho phần suy niệm và cập nhật:

i)  Thái độ đầu tiên để cho Lời của Chúa Giêsu hiển nhiên là người ta phải “lắng nghe”.  Động từ này trong ngôn ngữ Kinh Thánh thật là phong phú và xác đáng:  nó ngụ ý sự vui mừng tuân theo nội dung của những gì đã được nghe, sự tùng phục với người đang nói, sự chọn lựa về cuộc sống của Đấng đang gửi gấm tâm ý với chúng ta.  Bạn có thật sự đang đắm chìm trong việc lắng nghe Lời Chúa không?  Có những khoảng không gian và thời gian nào trong đời sống thường nhật của bạn mà bạn dành riêng ra, một cách đặc biệt, chỉ để lắng nghe Lời Chúa không?

ii)  Cuộc đối thoại hoặc sự thông tri thân mật và sâu sắc giữa Đức Kitô và bạn đã được xác định bởi bài Tin Mừng trong phần phụng vụ của ngày hôm nay bởi một động từ tuyệt vời trong Kinh Thánh: “biết”.  Động từ này liên quan đến toàn bộ một con người: lý trí, trái tim, và ý muốn.  Ý thức của bạn về Đức Kitô đã đóng khung vững chãi ở mức độ lý thuyết trừu tượng chưa hay là bạn sẽ để cho mình được biến đổi và hướng dẫn bằng tiếng nói của Người trên cuộc hành trình của đời bạn?

iii)  Những người đã lắng nghe và biết đến Thiên Chúa thì “đi theo sau” Đức Kitô như là hướng dẫn viên duy nhất của đời họ.  Việc đi theo sau của bạn  tiếp diễnhằng ngày và liên tục không?  Ngay cả khi ở cuối chân trời thấp thoáng có các mối đe dọa hoặc cơn ác mộng của các tiếng nói khác hoặc các ý tưởng khác mà chúng đang cố gắng cướp lấy chúng ta khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa không?
                                                     
iv)  Trong phần suy niệm bài Phúc Âm hôm nay có hai động từ khác xuất hiện:  chúng ta sẽ không bao giờ bị “hư mất, án phạt đời đời” và không ai sẽ có thể “cướp” chúng ta ra khỏi sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng bảo vệ cuộc sống chúng ta.  Đây là nền tảng và động lực cho sự bảo đảm đời sống hằng ngày của chúng ta.  Ý tưởng này được thể hiện theo một phương cách rõ ràng qua lời thánh Phaolô:  “Tôi chắc rằng không có gì có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu với Đức Kitô: dù cho là sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù thế giới trên trời hay thế giới bên dưới – không có một loài thọ tạo nào sẽ có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).  Khi một mối liên hệ giữa người tín hữu và Ngôi Lời Giêsu được thiết lập bởi lời mời gọi và sự lắng nghe, thì đời sống tiếp diễn được tin chắc sự trưởng thành thiêng liêng sẽ đạt được và thành công.  Nền tảng thật sự cho điều bảo đảm này nằm trong việc khám phá ra được thiên tính của vị Mục Tử này mỗi ngày, là Đấng bảo đảm cho đời sống chúng ta.  Bạn đã có trải qua kinh nghiệm về sự bảo đảm và thanh thản này khi bạn cảm thấy bị vây hãm bởi sự dữ chưa?

v)  Những lời của Chúa Giêsu “Ta cho chúng được sống đời đời” bảo đảm với bạn rằng lúc kết thúc cuộc hành trình của bạn như một Kitô hữu, thì sẽ không tối tăm hoặc mờ mịt.  Đối với bạn, sự sống đời đời có chỉ về số năm mà bạn có thể sống không, hay là nó gợi nhớ lại đời sống hiệp thông của bạn với Thiên Chúa?  Có phải kinh nghiệm được đồng hành với Chúa trong đời bạn là một lý do cho niềm hân hoan không?

3.  Đáp ca

a)  Thánh vịnh 100:2,3,5

Phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ,
Vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo.
Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế,
Chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người,
Ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
Bởi vì Chúa nhân hậu,
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
Qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.

b)  Lời Nguyện Kết:

Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa hiển lộ với mỗi người chúng con như Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng tái lập nhờ quyền lực của sự Mầu Nhiệm Phục Sinh, Đấng tự hữu, với sự hiện diện tinh tế của Người, cùng với tất cả quyền năng của Chúa Thánh Linh.  Chúng con cầu xin Chúa hãy mở mắt chúng con, để chúng con có thể biết Chúa hướng dẫn chúng con như thế nào, hỗ trợ ý muốn của chúng con đi theo Chúa đến bất cứ nơi nào Chúa muốn dẫn chúng con đi.  Xin hãy ban cho chúng con ân sủng không bị cướp đi từ bàn tay của Đấng Chăn Chiên Tốt Lành và không bị quyền năng của sự dữ đe dọa chúng con, khỏi những chia rẽ từ nơi khuất lấp hay chỗ tàng ẩn từ trong trái tim chúng con.  Ôi lạy Chúa Kitô, Vị Mục Tử, Người dẫn đường của chúng con, là gương mẫu của chúng con, là nguồn an ủi của chúng con, là người anh của chúng con.  Amen!

4.  Chiêm Niệm

Hãy suy niệm Lời của Đấng Chăn Chiên Tốt Lành trong đời bạn.  Các giai đoạn trước của phần Lectio Divina, thì rất quan trọng, sẽ trở thành thực hành, nếu được sắp xếp để sống thực sự với Lời Chúa.  Con đường “Đọc Lời Chúa” không thể được xem là kết thúc nếu nó không được nối tiếp để dùng Lời Chúa là trường đời cho bạn.  Một mục tiêu như thế sẽ đạt được khi bạn lãnh hội được hoa trái của Chúa Thánh Linh.  Đó là:  sự bình an trong tâm hồn được làm triển nở trong niềm hân hoan và trong sự hứng thú vì Lời Chúa; khả năng để phân biệt giữa việc cần thiết và công việc của Thiên Chúa; giữa việc vô ích và việc của các điều dữ; giữa lòng can đảm của sự chọn lựa và của hành động cụ thể, theo giá trị của trang Kinh Thánh mà bạn đã đọc và suy niệm về nó.    


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét