18/04/2016
Thứ Hai tuần 4 Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv
11, 1-18
"Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân
ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã
chịu cắt bì trách móc người rằng: "Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu
cắt bì và ăn uống với họ?" Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối
theo thứ tự sau đây: "Tôi đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong
một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả
xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh
thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, hãy chỗi dậy
giết mà ăn". Tôi thưa: "Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ
vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu". Tiếng từ trời nói lần thứ
hai: "Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp". Ba lần
xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.
"Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh
Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và
chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy
thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng:
"Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi
những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ". Lúc tôi bắt đầu
nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ
tôi nhớ lại lời Chúa phán: "Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ
được rửa bằng Thánh Thần". Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như
đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có
thể ngăn cản Thiên Chúa?"
Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: "Vậy ra
Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41,
2. 3; 42, 3. 4
Ðáp: Hồn con
khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời
ôi. - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về
ra mắt Chúa Trời! - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng
dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được
hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của
con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con biết rằng Ðức Kitô đã thật sự sống lại từ
cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10,
1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai
không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ
trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ
cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con
chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên
theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại,
còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy
giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng
chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe
chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và
tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và
phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ta Là Cửa Ðoàn Chiên
Anh chị em thân mến!
Phần lớn vùng đất Giuđêa nằm trên độ cao, nhiều gồ ghề và sỏi đá, thuận
tiện cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Bởi thế, người dân vùng này nói
riêng và toàn thể vùng Palestina nói chung thường sống bằng nghề chăn nuôi. Họ
nuôi nhiều cừu để lấy lông chiên hơn là ăn thịt. Thế nên, mối liên lạc giữa đàn
chiên và người chăn thật mật thiết. Chiên hiểu chủ và chủ biết từng con chiên một.
Hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu
thương. Trong Kinh Thánh các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay
so sánh mối quan hệ giữa Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn
chiên. Israel và đàn chiên Giavê chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.
Qua tân Ước, hình ảnh người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến,
đặc biệt là người chăn chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn
chiên nhân lành. Nỗi lòng của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một
trong những diễn tả ấy được thánh sử Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Thấy người Do Thái không lãnh hội được ý nghĩa là người chăn chiên, Chúa
Giêsu nói rõ cho họ biết: "Ta là cửa chuồng chiên". Qua đó, chính
Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn
chiên ra vào và được hưởng sự an toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước
mà vào là kẻ trộm cướp nên chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở
đây không phải là các ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông
thái thế gian. Chính họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều
thuôc về ơn cứu độ. Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa
Giêsu chữa lành không nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ
là kẻ trộm đã giết hại chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống
và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã tóm tắt vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là
hình ảnh cửa đàn chiên: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ".
Ðây là hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên.
Người mục tử nhân lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban
ngày, sẽ dẫn chiên tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh
22 vẫn hát lên "trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho
tôi dòng nước trong lành".
Chúa Giêsu là cửa để qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an
toàn. Chính nơi cửa, người mục tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một
con nào bị lạc mất. Chúa Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi
buổi sáng, để các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi
đàn chiên và dẫn chúng đi, người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì
chiên biết tiếng chủ chiên của mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị
chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai
nghe tiếng Ngài.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 11:1-18; Jn 10:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con
người phải vâng theo Kế Hoạch của Thiên Chúa.
Có hai giai đọan trong Kế Hoạch
Cứu Độ của Thiên Chúa: Trong giai đoạn thứ nhất, Ngài chọn dân Do-thái để chuẩn
bị cho Đấng Thiên Sai tới; sau đó, đến giai đọan thứ hai, Tin Mừng Cứu Độ được
loan báo cho tất cả mọi người. Nhiều người Do-thái chỉ dừng lại ở giai đọan thứ
nhất. Họ tin chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng ơn Cứu Độ;
Dân Ngoại không phải là con Thiên Chúa, họ xứng đáng để chịu hình phạt và bị hư
mất.
Các Bài Đọc hôm nay xoay
quanh tình thương Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ dành cho mọi người. Trong Bài Đọc
I, Sách CVTĐ mô tả sự xung đột giữa các môn đệ về việc giao tiếp và chấp nhận
Dân Ngoại vào đạo thánh Chúa. Phêrô phải dùng thị kiến chiếc lưới từ trời và
kinh nghiệm mục vụ để thuyết phục họ: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Dân
Ngoại cũng được lãnh nhận Thánh Thần và ơn sám hối để được sự sống đời đời.
Loài người chúng ta không thể ngăn cản Kế Hoạch của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành đến để qui tụ tất cả các chiên và
cho chúng được sống dồi dào.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi
người.
1.1/ Xung đột xảy
ra giữa người Do-thái và ông Phêrô: Theo
truyền thống Do-thái, họ sống cách biệt với các dân tộc khác, và không bao giờ
vào nhà của Dân Ngoại. Các người Do-thái chỉ trích Phêrô đã giao tiếp với Dân
Ngoại, vào nhà những kẻ không cắt bì, và ăn uống với họ. Bấy giờ ông Phêrô
trình bày cho họ biết thị kiến mà ông đã chứng kiến, ông nói: Tôi đang cầu nguyện
tại thành Joppa, trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: Có một vật gì sà
xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ
tôi. Nhìn chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất,
các thú rừng, rắn rết và chim trời. Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi:
"Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn!” Tôi đáp: "Lạy Chúa, không thể được,
vì những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con!” Có tiếng
từ trời phán lần thứ hai: "Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch,
thì ngươi chớ gọi là ô uế! Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo
lên trời.”
Thị kiến này đòi Phêrô phải
xét lại truyền thống Do-thái của mình: Vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều
tốt lành và thanh sạch, ông không thể giữ thái độ khinh thường Dân Ngoại, coi họ
là dân không cắt bì, nô lệ, hay không thanh sạch.
1.2/ Thiên Chúa
cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!
(1) Tin Mừng được rao truyền
cho Dân Ngoại: Phêrô tiếp tục kể: "Ngay lúc đó, có ba người đến nhà chúng
tôi ở: họ được sai từ Caesarea đến gặp tôi. Thần Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần
ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đã vào nhà ông Cornelius.
Ông này thuật lại cho chúng tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà
ông và bảo: "Hãy sai người đi Joppa mời ông Simon, cũng gọi là Phêrô. Ông ấy
sẽ nói với ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.” Cornelius là
viên Đại Đội Trưởng Roma, tuy là Dân Ngoại, nhưng ông đối xử rất tốt với người
Do-thái. Nhân cơ hội đó, Phêrô đã rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô cho tất cả những
người trong gia đình Cornelius. Điều đáng chú ý là Thiên Chúa hoạt động trong
biến cố này: Ngài gởi thiên sứ tới báo tin cho Cornelius, đồng thời dùng Thần
Khí tác động trên Phêrô, để thúc đẩy ông cùng đi với 3 sứ giả của Cornelius.
(2) Không ai có thể ngăn cản
Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự
xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi sực nhớ lại lời
Chúa nói rằng: "Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được
rửa trong Thánh Thần. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người
đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám
ngăn cản Thiên Chúa?" Phêrô nhắc lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống
trên các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; và nhờ biến cố này, Phêrô nhận ra
Thiên Chúa ban Thánh Thần cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì những người
Do-thái. Sau đó, Phêrô làm Phép Rửa cho tất cả gia đình ông Cornelius.
Nghe Phêrô trình bày đầu
đuôi, người Do-thái mới hiểu ra. Họ tôn vinh Thiên Chúa và nói: "Vậy ra
Thiên Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!"
2/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào.
2.1/ Chúa Giêsu là
Cửa chuồng chiên: Trong các làng mạc của
Do-thái, họ có chỗ chung để nhốt tất cả các chiên trong làng ban đêm. Chỗ nhốt
này chỉ có một cửa duy nhất có khóa, và chìa khóa chỉ người giữ cửa mới có. Người
giữ cửa biết tất cả các người chăn chiên, và chỉ mở cửa cho những người này.
Tuy nhiên, cũng có những người chăn chiên không vào làng, nhưng giữ chiên ngoài
cánh đồng như tại Bethlehem. Trong trường hợp này, người chăn chiên sẽ tìm những
hang đá mà chỉ có một ngõ ra vào. Đêm đến, họ sẽ lùa chiên vào trong hang đá,
và họ sẽ nằm ngủ ngay cửa ra vào. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu đề cập
đến cả hai trường hợp:
(1) "Thật, tôi bảo thật
các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào,
người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người
giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi
dẫn chúng ra.”
(2) "Thật, tôi bảo thật
các ông: Tôi là Cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp;
nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.
Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
2.2/ Liên hệ giữa
mục tử và chiên: Có một sự liên hệ mật
thiết giữa mục tử và đàn chiên. Người mục tử biết tất cả các chiên của mình và
thói quen của từng con một; nhiều mục tử còn đặt tên riêng cho mỗi con như “vằn”
nếu con nào có những vằn quanh như sóng trên người, “trắng,” “đen,” “khoang”...
Đồng thời, các con chiên cũng biết đánh hơi, hay nhận ra chủ của chúng nhờ tiếng
gọi đặc biệt, hay tiếng chuông, tiếng kèn, tiếng sáo mà người mục tử đeo trên
mình. Đó là lý do tại sao Chúa nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước
và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người
lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ."
Chúa cũng đề cập đến sự khác
biệt giữa Mục Tử và trộm cướp: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Người chăn chiên thật
phải chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình với chủ; nếu chiên bị ăn thịt, anh
phải có bằng chứng rõ ràng để trình cho chủ. Người chăn chiên đích thực phải
chăm sóc bằng cách tìm những đồng cỏ xanh và nước trong lành cho chiên ăn uống.
Anh phải bảo vệ chiên khỏi mọi nguy hiểm như: chó sói, sư tử, kẻ trộm, kẻ cướp...
Qua hình ảnh thân thương này, Chúa Giêsu muốn ví Ngài như Mục Tử Tốt Lành và
các tín hữu được ví như đàn chiên. Ngài đến để cho chúng ta được sống, và sống
dồi dào.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả mọi người đều có thể
nhận được ơn Cứu Độ trong Kế Hoạch của Thiên Chúa, và Tin Mừng cần được loan
báo cho mọi dân tộc.
- Để được hưởng ơn Cứu Độ,
chúng ta cần biết lắng nghe và tin tưởng vào Đức Kitô, Người Mục Tử Tốt Lành mà
Thiên Chúa gởi tới con người.
- Người mục tử tốt lành là
người phải vào qua Cửa là Đức Kitô: họ phải nhân danh Đức Kitô giảng dạy, chữa
lành; và bắt chước Đức Kitô để săn sóc và bảo vệ đòan chiên của mình.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên, OP
18/04/16 THỨ HAI TUẦN 4 PS
Ga 10,1-10
Ga 10,1-10
Suy niệm: Các ki-tô hữu bị bách hại thời đế quốc Rô-ma
đã dùng dấu hiệu con cá để nhận diện nhau. Những ai không biết mật hiệu ấy ắt
hẳn không thuộc cộng đoàn mà có thể là “kẻ trộm, kẻ cướp.” Ngày nay, các nhân
viên khi đến cơ quan làm việc phải xuất trình thẻ căn cước để xác nhận mình
thuộc về công ty, chứ không phải là kẻ gian phi đến để phá hoại. Căn cước một
người thuộc về Đức Ki-tô không nằm ở tấm thẻ bên ngoài mà ở chính cuộc sống của
họ được đóng dấu ấn thập giá, khi họ đi qua cánh cửa là Đức Ki-tô, đó là dấu ấn
của người mục tử đích thực “liều
mạng sống mình vì đoàn chiên” (Ga
10,11).
Mời Bạn: Giữa
lòng thế giới hôm nay, trước những quan niệm thế tục về cuộc sống con người;
thay vì Thiên Chúa, người ta tôn thờ tiền bạc, quyền lực, lạc thú; nhiều lúc
chúng ta cũng đã hoang mang, có khi chao đảo: Đâu là dấu hiệu thuộc về Đức Kitô
một cách đích thực? Phải chăng lắm khi bạn đang để “kẻ trộm, kẻ cướp” -là những
gì không mang dấu ấn thập giá của Đức Ki-tô- đột nhập vào cuộc sống của bạn,
của gia đình, cộng đoàn bạn? Bạn nhớ, dấu ấn ki-tô hữu chính là thập giá Chúa
Ki-tô.
Chia sẻ: Có
khi nào bạn để mình bị “ăn trộm” mất căn tính ki-tô hữu của mình chưa? Bạn làm
thế nào để lấy lại?
Sống Lời Chúa: Chọn
thực hiện một giá trị Tin Mừng để sống đúng căn tính ki-tô hữu của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đến để cho mọi người được sống và sống dồi
dào. Xin cho con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác nơi Chúa, và để cho
Lời Chúa dẫn dắt cuộc đời con.
Tôi
là cửa cho chiên
Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn.
Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống. Chỉ ai qua Cửa
Giêsu mà vào mới được cứu độ.
Suy
niệm:
Chúng
ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống tươi mới.
Đức
Giêsu là người mục tử chăn chiên.
Khác
với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy,
Ngài
đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10).
Hãy
nhìn những nét đặc trưng của người mục tử đích thực.
Anh
đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa,
đường
đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc. 1-2).
Người
giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh.
Chiên
cũng quen anh và quen tiếng của anh.
Tiếng
của anh là dấu hiệu quan trọng để chiên nhận ra
và
phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5).
Chiên
nghe tiếng của anh (c. 3).
nhưng
không nghe tiếng người khác (c. 8).
Anh
trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết rõ chiên của mình.
Khi
dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường,
chúng
yên tâm theo sau chứ không chạy trốn,
vì
chúng biết mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu.
Rõ
ràng có sự hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.
Nhưng
Đức Giêsu không chỉ là Mục tử chăn chiên.
Ngài
còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9).
Thánh
Gioan Kim Khẩu nói:
“Khi
Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa.
Khi
Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử.”
Cửa
chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn.
Cửa
cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống.
Chỉ
ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.
Ai
ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c. 9).
Cửa
Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật.
Mục
tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu.
Mong
sao cho Giáo Hội có nhiều mục tử gần gũi với chiên,
biết
gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh phúc.
Và
mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của người mục tử.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu,
Chúa
nhận mình là Tấm Bánh,
vì
Chúa muốn nuôi tâm linh chúng con.
Chúa
nhận mình là Cây Nho,
vì
Chúa muốn trao cho chúng con dòng nhựa sống.
Chúa
nhận mình là Mục tử nhân lành,
vì
Chúa muốn dẫn chúng con đến nơi đồng cỏ.
Chúa
nhận mình là Cửa,
vì
Chúa mở cho chúng con sự phong phú của Nước Trời.
Chúa
nhận mình là Con Đường,
vì
Chúa là Đấng duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Cha.
Chúa
nhận mình là Ánh sáng,
vì
Chúa có khả năng khuất phục bóng tối trong thế gian này.
Chúa
nhận mình là Sự Thật,
vì
Chúa vén mở cho chúng con khuôn mặt của Thiên Chúa.
Chúa
nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại,
vì
Chúa không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.
Lạy
Chúa Giêsu,
tạ
ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình
đều
hướng đến hạnh phúc cho chúng con,
và
đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa.
Xin
cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga,
là
Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG TƯ
Đức Giêsu Có
Thể Xóa Tan Các Mối Nghi Ngờ Của Chúng Ta
Chúa Giê-su
phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và khi nói những lời ấy, Người
thổi hơi trên các môn đệ và phán: “Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho
ai thì tội người ấy được tha; anh em cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc”. (Ga
20,21-23)
Từ ngày đầu
tiên ấy, Giáo Hội sống trong hiệu lực của giao ước mới – giao ước vĩnh cửu.
Giáo Hội sống trong hiệu lực của cái chết và cuộc Phục Sinh cứu độ của Con
Thiên Chúa. Vì thế, Giáo Hội được Đức Kitô – là chính sự sống của Giáo Hội – trực
tiếp trao cho quyền năng trên sự dữ.
Một lần nữa,
chúng ta được dẫn lên căn gác thượng. Đây là ngày thứ tám sau Phục Sinh. Đức
Giêsu hiện ra cho Tô-ma, một trong Nhóm Mười Hai. Tô-ma được mời gọi – cùng với
các đồng môn của mình – trở thành chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ông không có mặt
cùng với các bạn tám ngày trước đó, khi Chúa hiện ra với nhóm. Ông phải đích
thân trông thấy. Rồi, Chúa Giê-su hiện đến lần thứ hai. Người đến để thuyết phục
sự cứng cỏi của Tô-ma – và Người đã cho ông thấy chứng cứ hùng hồn của cuộc Phục
Sinh của Người.
Tô-ma bị thuyết
phục về sự Phục Sinh khi ông tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su và các vết thương của
Người. Ông không nghi ngờ nữa – và đã thốt lên lời tuyên xưng đức tin hết sức
triệt để: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” (Ga 20,28).
Vâng, Giáo Hội
sống sự sống Phục Sinh của Đức Kitô ngay từ chính những ngày đầu tiên của lịch
sử mình. Giáo Hội sống trong mầu nhiệm Vượt Qua của Thầy và phu quân của mình.
Từ mầu nhiệm này, Giáo Hội nhận lãnh sức mạnh hai mặt: sức mạnh của lời chứng
và sức mạnh của ân sủng có năng lực cứu độ con người. Thời đại của Giáo Hội chỉ
bắt đầu sau Lễ Hiện Xuống. Tuy nhiên, Lễ Hiện Xuống lại khởi đầu từ chính cuộc
Phục Sinh. Thực vậy, ngay trong lần đầu tiên hiện ra với các Tông Đồ “sau ngày
sa-bát”, Chúa Phục Sinh đã nói với các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
(Ga 20,22).
- suy tư 366
ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công
Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR
HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 18-4
Cv 11, 1-18;
Ga 10, 1-10
Lời suy niệm: “Thật,
tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối
khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy
là mục tử.”
Trong cuộc sống
của người Kitô hữu rất cần có những mục tử nhân từ, đầy lòng yêu thương, hy
sinh và hết lòng phục vụ đoàn chiên mà được Giáo Hội trao phó. Luôn sẵn sàng đi
trước đàn chiên để dẫn dắt đi vào chính lộ của Thiên Chúa; luôn sống giữa đoàn
chiên để cảm thông, sưởi ấm, nâng đỡ trong mọi hoàn cảnh của từng con chiên một;
Ghi vào ký ức của mình từng con chiên một để khi lạc xa đàn biết tìm kiếm đem về
lại.
Lạy Chúa Giêsu.
Chúa luôn nhắc nhở các mục tử của Chúa phải qua Chúa mà đến với đoàn chiên. Xin
Chúa cho tất cả chúng con luôn biết cảm thông, cầu nguyện và cọng tác với các
ngài trong mục vụ cũng như trong cuộc sống hằng ngày của các ngài.
Mạnh Phương
18 Tháng Tư
Ðôi Tay Cầu Nguyện
Albrecht
Durer là một họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng của nước Ðức vào thế kỷ thứ 16.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là bức tranh "Ðôi tay cầu
nguyện".
Sự tích của
họa phẩm này như sau: Thuở hàn vi, Durer kết nghĩa với một người bạn chí thân.
Cả hai đã thề thốt là sẽ giúp nhau trở thành họa sĩ. Ðể thực hiện ước nguyện
đó, người bạn của Durer đã chấp nhận làm thuê làm mướn đủ cách để kiếm tiền cho
Durer ăn học thành tài. Theo thỏa thuận, sau khi đã thành công, Durer cũng sẽ
dùng tiền bạc của mình để giúp cho người bạn ăn học cho đến khi thành đạt.
Thế nhưng
khi Durer đã thành tài, danh tiếng của anh bắt đầu lên, thì đôi tay của người bạn
cũng đã ra chai cứng vì lam lũ vất vả, khiến anh không thể nào cầm cọ để học vẽ
nữa.
Một ngày nọ,
tình cờ bắt gặp đôi tay của người bạn đang chắp lại trong tư thế cầu nguyện,
Durer nghĩ thầm: "Ta sẽ không bao giờ hồi phục lại được năng khiếu cho đôi
bàn tay này nữa, nhưng ít ra ta có thể chứng minh tình yêu và lòng biết ơn của
ta bằng cách họa lại đôi bàn tay đang cầu nguyện này. Ta muốn ca tụng đôi bàn
tay thanh cao và tấm lòng quảng đại vị tha của một người bạn".
Thế là kể từ
hôm đó, Durer đã để hết tâm trí vào việc thực hiện bức tranh đó. Ðó không phải
chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng là tất cả tình yêu và lòng biết ơn mà ông
muốn nói lên với một người bạn. Bức tranh đã trở thành bất hủ, nhưng càng bất hủ
hơn nữa đó là tấm lòng vàng của người bạn và tâm tình tri ân của nhà họa sĩ.
Phúc Âm kể lại
cuộc gặp gỡ cảm động giữa Chúa Giêsu và một người đàn bà mà mọi người đang nhìn
bằng một con mắt khinh bỉ, bởi vì bà ta bị xếp vào loại người tội lỗi... Bất chấp
mọi dòm ngó và xì xào, người đàn bà đã tiến đến bên Chúa Giêsu, đập vỡ một bình
dầu thơm, đổ trên chân Chúa Giêsu và dùng tóc lau chân Ngài.
Nhiều người xì
xào, tỏ vẻ khó chịu. Chúa Giêsu đã lên tiếng biện minh cho người đàn bà và Ngài
đã tiên đoán: nơi nào tin Mừng được loan báo thì nơi đó cử chỉ của người đàn bà
được nhắc tới.
Qua lời tuyên bố
trên đây, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: tất cả mọi nghĩa cử, dù là một
hành vi nhỏ bé đến đâu và làm cho mọi người nhỏ mọn đến đâu, cũng được ghi nhớ
muôn đời.
Tiền của có thể
qua đi, danh vọng có thể mai một, nhưng những việc làm bác ái luôn có giá trị
vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: trong ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, chỉ có Ðức Mến
là tồn tại đến muôn đời.
Cuộc đời của mỗi
người Kitô chúng ta cũng giống như một bức tranh cần được hoàn thành. Mỗi một
nghĩa cử chúng ta làm cho người khác là một đường nét chúng ta thêm vào cho bức
tranh. Khuôn mặt của chúng ta có thể khô cằn, hoặc rướm máu vì những cày xéo của
những thử thách, khó khăn, đôi tay của chúng ta có thể khô cứng vì những quảng
đại, quên mình. Tuy nhiên, những đường nét bác ái sẽ làm cho khuôn mặt ấy trở
thành bất tử...
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét