21/04/2016
Thứ Năm tuần 4 Phục Sinh
BÀI ĐỌC
I: Cv 13, 13-25
"Bởi dòng
dõi Đavít, Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu làm Đấng Cứu Độ".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Rời
Paphô, Phaolô và các bạn vượt biển đến Perghê xứ Pamphy-lia; còn Gioan từ biệt
các ngài, và trở về Giêrusalem. Hai ngài sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ
Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Sau khi đọc sách luật
và các tiên tri, những thủ lãnh nhà hội đường sai người đến nói với các ngài rằng:
"Hỡi anh em, nếu ai trong anh em có lời khuyên bảo dân chúng, xin hãy
nói".
Phaolô
đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: "Hỡi người Israel
và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa dân Israel đã chọn Tổ
phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập
và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy. Trong thời gian bốn
mươi năm, Người chịu đựng thói xấu họ trong hoang địa; và sau khi đã tiêu diệt
bảy dân tộc trong đất Canaan, Người đã cho họ chiếm đất của các dân tộc ấy gần
bốn trăm năm mươi năm; và sau đó, Người ban cho họ các thẩm phán cho đến tiên
tri Samuel. Kế đó, họ xin một nhà vua và Thiên Chúa cho Saolê, con ông Cis, thuộc
chi họ Bengiamin, cai trị họ bốn mươi năm. Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt
Đavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: 'Ta đã
gặp được Đavít con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của
Ta'.
"Bởi
dòng dõi Đavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu làm Đấng Cứu
Độ, Đấng mà Gioan đã báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho
toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: 'Tôi không phải
là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng
cởi dây giày dưới chân Người' ". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 88, 2-3. 21- 22. 25 và 27
Đáp:
Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
1)
Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng con
loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng
vững muôn đời", trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Đáp.
2) Ta
đã gặp Đavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta
bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Đáp.
3)
Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người
tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên
Chúa và Tảng Đá cứu độ của con". - Đáp.
ALLELUIA:
Mt 28, 19 và 20
Alleluia,
alleluia! - Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận thế. - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Ga 13, 16-20
"Ai đón
nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Sau
khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo
thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã
sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc. Thầy không nói về
tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau
đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy
nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi
xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận
kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".
Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY NIỆM
: Củng cố đức tin
Ðó là
những lời Chúa Giêsu tâm sự với các tông đồ vào lúc khởi đầu cuộc khổ nạn của
Ngài, loan báo tương lai cuộc sống của các tông đồ sẽ như thế nào. Nhưng tại
sao Giáo Hội lại chọn để chúng ta suy niệm đoạn Phúc Âm này trong những ngày của
mùa phụng vụ Phục Sinh? Những gì đã xảy ra đúng theo như lời Kinh Thánh và theo
lời loan báo trước của Chúa, nhằm củng cố các tông đồ và cả chúng ta ngày hôm
nay trong đức tin vào Chúa. Tin Chúa là Thiên Chúa, là Ðấng Hằng Hữu, là Ðấng
Ta Là, "Ta bảo các con điều đó ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy ra để
đến khi sự việc xảy ra, các con tin Ta là Ðấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa".
Bản
văn Phúc Âm thánh Gioan dùng từ "Ta là Ðấng Ta Là", từ dùng để chỉ
chính Giavê Thiên Chúa. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu,
các tông đồ và mỗi người chúng ta được mời gọi suy niệm những lời Chúa Giêsu có
liên quan đến vận mệnh tương lai của những ai làm đồ đệ Chúa. Trước hết là hồng
ân được Chúa sai đi, được đại diện cho Ngài "Ai đón rước kẻ Ta sai là đón
rước Ta và ai đón rước Ta là đón rước Ðấng đã sai Ta". Ðó là chiều dọc từ
con người lên cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu Kitô. Mọi đồ đệ của Chúa cần
phải duy trì trọn vẹn chiều dọc này. Ðây là hồng ân Chúa ban cho những con người
Chúa chọn làm kẻ đại diện của Ngài, mang sứ điệp của Ngài đến cho anh chị em
khác và hồng ân này có thể bị mất đi do chính quyết định tự do của con người
như trường hợp của Giuđa ngày xưa, người môn đệ phản Thầy, "Ta biết những
kẻ Ta đã chọn, kẻ ăn bánh cùng Ta đã giơ gót chân đạp Ta".
Lời cảnh
tỉnh của Chúa thôi thúc mỗi người chúng ta xét lại cuộc sống làm đồ đệ theo
Chúa của mình đang ở mức độ nào. Chúng ta sẽ làm đại diện cho Chúa một cách hữu
hiệu hơn nếu chúng ta trở nên giống Chúa hơn và chia sẻ vận mệnh của Chúa:
"Tôi tớ không hơn chủ; kẻ bị sai đi không trọng hơn người sai họ".
Chúa đã đi qua con đường thập giá, thì đồ đệ của Ngài chắc chắn cũng sẽ đi qua
con đường này. Hơn nữa, cám dỗ phản bội Chúa như Giuđa ngày xưa luôn là cám dỗ
thường hằng của mọi môn đệ Chúa cả ngày hôm nay. Chúng ta hãy tỉnh thức đề
phòng.
Lạy
Chúa, xin hãy ban cho con ơn can đảm theo Chúa cho đến cùng trong mọi hoàn cảnh.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 13:13-25; Jn 13:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa hoàn tất mọi ý định và lời hứa
của Ngài.
Có một
sự khác biệt giữa ý định và lời Thiên Chúa hứa với ý định và lời hứa của con
người. Những gì Thiên Chúa muốn, Ngài sẽ hòan thành; không một ai có thể cản trở
ý định của Ngài. Những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ ban; vì Ngài có uy quyền làm
mọi sự. Những gì con người muốn luôn thay đổi, và những gì con người hứa ít khi
được hoàn thành vì con người giới hạn và không đủ uy quyền để hoàn thành lời hứa.
Nhìn lại lịch sử được ghi chép trong Kinh Thánh, con người phải ngạc nhiên và
phải tin vững vàng vào Thiên Chúa, vì tất cả những gì Thiên Chúa đã muốn và hứa
đều được làm trọn đến từng chi tiết. Khi những biến cố xảy ra trong hiện tại,
con người nghĩ họ đang thực hiện ý định của họ; nhưng thực ra, họ chỉ đang làm
theo ý Thiên Chúa đã muốn.
Các
Bài Đọc hôm nay muốn nói lên sức mạnh và sự trung thành của Thiên Chúa. Trong
Bài Đọc I, Phaolô dùng lịch sử để chứng minh cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ
của Thiên Chúa: Ngài hòan thành hai lời hứa với Abraham sẽ ban cho ông con cháu
và Đất Hứa. Ngài hoàn thành lời hứa sẽ ban cho Israel một Đấng Cứu Độ xuất thân
từ giòng dõi vua David. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tiên báo một người trong các
Tông-đồ, là người cùng ăn uống với Chúa, sẽ "giơ gót đạp Chúa" như lời
TV 41:9 tuyên bố; điều này được ứng nghiệm qua sự phản bội của Judah. Chúa
Giêsu tiên đoán các Tông-đồ sẽ cùng chịu chung số phận bị bắt và giết chết như
Chúa. Lời tiên đoán này cũng được làm trọn qua sự tử đạo của các Tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Thiên Chúa đã thực
hiện những gì Ngài hứa với tổ-phụ Abraham và vua David.
Ngày
Sabbath, hai ông Phaolô và Barnabas vào hội đường ngồi tham dự. Sau phần đọc
sách Luật và sách Các Ngôn Sứ, các trưởng hội đường cho người đến nói với hai
ông: "Thưa anh em, nếu anh em muốn khuyên nhủ dân điều gì, xin cứ nói. Ông
Phaolô đứng dậy, giơ tay xin mọi người lưu ý, rồi nói:
1.1/
Thiên Chúa làm trọn lời hứa với Abraham: Vì Abraham luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự, nên Ngài hứa
với ông hai điều:
(1)
Ban cho ông con đàn cháu đống (Gen 17:7): Mục đích của Phaolô là muốn khán giả
nhìn lại lịch sử để xem lời Thiên Chúa hứa được hoàn thành thế nào: "Thiên
Chúa của dân Israel đã chọn cha ông chúng ta, đã làm cho dân này thành một dân
lớn trong thời họ cư ngụ ở đất Ai-cập (Deut 4:37, 10:15), và đã giơ cánh tay mạnh
mẽ của Người mà đem họ ra khỏi đó. Và trong thời gian chừng bốn mươi năm, Người
đã nuôi dưỡng họ trong sa mạc (Deut 4:34, 5:15, 9:26, 29, Exo 6:1-6, 12:42). Tất
cả những điều này đã được ghi chép cẩn thận trong Lề Luật của họ.
(2)
Ban cho ông Đất Hứa (Gen 17:8): Sau 40 năm thanh luyện trong sa mạc, Thiên Chúa
dùng Joshua để đưa dân vào Đất Hứa: " Rồi Người đã tiêu diệt bảy dân tộc ở
đất Canaan và ban đất của chúng cho họ làm gia sản: tất cả đã xảy ra trong khoảng
bốn trăm năm mươi năm (Exo 16:35, Num 14:33ff, Deut 1:31). Sau đó, Người ban
cho họ các vị thủ lãnh cho đến thời ngôn sứ Samuel."
1.2/
Thiên Chúa làm trọn lời hứa với David: Sau thời của Joshua, Thiên Chúa ban cho Israel các vị Thủ Lãnh để
lãnh đạo dân chúng; nhưng khi Israel thấy các dân tộc khác có vua, họ đòi tiên
tri Samuel cho họ cũng có vua cai trị họ.
(1)
Israel có vua cai trị: "Rồi họ đòi có vua, Thiên Chúa ban cho họ ông Saul,
con ông Kish thuộc chi tộc Benjamin, trị vì bốn mươi năm. Sau khi truất phế vua
Saul, Người đã cho ông David xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về
ông rằng: Ta đã tìm được David, con của Jesse, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi
hành mọi ý muốn của Ta. Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa
đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu (2 Sam 7:12, 22:51).
(2)
Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Chúa Giêsu: Lời hứa ban Đấng Cứu Độ được thực hiện
khi để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Israel
chịu phép rửa tỏ lòng sám hối (Mt 3:11). Khi ông sắp hoàn thành sứ mệnh và được
tra vấn bởi các kinh sư và luật sĩ nếu ông là Đấng Thiên sai, ông Gioan đã
tuyên bố: "Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến
sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người" (Jn 1:20, 27, Mc 1:7f). Khi
ông nhìn thấy Chúa Giêsu đi ngang, ông chỉ vào Ngài và nói với các môn đệ:
"Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian." (Jn 1:29).
2/
Phúc Âm: Thầy nói với anh
em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra,
anh em tin là Thầy Hằng Hữu.
2.1/ Nếu
người ta đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em: Cuộc Thương Khó đã gần kề, Chúa Giêsu biết
trước những gì sẽ xảy ra cho Ngài và những gì sẽ xảy ra cho các môn đệ; nên
Ngài muốn chuẩn bị tâm hồn cho các ông. Ngài nói với các ông: "Thật, Thầy
bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người
sai đi." Chúa Giêsu muốn các tông-đồ biết trước điều đó và biết cách đối
phó khi điều ấy xảy đến. Trong Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu, tất
cả những gì Chúa đã tiên báo đều ứng nghiệm đến từng chi tiết. Trong Sách CVTĐ,
chúng ta đã nghe tường thuật đầy đủ tất cả những bắt bớ, tù đày, roi đòn, và tử
đạo của các môn đệ Chúa.
2.2/
Chúa Giêsu tuyên bố về sự phản bội của Judah: Chúa Giêsu dẫn chứng lời TV 41:9 "Thầy không nói về
tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng
nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp
con." Ngài muốn nói với các ông ngay cả việc bị một người trong số các ông
phản bội, Judah, không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt và báo trước
bởi Thiên Chúa. Sở dĩ Ngài nói với các ông điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự
việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, các ông tin là "Ngài Hằng Hữu."
Biệt hiệu này chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi vì Ngài luôn hiện hữu.
Chúa
nói trước về sứ vụ tương lai của các Tông-đồ; các ông là sứ giả mang Tin Mừng của
Ngài. Ai đón tiếp sứ giả loan Tin Mừng là đón tiếp Đức Kitô và Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa sai Đức Kitô, và Đức Kitô sai các sứ giả. Điều cần là các sứ giả phải
loan báo những gì Đức Kitô muốn nói cho dân chúng. Bổn phận của dân chúng là phải
nhận ra ai là sứ giả thật từ những sứ giả mạo danh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất
cả mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời là do ý định và sự quan phòng của Thiên
Chúa. Điều gì Thiên Chúa muốn, Ngài sẽ làm cho thành tựu; điều gì Thiên Chúa hứa,
Ngài sẽ ban.
- Con
người chúng ta chỉ thi hành những gì Thiên Chúa muốn; không một ai có thể chống
lại ý định hay vô hiệu hóa lời hứa của Thiên Chúa.
- Hạnh
phúc của chúng ta là cố gắng tìm ra và vui vẻ làm điều Thiên Chúa muốn. Dĩ
nhiên, chúng ta có thể làm ngược lại; nhưng có ích lợi gì đâu!
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
21/04/16 THỨ NĂM TUẦN 4 PS
Th. An-xen-mô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 13,16-20
Th. An-xen-mô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 13,16-20
Suy niệm: Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chữ “tin”
không phải là một khái niệm lý thuyết mà là một hành động. Tin là tiếp nhận
Đấng mà Thiên Chúa sai đến cũng như những lời Đấng ấy truyền dạy. Trong khung
cảnh Tin Mừng hôm nay, hành động “tin” là chấp nhận mang lấy thân phận của Đức
Ki-tô. Thật vậy, “tôi
tớ không lớn hơn chủ”:Thầy bị bạc đãi thì môn đệ cũng bị bạc đãi,
Thầy phải chịu khổ nạn thì môn đệ cũng phải “vác
thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” (Lc 9,23). Chính nhờ việc chung chia thân phận
với Đức Ki-tô mà người môn đệ cũng sẽ được chung phần vinh quang với Ngài nơi
Chúa Cha vì: “Ai
đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp
Đấng đã sai Thầy” (Ga
13,20). Đón nhận Đức Ki-tô, “Dung
Mạo của Lòng Thương Xót” chính
là đón nhận Chúa
Cha, Đấng Thương Xót”.
Mời Bạn: Món
quà tặng lớn nhất của Thiên Chúa tặng ban cho loài người đó là chính Người Con
Một; và thái độ đáp lại tốt nhất của con người là tin, là đón nhận món quà đó.
Chính thái độ tiếp nhận này làm thay đổi tận căn cuộc sống của người nhận, vì “ai tin vào Con của Người, thì
không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (x. Ga 3,16-17). Thật diễm phúc khi bạn tin,
khi bạn tiếp nhận một món quà vô giá như vậy.
Sống Lời Chúa: Thưa
với Chúa: “Lạy
Chúa, xin ban thêm lòng tin cho con.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mở đường dẫn chúng con về nhà Cha khi Chúa
phục sinh. Xin ban cho chúng con đức tin để chúng con hân hoan dấn bước trên
con đường Chúa vạch ra.
Thật phúc cho anh em
Con người thường tìm hạnh phúc nơi việc được phục
vụ, được tôn vinh. Thầy Giêsu dạy ta tìm hạnh phúc nơi việc cúi xuống khiêm hạ.
Suy
niệm:
Khi
giảng cho các Giám mục Anh Giáo,
ông
Jean Vanier có kể câu chuyện như sau xảy ra tại cộng đoàn của ông,
một
cộng đoàn được lập tại nước Pháp để giúp những người cơ nhỡ.
Nhà
ông có nhận nuôi anh Eric, 16 tuổi, vừa mù lại vừa điếc.
Anh
không đi được, không muốn ăn, chỉ quậy phá và muốn chết.
Anh
thật là mối kinh hoàng cho những ai phải chăm lo cho anh.
Làm
sao để anh yêu cuộc sống này ?
Làm
sao để anh thấy mình được yêu và đáng quý,
bất
chấp những khiếm khuyết của mình ?
Tìm
đâu thứ ngôn ngữ để một người vừa mù vừa điếc hiểu được điều ấy ?
Ông
Jean Vanier có nhiệm vụ tắm cho anh mỗi sáng.
Và
ông đã tìm ra được thứ ngôn ngữ mà anh hiểu được, cảm được,
thứ
ngôn ngữ của bàn tay, ngôn ngữ của thịt.
“Lời
đã thành thịt, để thịt của chúng ta thành lời,” ông đã nói như thế.
Khi
Thầy Giêsu chạm tay của mình vào chân các môn đệ để rửa
với
sự trân trọng và yêu thương,
chắc
họ đã cảm được thứ ngôn ngữ không lời đó.
Kinh
nghiệm được Thầy rửa chân là kinh nghiệm chẳng thể nào quên.
Thầy
muốn các môn đệ tiếp tục làm điều Thầy đã làm:
“Thầy
đã nêu gương cho anh em,
để
anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 15).
Thầy
Giêsu nhắc các môn đệ về vị thế của họ,
vị
thế của người tôi tớ, người được sai.
Vị
thế này hẳn thấp hơn vị thế của Thầy là chủ, là người sai họ đi (c. 16).
Bởi
đó việc rửa chân cho nhau giữa các tôi tớ là một đòi buộc (c. 14).
“Anh
em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành,
thì
thật phúc cho anh em !” (c. 17).
Đức
Giêsu đã biến hành vi rửa chân thành mối phúc.
Con
người thường tìm hạnh phúc nơi việc được phục vụ, được tôn vinh.
Thầy
Giêsu dạy ta tìm hạnh phúc nơi việc cúi xuống khiêm hạ.
Nhiều
Kitô hữu đã nếm được thứ hạnh phúc này,
trong
đó có ông Jean Vanier, Mẹ Têrêsa, cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne…
Họ
đã tình nguyện dâng đời mình cho những người cùng khổ.
Hôm
nay, Đức Giêsu vẫn ở nơi những người cần được rửa vết thương,
vết
thương thể chất và tinh thần.
Hôm
nay, Ngài vẫn ở nơi những người đang cúi xuống,
âm
thầm, nhẹ nhàng băng bó các vết thương của thế giới.
Cầu
nguyện:
Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách
mạng lớn.
Thầy dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn
đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa
chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn
đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng
và linh thánh.
Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học
của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và
những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương
tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải
thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng
khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ
sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho
chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành
động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng
là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên
đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời
những ai khổ đau bất hạnh.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21
THÁNG TƯ
Thiên
Chúa Của Những Kẻ Sống
“Đây
là ngày Chúa đã làm ra” (Tv 118,24). Ngày này luôn luôn xác nhận với chúng ta một
sự thật đặc biệt rằng: Thiên Chúa không chịu thua trước sự chết của con người.
Đức
Kitô đã đến thế gian để bày tỏ cho chúng ta sự thật quan trọng này, một sự thật
mở ra cho thấy tình yêu của Chúa Cha. Đức Kitô đã chết trên Thập Giá và đã được
mai táng trong ngôi mộ đá để làm chứng cho sự thật đầy khích lệ rằng: Thiên Chúa
không chịu thua trước sự chết của con người.
Thực
vậy, “Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người
sống” (Mt 22,32). Nơi Đức Kitô, sự chết đã bị thách đố. Đức Kitô đã vượt thắng
sự chết bằng chính cái chết của Người.
Đây
là ngày Chúa đã lập ra. Đây là ngày hiển thắng của Thiên Chúa – hiển thắng trên
tội lỗi và sự chết của con người. Con người đành chịu thua số phận của mình ư?
Con người đành khuất phục trước sự chết ư?
Hay
con người sẵn lòng dự phần trong cuộc hiển thắng này?
Con
người đành thua sự chết khi họ chỉ hướng đến những gì thuộc hạ giới. Vì không
có mầm bất tử nơi hạ giới này.
Vâng,
đáng buồn biết bao, người ta vẫn chứng tỏ mình đành thua sự chết. Người ta
không chỉ chấp nhận chết mà còn bức tử kẻ khác nữa. Người ta thường bức tử những
kẻ không hiểu biết, những kẻ ngây thơ, thậm chí những đồng loại chưa được sinh
ra của mình.
Người
ta không chỉ đành thua sự chết. Người ta còn đặt cuộc hiện sinh của mình trong
chính cấu trúc của sự chết. Đây há không phải là cách mà chúng ta áp đặt cái chết
cho đồng loại chúng ta đó sao: bạo lực, tranh giành quyền lực một cách khát
máu, thu tóm của cải một cách ích kỷ, đấu tranh chống lại sự cùng khổ bằng cách
nuôi dưỡng lòng đố kỵ và quyết liệt báo thù, đe dọa và lăng nhục, tra tấn và khủng
bố? Có điều, dù đành chịu thua sự chết, con người vẫn khiếp sợ nó.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
21-4
Thánh
Anselmô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Cv
13, 13-25; Ga 13, 16-20
Lời
suy niệm: “Thầy bảo thật anh em: Ai đón tiếp người
Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
Đây
là một hạnh phúc cho những ai được Chúa Giêsu chọn và sai đi, nhưng cũng
cần phải khiêm tốn khi đến với người anh em, người anh em có đón tiếp mình cách
nhiệt tình, đó là vì họ cung kính và phục tùng Chúa Giêsu. Nên trong mọi ngôn từ
cũng như mọi hành động phải là của Chúa Giêsu chứ không phải là những quyết định
do tư tưởng riêng của mình.
Lạy
Chúa Giêsu, xin gìn giữ chúng con trong ơn gọi của Chúa, để chúng con luôn biết
hy sinh chính mình, yêu thương và phục vụ nhau; như Chúa đã yêu thương hy sinh
và phục vụ vì phần rỗi của chúng con. và cho toàn thế giới.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
21-04
Thánh
ANSELMÔ
Gíam
mục, Tiến Sĩ (1033 - 1109)
Thánh
Anselmô chào đời năm 1033 tại Aosta, trong một gia đình quí phái. Mẹ Ngài, một
người rất đạo đức lãnh trách nhiệm huấn luyện Ngài theo đàng nhân đức. Từ nhỏ,
Ngài đã được theo học những bậc thầy danh tiếng. Bởi thế, Ngài đã mau mắn tiến
triển cả về học vấn lẫn đức hạnh. Vào tuổi 15, thánh nhân đã biết chán ghét
danh vọng giả trá thế trần và quyết theo đuổi đời sống tu trì, nhưng cha Ngài
chống lại ý muốn này, thánh nhân buồn rầu ngã bệnh. Nhiệt tình theo đuổi đời sống
tu trì không kéo dài bao lâu, nhất là bà mẹ đạo đức qua đời.
Anselmô
rơi vào tình trạng nguội lạnh, nhiệt tình tuổi trẻ bị lôi cuốn vào những hấp dẫn
thế trần. Cho đến lúc này, Anselmô vẫn còn thần tượng của cha Ngài, nhưng Thiên
Chúa đã tha phép cho tình âu yếm của ông biến thành cay cú, đòi hỏi và cứng cỏi,
đến nỗi Anselmô đã phải bỏ nhà trốn đi. Ngài từ giã không phải khỏi nhà cha mẹ
mà thôi, nhưng còn bỏ luôn quê hương xứ sở cho tới tận miền Bourgogne. Tại đây,
Ngài lấy lại nhiệt tình ban đầu. Ba năm sau, Ngài đến thụ huấn với tu viện trưởng
Lanfrane ở Bec.
Một
ngày kia, Anselmô xét thấy mình đã khổ cực để nên thông thái nhiều hơn là để
nên đạo đức. Ngài đến quì dưới chân thày và nói : - Con có ba đường để theo :
hoặc là trở thành tu sĩ phải Bec, hoặc sống ẩn tu, hoặc ở giữa thế gian để phân
phát cho người nghèo gia sản của cha con để lại.
Đức Tổng
giám mục giáo phận Rouen khuyên Ngài theo đuổi đời sống tu trì. Thế là
Anselmôgia nhập tu viện Bec. Lúc ấy Ngài được 27 tuổi, Ngài đã dồn nỗ lực để
nghiên cứu thần học và đời sống khiêm tốn vâng phục. Năm 1072, Đức Đan viện phụ
Lanfrane được đặt làm tổng giám mục Canterbury. Anselmô được cử lên thay thế
làm tu viện trưởng rồi làm Đan viện phu.
Sự
đơn sơ và nhân hậu của Ngài đã đánh tan mọi ghen tương nghi kỵ. Hơn nữa sự
thánh thiện và trí thông minh của thánh nhân đã khiến cho Ngài trở thành danh
tiếng không những đối với các vị vua Chúa và các đức giám mục mà cả với thánh
giáo hoàng Grêgôriô nữa. Tu viện Đức Bà ở Bec trở thành nơi trung tâm của phong
trào trí thức thế kỷ XI năm 1087. Vua Willian I nước Anh từ trần. William Rufus
lên kế vị. Nhà độc tài này không muốn có những chủ chăn mới và sang đoạt được
nhiều tài sản của Giáo hội, nên khi Đức tổng giám mục Lanfrane qua đời, tòa
giám mục Canterbury bị trống ngôi, năm 1093 khi thánh Anselmô viếng thăm Anh quốc,
Rufus trong cơn trọng bệnh đã xin thánh nhân lãnh nhiệm vụ cai quản giáo phận
Canterbury. Thánh nhân đã từ chối, nhưng rồi cũng phải lãnh nhận vì sự nài nỉ của
các giám mục và nhất là vì sự chỉ định của đức Giáo hoàng Urbanô II.
Nhưng
rồi khi nhà vua bình phục, ông hối tiếc vì việc sám hối của mình. Khi bị Đức
Anselmô buộc phải chấp nhận quyền của Đức Urbanô, ông đã gây áp lực để truất phế
đức tổng giám mục. Đức Giáo hoàng không nhận những giáo dân có thế giá cho biết
sẽ không tha thứ cho việc truất phế thánh nhân, nhưng rồi năm 1097, sau nhiều
cuộc cãi vã liên tục và vô hiệu, thánh Anselmô tự ý xin đi lưu đày, Rufus ưng
thuận.
Thánh
Anselmô trở về Roma và được khen ngợi vì sự can đảm của Ngài sau khi tham dự cộng
đồng Bari và Roma. Thánh nhân tìm về đời sống tu viện tại dãy núi Apennins. Nơi
đây Ngài hoàn thành tác phẩm: tại sao Thiên Chúa làm người. Ngài tuân thủ từng
chi tiết của lề luật như một tập sinh. Ngài nói : - Cuối cùng tôi gặp được chốn
nghỉ ngơi.
Năm
1100, Rufus qua đời trong một cuộc đi săn. Henri em vua lên kế vị, nhà vua mới
triệu vời vị tổng giám mục trở về giáo phận. Năm 1106 Ngài trở về điều khiển
Giáo hội tại Anh quốc.
Trải
qua biết bao thăng trầm thánh nhân vẫn giữ được tâm hồn bình lặng. Ngài không bỏ
qua công cuộc tìm kiếm thần học. Bởi đó, Ngài đã thành chiến sĩ đầu tiên của
Giáo hội sau những thế kỷ đen tối. Luận chứng của Ngài nhằm chứng minh sự hiện
hữu của Thiên Chúa nay vẫn còn được biết đến. Thần học của Ngài là một phần
linh đạo đặt trên sự cảm thông với những đau khổ của Chúa Kitô.
Với
tư cách Tổng giám mục Canterbury Ngài đã chấm dứt việc bôi nhọ các thánh quê
mùa của nước Anh quốc và góp phần khơi dậy cảm tình những gì truyền thống nước
Anh từ xưa để lại. Đây là việc làm có giá trị lâu bền vì sửa lại được tình cảm
phân rẽ và cuộc chinh phục của William gây nên.
Năm
1109, thánh Anselmô qua đời. Một con người đã luôn biết tìm kiếm Chúa.
"Tôi không tìm hiểu để tin nhưng tin để mà hiểu biết", cuối cùng Ngài
đã tìm về được ánh sáng vĩnh cửu.
(daminhvn.net)
21
Tháng Tư
Món Quà Sinh Nhật
Một
bác nông phu tên là Donningos sinh sống bên Brazil bằng nghề trồng bắp. Một buổi
sáng nọ, trên con đường đi ra đồng làm việc, ông được đứa con trai mừng sinh nhật
thứ 10 chạy theo căn dặn: "Ðừng quên mang về hai con chim nhỏ làm quà sinh
nhật cho con cha nhé!". Người cha vốn rất vui tính và thương con nở nụ cười
tươi, gật gù dưới chiếc nón rộng vành cho con yên dạ.
Sau
một ngày lao động mệt nhọc trên cánh đồng, thấy mặt trời chưa lặn hẳn, bác
Donningos vội đi qua cánh rừng gần đấy gom một mớ củi. Ðang lúc bó củi, bỗng
bác nhớ lại lời hứa mang đôi chim về làm quà sinh nhật thứ 10 cho con. Bác bỏ vội
bó củi bên đường, tiến sâu vào rừng, trèo nhanh lên gành đá của một ngọn đồi,
nơi chim thường làm tổ. Tìm được một tổ chim có tiếng chim con kêu, bác cẩn thận
luồn tay vào, nhưng vừa đụng những chim con, bác vội rụt tay về, vì nghe đau
nhói như bị kim đâm. Nhìn kỹ đó là vết thương hai lỗ có máu rỉ ra. Chưa định thần
thì một con rắn đầu có hình chữ thập trườn ra ngoài, vươn đôi mắt ngê rợn chực
tiếp tục tấn công. Ðó là con rắn nổi tiếng được dân địa phương gọi là
"uturu des sétao". Nổi tiếng vì nọc nó vô phương cứu chữa.
Bác
nông phu vội rút chiếc dao cán dài ra khỏi thắt lưng, nhắm đầu rắn chặt nhanh.
May cho bác, nhát dao giết chết được con rắn, nhưng bàn tay bị rắn cắn bỗng vụt
sưng lên. Không chần chừ, bác kê tay lên gốc cây và mạnh tay chặt luôn hai
nhát, cắt lìa bàn tay. Buộc xong vết thương bằng chiếc áo và dùng răng phụ chiếc
tay còn lại xiết chặt, bác dùng sức tàn chạy nhanh về nhà, nhưng vẫn không quên
cầm hai chú chim làm qua sinh nhật cho con.
Bạn
có tin câu chuyện có thực này không? Nếu bạn không tin thì làm sao bạn tin được
một sự thật khác còn to lớn hơn: Thiên Chúa chúng ta, không những cho chúng ta
bàn tay của người, nhưng đã trao ban cho chúng ta trọn Con Một yêu dấu của Người.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét