02/01/2017
Thứ Hai trước lễ Hiển Linh
Thánh Baxiliô Cả và thánh Grêgôriô Nazianzênô, giám mục, tiến
sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
*
Thánh Baxiliô sinh tại Xêdarê miền Capađôxia năm 330, trong một gia đình Kitô
giáo. Vốn là người tinh thông văn học lại nổi tiếng nhân đức, ban đầu thánh
nhân chọn cuộc đời đan tu. Đến năm 370, người được cắt đặt làm giám mục cai
quản nơi người sinh trưởng. Người tích cực chống lại giáo phái Ariô, viết nhiều
tác phẩm. Đặc biệt, người đã soạn thảo những quy luật cho đời sống đan tu, mà
cho đến bây giờ, nhiều đan sĩ đông phương vẫn còn tuân giữ. Người hết sức chăm
lo cho người nghèo. Người qua đời ngày 1 tháng Giêng năm 379.
* Thánh Grêgôriô cũng
sinh năm 330 gần thành Nadien. Người đi rất nhiều nơi để học hỏi, người đã kết
thân với thánh Baxiliô, đã chọn cuộc sống tu hành, nhưng sau đó thụ phong linh
mục, rồi được chọn làm giám mục. Năm 381 người được đặt lên cai quản giáo phận
thành Công-tăng-ti-nô-pô-li; tuy nhiên, 18 tháng sau, vì có sự chia rẽ và bè
phái trong địa phận, người lui về thành Nadien và qua đời tại đó ngày 25 tháng
Giêng năm 389 hay 390. Hậu thế thường gọi thánh nhân là nhà thần học vì người
vừa am tường đạo lý cao siêu, vừa có tài hùng biện.
Bài Ðọc
I: 1Jo 2,22-28
"Ước
gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con"
Bài
trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.
Các
con thân mến, ai là kẻ nói dối, nếu chẳng phải là kẻ không nhìn nhận Chúa Giêsu
là Ðức Kitô?
Ai
không nhận Chúa Cha và Chúa Con, chính nó là Phản Kitô, ai không nhận Chúa Con,
thì cũng không được có Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có
Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có Chúa Cha.
Phần
các con, ước gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con.
Nếu
điều các con đã nghe từ ban đầu vẫn ở lại trong các con, thì các con cũng được
ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha nữa. Và này là điều Người đã hứa cho chúng ta,
đó là sự sống đời đời.
Ta đã
viết những điều này cho các con biết về những người lừa dối các con.
Về
phần các con, việc xức dầu mà các con đã nhận lãnh nơi Người vẫn ở lại trong
các con, nên các con không cần ai dạy dỗ, nhưng như việc xức dầu của Người đã
dạy các con mọi sự, và lại là sự thật, chứ không phải sự dối trá, nên như các
con đã được dạy dỗ, hãy ở lại trong Người.
Và giờ
đây, hỡi các con bé nhỏ, hãy ở lại trong Người, để khi Người tỏ hiện, chúng ta
được dạn dĩ, không phải xấu hổ lìa xa Người, lúc Người đến.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 97,1.2-3a, 3cd-4
Ðáp: (3c) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi
trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Xướng
1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng.
Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Ðáp.
2)
Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người
đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel. - Ðáp.
3) Mọi
dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy mừng vui, hoan lạc và đàn ca.
- Ðáp.
Alleluia:
Jo 1,14 và 12b
Alleluia,
Alleluia - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người,
thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Alleluia.
Phúc
Âm: Jo 1,19-28
"Có
một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"
Bài
trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.
Ðây là
chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các
Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"
Ông
liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là
Ðấng Kitô".
Họ
liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?"
Gioan
trả lời: "Tôi không phải là Elia".
"Hay
ông là một đấng tiên tri?"
Gioan
đáp: "Không phải".
Họ
liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng
tôi. Ông tự xưng là ai?"
Gioan
đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi,
như tiên tri Isaia đã loan báo".
Và
những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái.
Họ hỏi
Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một
tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?"
Gioan
trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà
các ngươi không biết.
Ðấng
ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng
cởi dây giày cho Người".
Việc
này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
Ðó là
Lời Chúa.
Suy
Niệm: Lời Chứng Của Gioan
Con
người thường mang tâm trạng thích được khen, người nhận lời khen cảm thấy tâm
hồn thoải mái, vui tươi, phấn khởi. Ðó là một nghệ thuật để khuyến khích người
khác hăng hái tiếp tục công việc họ đang làm ngày càng khá hơn. Trong gia đình,
người chồng khen người vợ biết trang hoàng căn phòng lịch sự, sáng sủa, đơn sơ
sẽ làm cho người vợ thương mến người chồng hơn, hoặc người chồng được vợ khen
là biết chọn màu áo trang nhã, tiệm may vừa khít trông đẹp, phải chăng tình
thương nồng ấm, đậm đà giữa vợ chồng trong gia đình càng tăng thêm hạnh phúc
hơn.
Nếu
một người nhân viên trong sở làm, người giám đốc mỉm cười khen một cách thành
thực là anh đi làm rất đúng giờ có phải là một ích lợi lớn lao cho anh, vì được
ông chủ để ý đến mình và biết đâu anh ta nhờ đó mà siêng năng, chăm chỉ hơn
trong công việc của mình. Cho nên, khen là một điều nên thực hiện khi có thể
đối với nhau. Tuy nhiên, điểm tác hại sâu xa nhất là khen hời, khen quá hóa nịnh
là chuyện không nên. Người ta không có mà chúng ta đưa lên tận mây xanh làm họ
mở mắt không ra, không nhìn thấy khả năng thực sự của mình và làm họ cứ ảo
tưởng nghĩ rằng mình giỏi thật, đó thật là một chuyện nguy hiểm và là chuyện
tâm lý bình thường của con người. Có một điểm nữa là từ đó con người ưa nói quá
về mình. Chúng ta không có nhưng người ta nịnh gán cho mọi thứ tài giỏi hay ho,
chúng ta cũng cứ nhận bừa lấy và trở thành như là của mình để rồi cứ nhận tiếp
những lời khen quá đáng như thế.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả đã cho chúng ta một bài học trung thực về
chính cuộc đời của ông. Khi những người Do Thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế
và các thầy Lêvi đến hỏi ông là ai? Ngụ ý của họ là muốn biết Gioan có phải là
Ðức Kitô, Ðấng phải đến chăng? Gioan xác nhận ngay: "Tôi không phải là Ðức
Kitô". Ðức Kitô thì chắc hẳn Gioan không dám tự nhận nhưng ông có thể nhận
mình là Elia được, vì có ai biết được Elia đâu, người ta chỉ nghe truyền thuyết
là Elia không chết, ông ngồi trên xe lửa mà về trời và sau này ông sẽ trở lại.
Nhưng Gioan Tẩy Giả cũng không nhận mình là Elia và ngay cả người ta hỏi:
"Ông có phải là một tiên tri không?" vì Gioan cũng làm nhiều điều lạ,
ông kêu gọi mọi người ăn năn hối cải và người ta đến rất đông để nhận lãnh phép
rửa do ông ban cho. Ông cũng có thể nhận mình là một tiên tri nào đó thì có ai
biết đến, thế nhưng ông vẫn trả lời:"Tôi không phải là một tiên tri"
mà ông tự nhận như sau: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường
cho ngay thẳng để Chúa đi", như lời tiên tri Isaia đã loan báo.
Một
con người thấp hèn với địa vị khiêm tốn, nào ai trong chúng ta chấp nhận được
tinh thần như Gioan Tẩy Giả. Và còn hơn thế nữa, Gioan đã nhìn nhận con người
kém cỏi của mình so với Ðấng Cứu Thế mà ông đang rao giảng: "Ðấng sẽ đến
sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài". Một câu nói khác
mà Chúa Giêsu đưa ra để cho chúng ta noi gương, Chúa Giêsu đã nói: Khi vào bàn
tiệc hãy ngồi chỗ rốt hết để sau đó người ta mời mình lên nơi cao có phải vinh
dự hơn không?" Còn nếu chúng ta ngồi vào chỗ nhất, chỗ nhì thì sau đó
người ta sẽ lại đến nói với chúng ta: "Xin nhường chỗ cho vị này" có
phải là chúng ta xấu hổ mà ngồi lui xuống dưới chăng.
Khi
người khác nhờ chúng ta một việc gì trong khả năng mà chúng ta có thể làm được
thì chúng ta sẽ giúp họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khiêm tốn nói: "Nếu không
có gì trở ngại, tôi sẽ làm giúp cho anh", hay "theo khả năng của tôi,
tôi hy vọng giúp được anh". Nói thế không hẳn là chúng ta thiếu tự tin hay
không sốt sắng sẵn sàng trong những công việc người khác nhờ chúng ta. Nhưng
nói như vậy là chúng ta nói lên sự tế nhị, sự khiêm tốn trong khả năng Thiên
Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả có một tinh thần khiêm
nhu, ôn hòa để qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra được khuôn mặt
nhân hậu, từ ái bao la của Chúa. Amen.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 2 tháng 1 BNGS
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự thật và sự dối trá quanh
co
Trong xã hội, rất khó cho chúng
ta để nhận biết bản chất đích thực của một người qua việc đối thọai. Khi phải
nói về mình, con người thường có những khuynh hướng như: mạo nhận danh nghĩa
người khác; giả vờ như mình có để người khác phải thán phục mình; khuếch đại:
có ít nói nhiều; nói quanh co để người khác khỏi nhận ra con người thực của
mình. Khi phải tìm hiểu cá nhân đó qua người khác, người khác thường có khuynh
hướng: cắt bớt những công trạng và các đức tính tốt để họ đừng nổi bật quá;
thêm những nhận xét của mình để dìm bớt những điều tốt; gán cho họ những tật xấu
mà họ không có; hay vơ vào những thói xấu của gia đình họ.
Các Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta
phải biết sống thực với con người của mình. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan đưa ra
lý do tại sao chúng ta phải sống thực là vì chúng ta đã lãnh nhận dầu Thánh Thần
qua Bí-tích Rửa Tội. Thánh Thần giúp chúng ta sống thực, và giúp nhận ra những
sự giả trá trong thế gian. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả cho chúng ta một mẫu
gương phải sống thực qua cách trả lời cho những người đến điều tra: ngắn gọn:
có hoặc không; trực tiếp: không dài giòng quanh co; đơn giản: không dùng những
lời nhiều nghĩa; chính xác: những gì mình là, không phải những gì người khác gọi,
hay khen mình. Khi phải so sánh mình với Chúa Giêsu, Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường
nhìn nhận: “Tôi tuy đến trước, nhưng tôi không xứng đáng để cởi quai dép cho
Ngài.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kitô Giáo và các tôn giáo khác
1.1/ Phản-Kitô là người không tin Đức
Kitô: Nhiều tôn giáo thờ một Thiên Chúa;
chẳng hạn, Do-Thái Giáo, Hồi Giáo, nhưng Kitô Giáo thờ Thiên Chúa và Đức Kitô.
(1) Các lạc giáo: Ngay từ
thời Thánh Gioan, khi Kitô Giáo bành trướng vào thế giới, có nhiều những lạc
giáo từ chối không tin thiên tính (Do-Thái Giáo) hay nhân tính của Đức Kitô (Chủ-nghĩa
thuần Tri-thức). Thánh Gioan đề phòng các tín hữu của ngài các lạc giáo này:
“Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô? Kẻ ấy
là tên Phản-Kitô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con.”
(2) Mối liên hệ giữa Thiên Chúa
và Đức Kitô: Đối phương của Gioan có thể thuyết phục ngài: “Tuy khác biệt,
nhưng chúng ta cùng tin Một Thiên Chúa.” Thánh Gioan thẳng thắn nói lên niềm
tin của ngài: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng Chúa
Con thì cũng có Chúa Cha.” Theo ngài, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa Chúa Cha
và Chúa Con:
- Chúa Giêsu mặc khải cho con
người biết về Chúa Cha, và nếu Ngài không mặc khải, con người không thể biết
Chúa Cha: “Không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con
và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27, Lk 10:22).
- Tin Con là tin Cha (Jn
12:44-45); từ chối Con sẽ bị Cha từ chối (Mt 10, 32-33).
- Nhìn thấy Con là nhìn thấy Cha
(Jn 14 :6-9).
1.2/ Hai tiêu chuẩn để nhận ra sự
thật: Để chống lại những lạc giáo,
Thánh Gioan đưa ra 2 tiêu chuẩn để giúp các tín hữu nhận ra sự thật phải theo
và sự dối trá phải tránh: tiêu chuẩn bên ngòai là những Giáo Huấn của Giáo Hội;
và tiêu chuẩn bên trong là sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.
(1) Điều anh em đã nghe từ lúc
khởi đầu: Ngài nói: “Phần anh em, ước chi điều anh em đã nghe từ lúc khởi
đầu ở lại trong anh em. Nếu điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại trong anh
em, thì chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là điều mà
chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời.” Điều nghe từ đầu đây
có lẽ là những dạy dỗ về đạo, trước khi một người được lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội.
(2) Sự soi sáng của Chúa Thánh
Thần: Khi một người được chịu Phép Rửa nhân danh Đức Kitô, người ấy được xức
dầu của Thánh Thần; và được phong chức làm tư tế, tiên tri, và vương đế. Thánh
Gioan quả quyết: “Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại
trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa; nhưng dầu của Người dạy dỗ anh
em mọi sự - mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá - thì theo như dầu ấy
đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người.” Trong khi chủ thuyết “Thuần
Tri-thức” cho rằng chỉ có họ mới biết cách giải thóat con người ra khỏi vật chất
để kết hợp với Thiên Chúa; Thánh Gioan dạy các tín hữu: một khi đã có Thánh Thần
của Thiên Chúa, Thần Sự Thật, trong người, các tín hữu chẳng cần phải được dạy
dỗ bởi ai khác nữa.
2/ Phúc Âm: Lời chứng của Gioan
2.1/ Những gì Gioan không là: Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do-Thái từ
Jerusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"
Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng
Kitô." Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlijah
không? " Ông nói: "Không phải." "Ông có phải là vị ngôn sứ
chăng? " Ông đáp: "Không." Sở dĩ Gioan Tẩy Giả trả lời như thế
là vì ông không quan tâm đến những điều người khác nói về ông, mà ông chỉ quan
tâm đến những gì ông thực sự là. Nhiều người đã coi Gioan Tẩy Giả như một
Tiên-tri, và chính Chúa Giêsu đã gọi ông là một Tiên-tri quan trọng hơn hết các
tiên-tri.
2.2/ Điều Gioan Tẩy Giả là: Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi
còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?"
Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức
Chúa đi, như ngôn sứ Isaiah đã nói.” Một khi Gioan nhận ra sứ vụ Thiên Chúa
trao cho trong cuộc đời, ông dành mọi thời gian, và nỗ lực để chu tòan sứ vụ của
mình.
Trong nhóm được cử đi, có mấy
người thuộc phái Pharisees. Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu
ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlijah hay vị ngôn sứ?"
Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở
giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi
quai dép cho Người." Chỗ khác, Gioan phân biệt hai Phép Rửa: ông làm Phép
Rửa để tha tội, nhưng Đức Kitô làm Phép Rửa để ban Chúa Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần biết mình, biết
Thiên Chúa, và biết tha nhân.
- Chúng ta đừng bao giờ mạo nhận
những gì chúng ta không có, cũng đừng bao giờ đánh cắp công ơn của người khác;
nhưng phải biết nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
- Chúng ta phải đề phòng những kẻ
Phản-Kitô và những người không sống xứng đáng với danh hiệu “Kitô hữu” của
mình.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên,
OP.
02/01/17 THỨ HAI TRƯỚC LỄ HIỂN LINH
Th. Ba-xi-li-ô Cả, giám
mục, tiến sĩ HT Ga 1,19-28
HẠNH PHÚC QUANH TA
“Nhưng có một vị đang
ở giữa các ông mà các ông không biết.” (Ga 1,26)
Suy
niệm: Trên xe buýt ở Thụy
Điển, anh lính Mỹ ba hoa: “Nước Mỹ là nước dân chủ nhất thế giới,
người dân có thể tới Toà Nhà Trắng và bàn luận công việc với tổng thống”. Một
người đáp lại: “Ăn thua gì, ở nước tôi, người dân và nhà vua cùng đi trên xe
buýt và nói chuyện với nhau”. Khi ông xuống khỏi xe, những hành khách khác cho
anh biết đó chính là vua Adolf VI. Anh lính nước ngoài không biết vua
Thụy Điển, còn người dân biết, là chuyện bình thường. Đang khi ấy Vua của trời
đất đang hiện diện giữa dân mình, nhưng mấy ai nhận ra, bởi vì Ngài không oai
phong lẫm liệt từ trời xuống, nhưng lặng lẽ nhập thể làm người nơi cung lòng
một thôn nữ, sinh ra trong một hang đá tăm tối, nôi nằm là máng ăn hôi hám của
chiên bò, âm thầm lớn lên ở làng bé nhỏ Na-da-rét. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đi
đến mút cùng của thân phận làm người, để bày tỏ lòng yêu thương.
Mời Bạn: “Đừng dùng cân tiểu ly để cân đo hạnh phúc, nếu
dùng cái cân thường, bạn sẽ thấy hài lòng” (Ngạn ngữ Đức). Hạnh
phúc ở quanh bạn, nơi gia đình bạn sinh sống, trong công việc bạn làm, nơi
người bạn gặp gỡ. Hạnh phúc ở trong bạn, khi Thiên Chúa hiện diện và chúc lành
cho bạn qua từng giây phút.
Sống Lời Chúa: Tập
nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời qua việc dâng lên Chúa một lời cầu
nguyện ngắn bắt đầu ngày sống và vào cuối ngày.
Cầu nguyện: Xin ở lại với con, lạy
Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện, để con khỏi quên Chúa. Xin ở lại với
con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ. Xin ở
lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời. Amen. (cha
Piô)
Có một vị đang ở giữa các ông (2.1.2017 – Thứ hai)
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình. Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm.
Suy niệm:
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra
khỏi những bận tâm về mình.
Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi
mình là trung tâm.
Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha
nhân.
Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng
trong con cái loài người, không ai lớn hơn
ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11).
Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu
trực tiếp Đấng Mêsia.là Đức Giêsu,
một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu
Ước được diễm phúc làm.
Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận
nhỏ đi:
“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”
(Ga 3, 30).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan
làm mình nhỏ lại.
Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc
khổ và lời giảng mạnh mẽ,
thì người Do Thái, người Pharisêu, sai các
tư tế và các thầy Lêvi
từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép
rửa ở bên kia sông Giođan.
Họ muốn biết ông Gioan là ai.
Gioan đã không nhận mình là Đấng Kitô, hay
Êlia tái giáng (Ml 4,5),
hay vị Ngôn Sứ cao cả đã được ông Môsê loan
báo (Tl 18, 15.18),
mặc dù có người đã nghĩ ông là như vậy.
Những lời từ chối của Gioan càng lúc càng
ngắn hơn và sắc hơn.
“Tôi không phải là Đức Kitô. - Tôi không
phải là. - Không.”
Gioan từ chối những chức danh mà nhiều
người thèm muốn.,
bởi lẽ ông biết rõ mình là ai.
Khi bị bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời
về con người của mình,
Gioan đã chọn câu của ngôn sứ Isaia (40,
3).
“Tôi là tiếng người hô trong hoang địa.
Hãy sửa cho thẳng con đường của Chúa.”
Gioan nhận mình chỉ là người dọn đường cho
một Đấng đến sau,
Đấng ấy là người ông không xứng đáng cởi
quai dép.
Cởi quai dép của chủ là việc chỉ dành cho
người nô lệ thấp kém nhất.
Gioan là người làm chứng tuyệt vời về ánh
sáng (Ga 1, 7-8).
Ông là “tiếng” làm chứng cho “Lời” là Con
Một Thiên Chúa.
Cám ơn Gioan vì nhờ ông mà ta gặp được Ánh
Sáng thật.
Cám ơn Gioan vì tiếng của
ông dẫn ta đến với Lời của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
(Thánh Augustinô)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
2 THÁNG GIÊNG
Một Mầu Nhiệm Giấu Ẩn Trong Hai Tâm Hồn
Giáo Hội cảm nghiệm niềm vui
giáng sinh của Chúa trong mầu nhiệm gia đình – mầu nhiệm Gia Đình Thánh. Đây là
một chân lý đầy chất nhân bản. Với sự chào đời của đứa con, cuộc hôn nhân giữa
hai người nam nữ – giữa vợ và chồng – càng trở nên trọn vẹn hơn trong tư cách
là một gia đình.
Đồng thời, cuộc sinh hạ của Đức
Giêsu là một mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa vén mở ra trước mắt người trần, một
mầu nhiệm giấu ẩn trong đức tin và trong cõi lòng của Maria và Giu-se ở
Na-da-rét. Trước bất cứ ai, hai người là những chứng nhân duy nhất của biến cố
Hài Nhi chào đời tại Bê-lem – biến cố chào đời của Con Đấng Tối Cao!
Nơi Maria và Giu-se, Thiên Chúa
tỏ lộ mầu nhiệm gia đình. Thiên Chúa xây dựng gia đình này với Maria và Giu-se
– và với cuộc chào đời của Giê-su.
Và chúng ta, khi biết nhìn bằng
con mắt đức tin, sẽ nhận ra rằng qua Gia Đình Thánh này, Thiên Chúa cho thấy
Ngài gần gũi chúng ta biết bao. Gia Đình Thánh ấy cũng nêu bật địa vị của mọi
gia đình trong ánh nhìn của Tạo Hóa. Thật vậy, Đức Kitô đã trao tặng chúng ta
Bí Tích Hôn Nhân như một dấu chỉ của địa vị cao cả ấy. Tông Đồ Phao-lô đã có thể
gọi bí tích này là “một mầu nhiệm lớn lao” của mối quan hệ giữa Chúa Kitô và
Giáo Hội (Ep 5, 32).
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II –
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Basiliô Cả và Thánh
Grêgôriô Naziazênô,giám mục tiến sĩ Hội Thánh
1Ga 2, 22-28; Ga 1,19-28.
LỜI SUY NIỆM: “Và đây là lời chứng
của ông Gioan, khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi
đến hỏi ông: Ông là ai? Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: Tôi không
phải là Đấng Ki-tô”. (Ga 1,19-20).
Ông Gioan Tẩy Giả chỉ là vị tiền hô, đến để dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Mặc
dù bên ngoài của ông, làm cho nhiều người lầm tưởng ông là Đấng Ki-tô, hay là
những ngôn sứ lớn. Nhưng ông đã khước từ những danh xưng đó. Ông tuyên bố thẳng
thắn là: ông không phải là Đấng Ki-tô. Ông chỉ lả tiếng người hô trong hoang địa.
Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng cần có thái độ như Gioan Tẩy Giả, dù
những công việc chúng ta đang làm, lời ta đang nói có được xem là tốt lành,
chúng ta cũng phải nhận ra đó là ân ban của Chúa, tất cả những gì chúng ta đang
có đều là của Ngài. Chúng ta luôn phải sống tốt và tốt hơn để Chúa đến trên
chúng ta. Chúng ta chỉ là tiếng hô cho mọi người chung quanh biết để họ nhận ra
có Chúa mà đến với Ngài.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-01:
THÁNH BASILIÔ CẢ
Giám mục, Tiến Sĩ (329-397)
Thánh Basiliô, con người kỳ diệu
mà mọi thời gọi là thánh Cả, chào đời vào khoảng cuối năm 329 tại Cêsarêa, thủ
đô miền Cappadocia. Ngài thật có phúc vì được sinh ra trong một gia đình thánh
thiện. Cha Ngài là thánh Basilio, mẹ Ngài là thánh nữ Emelia. Nhưng sinh ra
Ngài, cha mẹ Ngài đã chịu bao nỗi lo âu. Một cơn bệnh nặng tưởng như đã cất mất
mạng sống của Ngài. Việc Ngài bình phục được coi như là kết quả của lời cầu
nguyện mà thôi.
Từ thuở thơ ấu thánh nhân đã đến
sống với người bà là thánh nữ Macrina. Tại đây, Ngài đã hấp thụ được những
nguyên tắc sống đạo đức đầu tiên. Ngài nói: tôi không hề quên được những lời dạy
dỗ và gương lành mà người bà thánh thiện đã ghi vào trong tâm hồn bé thơ của
tôi.
Ngay khi tới buổi đi học, cha
Ngài, một con người vừa đạo đức vừa hoạt bát, đã tự đảm nhiệm việc dạy dỗ Ngài
những yếu tố đầu tiên về văn chương. Sau khi cha qua đời, Ngài được gửi đi
Cêsarea rồi Constantinople để học khoa hùng biện. Sau cùng, Ngài đi Athena,
kinh thành ánh sáng của thế giới nói tiếng Hy Lạp thời đó. Tại đây, Ngài có dịp
làm quen với Thánh Gregoriô thành Nazianze. Hai người kết thân với nhau và tình
bạn đầy thánh thiện của họ không hề bị một áng mây mù nào che phủ. Trong thành
phố xa hoa ấy, họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và tới trường học.
Sau khi hoàn tất các môn học,
Ngài dồn nỗ lực học kinh thánh và các giáo phụ. Ngài đã kín múc được từ kho
tàng phong phú này những hiểu biết và những tâm tình cao thượng qui hướng con
người lên trời.
Lúc hai mươi bảy tuổi, Ngài trở
về quê nhà và biện hộ cho một vài vụ kiện tụng. Tài lợi khẩu và thành công tưởng
đã cột chặt Ngài vào với pháp đình. Nhưng chị Ngài là thánh nữ Macrina (trẻ) đã
nói cho Ngài biết về sự giả trá của những tài năng của cả loài người, và về những
giá trị chân thực mà Ngài nhhư đã bỏ quên. Thế là thánh nhân quyết từ giã thế
gian và đeo đuổi đời sống tu trì. Ngài đã viếng thăm các tu viện bên Đông
phương để tìm kiếm gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức. Một năm sau Ngài trở về
Cappadocia, rồi lui về miền Pont và thiết lập nhiều tu viện. Các qui luật Ngài
soạn ra cho các tu viện đã trở thành danh tiếng và ngày nay vẫn còn được áp dụng
tại các tu viện của Giáo hội công giáo theo nghi lễ Byzantin. Chính thánh
Bênêdictô cũng chịu ảnh hưởng của Ngài qua bản dịch tiếng la Tinh của Ruffinô.
Thánh Basiliô chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng điều Ngài đã làm đã
viết là phần thành công trực tiếp và lâu bền nhất trong công trình đời Ngài.
Năm 370 khi Đức giám mục
Eu-sê-bi-ô qua đời, thánh Basiliô được bầu làm giám mục Cêsaria. Thánh nhân đã
lãnh nhận giáo phận trong một hoàn cảnh đầy sóng gió và đã tỏ ra là một chủ
chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. Lúc ấy lạc giáo Ariô đang ở vào thời
cực thịnh. Hoàng đế Va-lăng (valens) đứng vào phái lạc giáo để bách hại Giáo hội.
Thánh Grêgoriô đã kể lại cuộc đời thánh Basiliô, có lẽ đã tô điểm thêm đôi
chút, nhưng đã cho thấy được cá tính của thánh nhân như thế nào. Va-lăng phái
Modestô, một tổng trấn nổi tiếng mưu mô và hung ác đến gặp thánh nhân.
Hắn nói: - Tại sao ông dám chống
lại hoàng đế và không theo đạo của Ngài.
Thánh nhân trả lời: - Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.
Thánh nhân trả lời: - Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.
Modestô vặn lại: - Vậy ông coi
chúng tôi là thứ gì chứ ?
Thánh nhân trịnh trọng đáp lời:
- Tôi chẳng coi các ông là gì cả, bởi vì các ông đã bắt chúng tôi phải có những
điều phản nghịch lại thánh ý Thiên Chúa:
Modestô liền dở trò đe dọa: -
Ông không biết rằng tôi có thể cho ông nếm mùi sức mạnh của chúng tôi sao ?
Nhưng thánh nhân đã khẳng khái
trả lời: - Những hậu quả do sức mạnh của các ông chỉ có thể là tịch biên tài sản,
lưu đày, tra tấn hay là sát hại mà thôi. Đối với việc tịch biên tài sản thì người
không có gì như tôi làm gì mà phải sợ. Tôi càng không sợ phải lưu đày, bởi vì
đâu có Chúa thì đấy cũng là quê hương của tôi. Đối với những tra tấn ông muốn bắt
tôi phải chịu, thì quả thật tôi đã quá yếu đuối và không đủ sức để chịu được một
cuộc tra tấn thứ hai. Về cái chết, làm sao tôi lại phải sợ, vì nó sẽ sớm đưa
tôi về với Thiên Chúa hơn".
Vị tổng trấn ngạc nhiên: - Tôi
chưa hề gặp người nào gan dạ như ông.
Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: - Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.
Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: - Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.
Sau cuộc đàm thoai nẩy lửa này,
tình hình lắng dịu một thời gian. Nhưng vì áp lực của bè rối, hoàng đế Valăng
tính bắt giám mục Basiliô đi đày. Nhưng ý định bất thành vì ngay đêm trước con
ông ngã bệnh nặng, được giám mục viếng thăm và cầu nguyện cho lành, nó cũng đã
qua đời vì sự thay lòng đổi dạ của nhà vua. Dầu vậy, dưới áp lực mạnh mẽ của bè
rối, vua cũng quyết ký án lệnh phát lưu Đức giám mục. Lần này, ông vẫn thất bại
vì ba bốn lần cầm lấy viết thì viết bị hư, cầm đến ấn thì ấn bị bể nát.
Ngoài sự can trường để bảo vệ đức
tin chân chính, thánh Basilio còn là một mục tử nhiệt hành và giàu lòng bác ái,
Ngài đã liên tục đi thăm viếng từng miền trong giáo phận, Ngài chuyên chăm dạy
dỗ đoàn chiên và một số bài giảng của Ngài được lưu giữ tới ngày nay là những
công trình thần học rất đáng giá. Ngoài ta thánh nhân còn thương yêu đặc biệt
những người nghèo khó bệnh tật. Ngài đã thiết lập một nhà thương, đặt tên là
Basiliô (Basiliade) để săn sóc họ.
Thánh nhân đã được sống để chứng
kiến cái chết của Valăng lẫn sự tàn lụi của lạc giáo Ariô. Nhưng chẳng bao lâu
sau Ngài cũng qua đời vì kiệt sức, ngày 1 tháng giêng năm 379.
Ngày 02-01:
Thánh GREGÔRIÔ NAZIANZÊNÔ
Giám Mục Tiến Sĩ - (329 - 390)
Thánh Grêgôriô Nazianzênô là một
trong những giáo phụ danh tiếng của giáo hội Hy Lạp và được mệnh danh là thần học
vì giáo thuyết rất sâu sắc của Ngài. Ngài ra đời khoảng năm 329, trong một gia
đình danh giá và đáng mến chuộng. Cha Ngài, cũng tên là Grêgôriô, lúc ấy còn là
lương dân. Nhưng thánh nữ Monna, mẹ Ngài, nhờ nhân đức siêu vượt, sự dịu hiền,
đời sống gương mẫu với kinh nghiệm và nước mắt đã đưa ông về với Chúa Giêsu.
Thánh Leông (Léonce) giám mục
thành Cêsarêa đã rửa tội cho ông. Vài năm sau, nhờ đời sống đạo đức trổi vượt,
ông đã xứng đáng lãnh chức giám mục, cai quản điạ phận Nazianze.
Thánh Grêgôriô ra đời như kết quả
lời cầu nguyện của bà mẹ thánh thiện, chỉ mong có được người con để phục vụ bàn
thánh. Khi thánh nhân ra đời, bà coi Ngài như quà tặng của trời cao. Được đào tạo
trong một môi trường thánh thiện như vậy, ngay từ nhỏ, Ngài đã biết quí trọng
những nét đẹp của tội thơ vô tội.
Thánh nhân được cử đi học hùng
biện ở Cêsarêa, rồi Palestina. Sau đó Ngài đã qua Alexandria và sau cùng tới
Athena là nơi coi là nguồn gốc đích thật của khoa hùng biện, trên đường tới
Athena, con tàu thánh nhân đi đã phải một cơn bão dữ dội, tưởng chừng như sẽ bị
đắm chìm trong lòng biển. Lúc ấy thánh nhân chưa được rửa tội và rất lo âu cho
phần rỗi của mình. Ngài tha thiết cầu khẩn Thiên Chúa thánh cho được sống thêm,
để có thể làm con Chúa. Thánh nhân đã được nhậm lời. Cơn giông bão chấm dứt và
Ngài tới được Athena.
Tại đây thánh Gregorio gặp lại một
người bạn cũ của mình là thánh Basiliô. Mối giây thân tình giữa các Ngài ngày
càng trở nên bền chặt hơn. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn trưng dẫn hai vị
nhân này như là khuôn mẫu cho tình bạn trong trắng và chân thành nhất. Không thể
lìa xa nhau, họ còn chú tâm tránh thoát mọi cuộc kết thân nguy hiểm và chỉ giao
tiếp với những bạn bè mà lòng hiếu học luôn đi đôi với việc thực hành các nhân
đức. Không bao giờ người ta thấy họ đi vào các cuộc giải trí có tính cách trần
tục. Trong thành phố xa hoa ấy họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và
các trường học.
Hoàn tất việc học hành, thánh
Grêgôriô trở về sống với cha mình đang làm giám mục cai quản giáo phận Nazianze
và được cha ban phép Rửa tội cho. Một khi đã được đóng ấn tín thần linh, Ngài
coi mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân phung sự Ngài,
Ngài nói: - "Tôi hiến trọn
cho Đấng đã ban cho tôi tất cả. Từ nay chỉ có Ngài là phần sản nghiệp của
tôi".
Tình thảo hiếu đã giữ lại bên
người cha già tám mươi tuổi trong ba năm trời. Ngài giúp đỡ cha trong mọi công
việc và chăm sóc mọi việc trong nhà. Nhưng lòng yêu thích được ẩn dật đã đưa
Ngài tới gặp thánh Basiliô đang theo đuổi nếp sống tu trì. Ngài đã sống xa thế
gian một thời gian và chỉ lo tới sự hoàn thiện của mình. Nhưng thời gian ẩn dật
này mới chỉ đủ cho Ngài nếm thử được sự ngọt ngào để mà luyến tiếc thôi, người
cha già chín mươi tuổi đã gọi Ngài về giúp việc điều khiển giao phận. Nhận thấy
rằng: Giáo hội sẽ được lợi ích nhiều bởi người con thân yêu của mình, vị thánh
giám mục già cả đã truyền chức linh mục cho Ngài ngày 6 tháng 1 năm 362. Lúc ấy
thánh Gregôriô hơn ba muôi lăm tuổi và ấn tích mới càng tăng thêm nhiệt tình của
Ngài.
Thánh Basiliô lúc ấy đã làm tổng
giám mục Cêsalêa, quyết định nâng thánh Gregoriô lên làm giám mục cai quản điạ
phận Sarima. Nhưng vì những chống đối dữ dội, Ngài đã không hề tới nhậm điạ phận
được và dường như Ngài chịu chức giám mục chỉ để giúp đỡ người cha mà tuổi tác
đã không cho phép chu toàn phận sự được nữa. Sau khi cha qua đời năm 374 thánh
nhân trở lại Nazianze săn sóc cho giáo phận, nhưng không hề muốn làm giám mục của
giáo phận này.
Năm 380, tức là khoảng năm năm
sau, các tín hữu ở Constantinopkle đã khẩn nài thánh nhân tới củng cố giáo phận
đã bị bè rối Ariô tàn phá của họ, với nhiệt tâm tông đồ, thánh nhân đã nhận lời.
Trước tiên thánh nhân đã không được tiếp đón nồng hậu lắm. Trong một thành phố
xa hoa giàu có vì là thủ đô mới của đế quốc này, người ta đang ngóng đợi một
nhân vật có khuôn mặt sáng sủa giữa một đám rước linh đình. Nhưng người ta đã
vô cùng kinh ngạc khi thấy Ngài chỉ là một ông lão già yếu, ăn mặc giản dị và lời
nói vắn gọn.
Những người theo lạc giáo Ariô
chế giễu phỉ báng Ngài. Dầu vậy, bằng những giáo huấn vững chắc và hùng hồn,
Ngài đã thành công trong việc đưa dân thành này từ chỗ bỏ cái sai lầm của lạc
giáo mà trở về với đức tin công giáo. Sau bốn mươi bị năm bị tàn phá. Giáo phận
không có nhà thờ, Ngài rao giảng trên đường phố hay tại một ngôi nhà mà Ngài
đăt tên là Anastasia.
Hương thơm nhân đức và sự hiểu
biết uyên thâm của Ngài đã lối kéo cảm tình người nghe càng thêm đông. Từ trong
sa mạc, thánh Hiêronymô cũng tìm đến nghe người giảng thuyết. Tuy nhiên bề
ngoài khiêm tốn bình dị và hoàn cảnh khó khăn ấy cũng là một khó khăn khiến cho
địch thủ đã nhiều lần toan tính ám hại Người.
Năm 381, công đồng chung họp tại
Constantinople, thánh Grêgôriô được bầu lên làm giám mục chính tòa của giáo phận
này và giữ ghế chủ tịch công đồng. Nhưng ít lâu sau, một số giám mục đã chất vấn
tính cách hợp pháp của chức vụ Ngài. Lợi dụng những chống đối này, thánh
Grêgôriô đã xin từ chức. Sau khi đã làm vui lòng các nghị phụ công đồng bằng
quyết định của mình, thánh nhân đã đe5 đơn lên Hoàng đế Têodô (Thésdose) Hoàng
đế buộc lòng chấp thuận, cho Ngài từ nhiệm, chỉ vì lý do sứ ckhỏe mà thôi. Trước
khi dứt mình khỏi Giáo hội mà Ngài đã dày công tạo lập với đầy tình yêu quí,
Ngài đã nói với mọi tín hữu và với các nghị phụ một diễn từ đặc sắc. Người ta gọi
diễn từ ấy là: những lời giã biệt (Les Adieux).
Lui về Nazianze, thánh Grêgôriô
dành thời gian viết sách. Năm 390 Ngài qua đời và để lại cho Giáo hội một kho
tàng quí báu gồm 45 bài suy luận thần học và điếu văn, 245 bức thư và mấy tập
thi ca. Người ta đọc cuộc đời trong những tác phẩm có giá trị văn chương và tín
lý, chính ân đức ấy và sức mạnh tinh thần của Ngài.
Người ta còn giữ được bản di
chúc và bản văn trên bia mộ chính Ngài sáng tác. Bản mộ thi này là một tóm lược
khúc chiết trọn đời Ngài với những dòng kết thúc như sau: - "Tôi là mục tử
không có đoàn chiên, và tôi đã đau khổ không ít bởi chính các mục tử. Tôi để
Chúa Giêsu Kitô lo lắng cho tương lai đời tôi như chính Người đã lo cho tôi
trong quá khứ".
(Daminhvn.net)
02/01/2017
2 Tháng Giêng
Ðóng Thuế Cho Năm Mới
"Ðóng Thuế Cho Năm Mới: 15 người thiệt
mạng, khoảng 1,500 người bị thương, gần 2,500 lâm cảnh màn trời chiếu đất".
Trên đây là hàng tít lớn của hầu hết các nhật báo xuất bản tại thủ đô Manila
Phi Luật Tân, trong số ra ngày mùng 02 tháng Giêng mỗi năm, tức là số báo đầu
tiên trong năm. Dường như đây là công thức quen thuộc mà bất cứ nhật báo nào
cũng đưa ra số báo đầu năm. Ðó cũng là điều mà dân chúng chờ đợi sau một đêm
đón giao thừa trong tiếng nổ liên tục của pháo và trong khói bay mịt mù.
15 người xấu số trên đây đều là nạn
nhân của những vụ đâm chém, bắn giết vì say sưa quá chén trong đêm giao thừa.
1,500 người bị thương khác là nạn nhân của bất cẩn trong khi đốt pháo.
Chỉ riêng ở thủ đô Manila thôi, chưa
tính số tiền được đốt đi trong tiếng pháo, số thiệt hại vì hỏa hoạn và những
thiệt hại khác lên đến cả triệu Mỹ kim.
Hôm nay thì mọi người đều trở lại với
sinh hoạt bình thường của mình. Ðọc bảng tin về những gì đã xảy ra trong Ðêm
Giao Thừa và Ðầu Năm, ai cũng bàng hoàng xót xa cho những người xấu số và có lẽ
ai cũng thở ra nhẹ nhõm vì bất trắc đã không xảy đến cho mình. Người ta nghĩ rằng
may mắn vẫn còn đó. Bảng tổng kết Ðầu Năm và lời kêu gọi đề phòng cho Năm Mới
không mấy chốc cũng sẽ đi vào quên lãng. Bánh xe lịch sử cứ lăn và con người
cũng sẽ tiếp tục lập lại những lỗi lầm của quá khứ.
Người Á Ðông
chúng ta thường nói: "cha ăn mặn thì con khát nước". Kinh Thánh Cựu Ước
cũng viết: "cha ông ăn nho xanh thì con cháu phải ê răng". Người tin ở
thuyết quả báo thì cho rằng con cái phải gánh chịu những hậu quả do lầm lỗi của
ông bà để lại.
Trong một cái
nhìn khách quan và sâu xa hơn, chúng ta phải nói rằng lịch sử thường lặp lại. Lịch
sử thường lặp lại, bởi vì nó được cấu tạo bởi những biến cố do con người chủ động.
Mà bởi vì mẫu số chung của con người ở mọi thời đại vẫn là tự do, cho nên những
lầm lẫn giống nhau được lập lại là chuyện bình thường, có khác chăng là khác ở
mức độ và hình thức mà thôi. Ơ?thời đại nào mà không có chiến tranh, ở thời đại
nào mà không có cảnh người bóc lột người, ở thời đại nào mà không có tham, sân,
si?
Người Kitô
chúng ta hãy nhìn vào bản thân và lịch sử của nhân loại với một cái nhìn thực tế
và lạc quan. Thực tế để thấy rằng sống là một cuộc chiến đấu không ngừng: chiến
đấu giữa thiện và ác, chiến đấu giữa tự do và nô lệ, chiến đấu giữa ân sủng và
tội lỗi. Thực tế để thấy rằng cuộc chiến ấy đang diễn ra trong từng phút giây của
cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng hãy có cái nhìn lạc quan, lạc quan và tin rằng,
lầm lỗi thất bại là khởi đầu của những ân ban dồi dào hơn, và trong cuộc chiến
từng ngày đó: Thiên Chúa vẫn luôn có mặt để nâng đỡ chúng ta.
Trích sách
Lẽ Sống
Lectio Divina: Gioan 1:19-28
Thứ Hai, 2 Tháng 1, 2017
Mùa Giáng Sinh
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Cha toàn năng,
Chúa đã sai Con Chúa là Đức
Giêsu Kitô
Đến mang lại ánh sáng mới của ơn
cứu độ cho thế gian.
Nguyện xin Người soi sáng chúng
con với vẻ rạng rỡ của Chúa,
Đấng hằng sống hằng trị cùng với
Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở
muôn đời. Amen.
2. Tin Mừng theo
thánh Gioan 1:19-28
Đây là chứng của Gioan, khi những
người Do Thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi
ông: “Ông là ai?”
Ông liền tuyên xưng, ông không
chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ
liền hỏi: “Như vậy là thế nào? Ông có phải là Êlia
chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Êlia”. – “Hay
ông là một đấng tiên tri?” – Gioan đáp: “Không phải”. Họ
liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai
chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi
là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như
tiên tri Isaia đã loan báo”. Và những người đã được sai đến đều thuộc
nhóm Biệt Phái. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là
Đức Kitô, cũng không là Êlia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?”
Gioan trả lời: “Tôi
làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng
ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng
cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sông
Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
3. Suy Niệm
- Bài Tin Mừng hôm nay nói về lời chứng của ông
Gioan Tẩy Giả. Người Do Thái đã sai “các vị tư tế và các thầy Lêvi”
đến để chất vấn ông. Trong cùng một cách, vài năm sau đó, họ đã sai
người đến để kiểm soát các hoạt động của Đức Giêsu (Mc 3:22). Có một
sự tương đồng rất lớn giữa phản ứng của dân Do Thái đối với Chúa Giêsu và những
câu hỏi mà nhà đương cuộc đã hỏi ông Gioan. Chúa Giêsu hỏi các Môn Đệ: “Người
ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông
Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào
đó” (xem Mc 8:27-28). Nhà cầm quyền đã hỏi cùng câu hỏi với Chúa Giêsu: “Ông
có phải là Đấng Kitô, hay là Êlia, hay là một đấng tiên tri nào khác?” Ông
Gioan Tẩy Giả trả lời bằng cách trích dẫn lời Ngôn Sứ Isaia: “Tôi là
tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Ba
sách Tin Mừng kia cũng có điều khẳng định tương tự về ông Gioan: ông
không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng ông đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế sắp đến
(xem Mc 1:3; Mt 3:3; Lc 3:4). Bốn sách Tin Mừng chú trọng rất nhiều
đến hoạt động và lời chứng của ông Gioan Tẩy Giả. Đâu là lý do mà
các sách ấy nhấn mạnh quá nhiều khi nói rằng ông Gioan không phải là Đấng Cứu
Thế?
- Ông Gioan Tẩy Giả đã bị vua Hêrôđê xử tử vào
khoảng năm 30. Nhưng cho đến cuối thế kỷ thứ nhất, lúc mà sách Tin Mừng
Thứ Tư được viết, ông Gioan tiếp tục được coi là một nhà lãnh đạo trong số những
người Do Thái. Và cũng sau khi ông chết đi, kỷ niệm về ông Gioan tiếp
tục có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống đức tin của người ta. Ông được
xem như là một ngôn sứ (Mc 11:32). Ông là vị tiên tri khả kính xuất
hiện sau nhiều thế kỷ vắng bóng các tiên tri. Nhiều người coi ông là
Đấng Cứu Thế. Vào thập niên 50, thánh Phaolô đi ngang qua thành
Êphêsô, tại miền Tiểu Á, ông đã gặp nhóm người đã được lãnh phép rửa của ông
Gioan (xem Cv 19:1-4). Bởi vì điều này, thật là quan trọng để truyền
bá lời chứng của chính ông Gioan Tẩy Giả nói rằng ông không phải là Đấng Cứu Thế
và thay vào đó lại chỉ ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và do đó, bản
thân ông Gioan đã đóng góp hữu hiệu hơn vào việc truyền bá Tin Mừng của Chúa
Giêsu.
- “Nếu ông không phải là Đức Kitô, cũng không
là Êlia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Câu trả lời
của ông Gioan là một lời khẳng định khác mà trong đó ông chỉ ra rằng Chúa Giêsu
là Đấng Cứu Thế: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi,
có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính
Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Và
không lâu sau đó (Ga 1:33), ông Gioan đề cập đến những lời tiên tri đã nói về
việc tràn đầy Thần Khí Chúa trong thời Đấng Cứu Thế: “Ngươi thấy Thần
Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh
Thần” (xem Is 11:1-9; Êd 36:25-27; Ge 3:1-2).
4. Một vài câu hỏi
cá nhân
* Trong cuộc sống của
bạn, bạn đã có một Gioan Tẩy Giả dọn đường trong bạn để nhận lãnh Chúa Giêsu
chưa?
* Gioan là một người
khiêm nhường. Ông đã không cố làm cho mình thành cao trọng hơn con
người ông. Trong thực tế: Bạn có đã là một Gioan Tẩy Giả
cho ai đó chưa?
5. Cầu nguyện
Toàn cõi đất này đã xem thấy
Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta.
Tung hô CHÚA, hỡi toàn thể địa cầu,
Mừng vui lên, reo hò đàn hát!
(Tv 98:3-4)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét