TÔNG THƯ
ADMIRABILE SIGNUM
(DẤU CHỈ TUYỆT VỜI)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA
PHAN-XI-CÔ
VỀ Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ
CỦA MÁNG CỎ
ADMIRABILE SIGNUM
(DẤU CHỈ TUYỆT VỜI)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA
PHAN-XI-CÔ
VỀ Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ
CỦA MÁNG CỎ
1. Máng cỏ rất được dân Ki-tô giáo yêu thích, là dấu
chỉ tuyệt vời luôn gây kinh ngạc sững sờ và khơi lên niềm thán phục. Diễn lại
biến cố Đức Giê-su ra đời thì cũng có giá trị như đơn sơ và vui mừng loan báo mầu
nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. Quả thật, xuất phát từ những trang Kinh
Thánh, máng cỏ cũng hệt như một cuốn Tin Mừng sống. Chiêm ngắm cảnh Giáng Sinh,
chúng ta được mời gọi bước vào hành trình thiêng liêng, đi theo sức lôi
kéo của Đấng đã hạ mình xuống làm người để gặp gỡ từng con người. Và chúng
ta khám phá ra rằng Người yêu thương chúng ta tới độ nên một với chúng ta để
chúng ta cũng có thể nên một với Người.
Viết lá thư này, tôi muốn củng cố truyền thống tốt đẹp nơi
các gia đình chúng tôi vẫn chuẩn bị máng cỏ những ngày trước Giáng Sinh, cũng
như tục lệ trưng bày máng cỏ tại các sở làm, trường học, bệnh viện, trại giam,
quảng trường… Đây đúng là một hoạt động thực hành tưởng tượng nhiều sáng tạo,
dùng đủ thứ chất liệu làm nên những tuyệt tác nho nhỏ xinh xinh. Chúng tôi học
được việc này từ bé : ba má cùng với ông bà nội ngoại truyền lại thói quen vui
thích này, bên trong có gói ghém một nền đạo đức bình dân phong phú. Tôi ước
mong thực hành này đừng bao giờ mai một ; mà ngược lại, hy vọng những nơi đã dẹp
bỏ sẽ tái khám phá và phục hồi.
2. Nguồn gốc cảnh trưng bày máng cỏ gặp thấy trong
Tin Mừng là chính, vì có một số chi tiết về Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem.
Tác giả Tin Mừng Lu-ca kể đơn sơ rằng Đức Ma-ri-a “sinh con trai đầu lòng, lấy
tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong
nhà trọ” (Lc 2,7). Bé Giê-su được đặt trong máng cỏ, tiếng La-tinh gọi là praesepium, từ
đó ra tiếng Ý là presepe.
Lúc vào trần gian, Con Thiên Chúa tìm được chỗ cho mình nơi
súc vật đến ăn. Nắm rơm là chỗ đặt lưng đầu tiên cho Đấng sẽ tự mặc khải mình
là “bánh từ trời xuống” (Ga 6,41). Đây là một biểu tượng mà thánh Au-gút-ti-nô
cùng với các Giáo Phụ khác đã nắm được ; ngài viết : “Được đặt nằm trong máng cỏ,
Người đã nên lương thực nuôi chúng ta” (Serm.189,4). Thực ra, máng cỏ chất chứa
nhiều mầu nhiệm về cuộc sống của Đức Giê-su, và làm cho chúng ta cảm thấy những
mầu nhiệm ấy gần gũi với cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Nhưng hãy trở lại ngay với nguồn gốc cảnh máng cỏ theo như
chúng tôi hiểu. Chúng ta hướng tâm trí về Ghét-trô, Thung Lũng Rê-a-ti-na.
Thánh Phan-xi-cô đã dừng chân tại đây. Hầu chắc ngài đang trên đường về từ
Rô-ma, vì ngày 23/11/1223, ngài đã được Đức Giáo Hoàng Hô-nô-ri-ô III phê chuẩn
bản Luật Dòng. Ngài từng sang Đất Thánh, nên những hang động ở Ghét-trô này đặc
biệt khiến ngài nhớ cảnh Bê-lem. Rồi có lẽ ở Rô-ma, trong Vương cung Thánh đường
Đức Bà Cả, Poverello (Người Nghèo Hèn Mọn thành Át-xi-di(1)) đã
bị đánh động bởi bức tranh khảm mô tả cảnh Đức Giê-su Giáng Sinh, bức tranh ở
ngay cạnh nơi giữ những mảnh ván mà một truyền thống cổ nói là ván máng cỏ.
Các nguồn tài liệu Phan-xi-cô kể chuyện đã
xảy ra tại Ghét-trô, từng chi tiết. Mười lăm ngày trước Lễ Giáng Sinh,
Phan-xi-cô gọi một người đàn ông trong vùng, tên là Gio-an, xin ông giúp ngài
thực hiện một ước mong : “Tôi muốn dựng lại cảnh Hài Nhi sinh tại Bê-lem và,
cách nào đó, muốn thấy bằng mắt thịt mình nỗi cùng cực Hài Nhi đã gặp phải, vì
những thứ bé sơ sinh nào cũng cần thì Hài Nhi lại không có, khi được đặt trong
một cái máng, và khi phải nằm trên rơm, giữa con bò với con lừa con” [1]. Vừa
nghe nói, người bạn trung thành lập tức đi chuẩn bị tất cả những gì cần thiết tại
nơi đã chỉ định, như vị Thánh ước mong. Ngày 25.12, anh em tu sĩ từ nhiều nơi đổ
về Ghét-trô rất đông ; các ông các bà cũng từ các nông trại trong vùng kéo đến,
đem theo hoa và đuốc để thắp sáng đêm thánh này. Phan-xi-cô tới, ngài thấy cái
máng có rơm, thấy con bò với con lừa con. Những người đã kéo đến tỏ ra vui
không tả nổi, vui như chưa bao giờ, trước cảnh Giáng Sinh ! Rồi linh mục long
trọng dâng lễ tạ ơn trên máng cỏ và cho thấy mối liên hệ giữa cuộc nhập thể của
Con Thiên Chúa với bí tích Thánh Thể. Lần này ở Ghét-trô không có bức tượng nhỏ
nào : cảnh máng cỏ đã được nhận thức rõ ràng, hình dung chi tiết, và được sống
bởi tất cả những ai hiện diện [2].
Truyền thống của chúng ta đã được khai sinh như thế đấy : mọi
người quây quần quanh hang đá và đầy vui mừng ; không còn một khoảng cách nào nữa
giữa biến cố đang diễn ra và tất cả những ai đã trở thành người thông phần vào
mầu nhiệm.
Người đầu tiên viết tiểu sử thánh Phan-xi-cô là Tô-ma thành
Trê-la-nô nhắc lại rằng : đêm ấy, thêm vào cảnh tượng đơn sơ nhưng đầy xúc động
là ơn thị kiến lạ lùng : một trong những người hiện diện đã nhìn thấy chính
Chúa Giê-su Hài Đồng nằm trong máng cỏ. Từ máng cỏ Giáng Sinh năm 1223 đó “trở
về nhà mình, ai cũng tràn ngập một niềm vui khôn tả” [3].
3. Thánh Phan-xi-cô đã dùng nét đơn sơ của một dấu chỉ
mà thực hiện việc lớn lao là loan báo Tin Mừng. Lời dạy của ngài đã thấm vào
lòng các Ki-tô hữu, và mãi đến thời đại chúng ta, lời dạy ấy vẫn thực sự là một
cách thức đơn sơ để trình bày lại vẻ đẹp của đức tin chúng ta đang sống. Đàng
khác, chính nơi đã thực hiện máng cỏ đầu tiên vẫn đang biểu thị và khơi lên những
tâm tình này. Ghét-trô đã trở thành nơi nương náu cho linh hồn muốn ẩn thân
trên núi đá để được bao bọc trong lặng lẽ âm thầm.
Tại sao máng cỏ lại gây sững sờ đến thế và khiến ta xúc động
? Trước hết là vì nó tỏ bày tình thương âu yếm của Thiên Chúa. Người, Đấng đã tạo
thành cả vũ trụ mà lại hạ mình xuống phận bé nhỏ mọn hèn của chúng ta. Mỗi lần
ban sự sống đã là một mầu nhiệm lớn lao rồi đối với chúng ta, thế mà Người còn
khiến chúng ta phải say mê khi thấy rằng Đấng sinh ra bởi Đức Ma-ri-a lại là
nguồn mạch mọi sự sống và hằng nâng đỡ phù trì từng cuộc sống. Nơi Đức Giê-su,
Chúa Cha đã ban cho chúng ta một người anh đến kiếm tìm chúng ta khi lạc đường
mất hướng, một người bạn trung thành lúc nào cũng kề cận chúng ta. Người đã ban
cho chúng ta Con của Người, Đấng tha thứ cho chúng ta và giải gỡ chúng ta khỏi
tội lỗi.
Việc bài trí máng cỏ trong nhà giúp chúng ta sống lại câu
chuyện xưa đã được sống ở Bê-lem. Dĩ nhiên, các sách Tin Mừng vẫn luôn là nguồn
mạch giúp chúng ta hiểu biết và suy gẫm về biến cố này. Nhưng việc dựng lại biến
cố này nơi một máng cỏ sẽ giúp chúng ta dễ hình dung ra các cảnh tượng, sẽ gia
tăng những cảm tình quý mến, sẽ mời gọi chúng ta cảm nhận mình được hòa nhập
vào lịch sử cứu độ, như người đương thời với biến cố, một biến cố đang trở
thành sống động và hiện thực trong nhiều bối cảnh lịch sử và văn hóa khác nhau.
Một cách đặc biệt, ngay từ cội nguồn Phan-xi-cô, máng cỏ đã
là một mời gọi : Hãy “cảm nhận”, hãy “sờ vào” nỗi nghèo khó mà Con Thiên Chúa
đã tự chọn cho mình khi nhập thể. Và như thế, một cách hàm ẩn, máng cỏ mời gọi
theo bước Người trên con đường khiêm hạ, nghèo khó, lột bỏ chính mình, con đường
dẫn từ máng cỏ Bê-lem đến thập giá. Đó là tiếng mời gọi hãy đến gặp Người và
đem lòng cảm thương mà phục vụ Người nơi những anh em chị em túng quẫn nhất (x.
Mt 25,31-46).
4. Giờ đây, tôi muốn xem lại những dấu chỉ khác nhau
của máng cỏ để nắm bắt được ý nghĩa gói ghém trong đó. Trước hết, ta hãy hình
dung khung cảnh bầu trời lấp lánh sao giữa đêm đen chìm trong thinh lặng. Không
phải chỉ vì muốn trung thành với các trình thuật Tin Mừng mà chúng ta hình dung
như thế, nhưng còn vì khung cảnh đó có ý nghĩa của nó. Hãy nghĩ tới biết bao lần
đêm tối vây bủa khắp cuộc đời chúng ta. Thế mà, ngay cả những lúc như vậy,
Thiên Chúa không bỏ mặc chúng ta một mình, nhưng Người đến, hiện diện, giải đáp
những câu hỏi mang tính quyết định liên quan đến ý nghĩa của cuộc đời chúng ta
: Tôi là ai ? Tôi từ đâu mà có ? Tại sao tôi lại sinh ra trong thời đại này ? Tại
sao tôi yêu ? Tại sao tôi khổ ? Tại sao tôi phải chết ? Để ban lời giải đáp cho
những câu hỏi đó, Thiên Chúa đã làm người. Sự gần gũi của Người đem lại ánh
sáng cho những nơi tăm tối và soi chiếu cho tất cả những ai đang trải qua bóng
đen dày đặc những khổ đau (x. Lc 1,79).
Cũng nên nói đôi lời về những phong cảnh góp phần làm nên
máng cỏ. Thường thì đó là cảnh nhà cửa và cung điện cổ xưa đổ nát ; một số trường
hợp, những đổ nát này thế chỗ hang đá Bê-lem luôn, thành nơi trú ngụ cho Thánh
Gia. Dường như những đổ nát này được cảm hứng từ tập Truyền Thuyết
Vàng của tu sĩ Gia-cô-pô đa Va-rát-xê, dòng Đa-minh (tk XIII), trong
đó chúng ta đọc thấy một điều dân ngoại vẫn tin : đền Hòa Bình ở Rô-ma sẽ sụp đổ
khi một Trinh nữ sinh con. Hơn hết mọi sự, những đổ nát này là dấu chỉ trước mắt
về một nhân loại đã sa ngã, về tất cả những gì đang đi đến tan hoang, những gì
là hư hỏng và đáng buồn. Toàn cảnh nói lên rằng Đức Giê-su là điểm mới giữa một
thế giới cũ, rằng Người đến chữa lành và tái thiết, đem cuộc sống chúng ta và
đem cả thế giới về lại với ánh huy hoàng rực rỡ lúc khởi đầu.
5. Hẳn chúng ta phải xúc động biết bao khi đưa núi
non, sông suối, chiên cừu với những người chăn vào cảnh máng cỏ ! Làm như thế,
chúng ta sẽ nhớ lại điều các ngôn sứ đã báo trước là toàn thể tạo thành sẽ tham
gia lễ hội mừng Đấng Mê-si-a ngự đến. Các thiên sứ và ngôi sao chổi là dấu cho
thấy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng được mời gọi lên đường đến hang đá mà thờ lạy
Chúa.
“Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như
Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2,15) : Những người chăn chiên được thiên sứ báo
tin đã bảo nhau thế. Đoạn mô tả đơn sơ đã dạy chúng ta một bài học tuyệt đẹp :
Không như bao người mải vùi đầu vào trăm công ngàn việc khác, mấy người chăn
chiên đã nên những người đầu tiên làm chứng cho điều cốt yếu, tức là làm chứng
về ơn cứu độ đã được ban. Chính những kẻ hèn mọn nhất và những kẻ nghèo khó nhất
lại là những người biết đón nhận biến cố Nhập Thể. Đáp lời Thiên Chúa, Đấng đến
gặp chúng ta nơi Hài Nhi Giê-su, mấy người chăn chiên đã lên đường đến với Người,
gặp Người với lòng yêu mến, biết ơn và kinh ngạc. Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa và
con cái Người đã gặp nhau để sinh ra tôn giáo của chúng ta, tạo cho nó một vẻ đẹp
độc đáo, và chính cuộc gặp gỡ ấy, chúng ta sẽ thấy đặc biệt hiện rõ khi nhìn
xuyên qua máng cỏ.
6. Chúng tôi thường có thói quen đặt vào hang đá máng
cỏ của chúng tôi rất nhiều bức tượng tượng trưng nhỏ xíu. Đầu hết là mấy người
hành khất và mấy kẻ không biết đến một sự giàu có nào khác ngoài sự giàu tấm
lòng. Họ cũng có đủ quyền như bao người khác để có thể đến gần Hài Nhi Giê-su,
không ai được phép trục xuất hay xua đuổi họ ra xa cái nôi bất đắc dĩ này ; nó
tạm bợ đến thế, nên những người nghèo quanh quẩn với nó mới không thấy lạc lõng
tí nào. Hóa ra người nghèo lại là những người được ưu đãi về mầu nhiệm này và
thường là những người có điều kiện nhất để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở
giữa chúng ta.
Những người nghèo và những người đơn sơ trong hang đá máng cỏ
nhắc nhở rằng : Thiên Chúa làm người cho những ai cảm thấy rõ nhất là mình cần
tình yêu của Người và đến cầu xin để được Người gần gũi với mình. Đức Giê-su, Đấng
“hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29), đã sinh ra nghèo khó, đã sống
một đời giản dị để dạy chúng ta biết nắm giữ cái gì là cốt yếu và sống cái cốt
yếu đó. Từ máng cỏ rõ ràng hiện lên thông điệp dạy rằng : chúng ta không thể để
cho giàu có và biết bao những mời chào phù du về hạnh phúc nó lừa gạt chúng ta.
Cung điện Hê-rô-đê ở hậu cảnh thì kín cổng cao tường và điếc đặc với tin báo niềm
vui. Sinh ra trong máng cỏ, chính Thiên Chúa khởi xướng một cuộc cách mạng đích
thực duy nhất, cuộc cách mạng đem lại hy vọng và phẩm giá cho những người bị
thua thiệt, cho những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội : đó là cuộc cách mạng của
tình yêu, cách mạng của lòng trìu mến. Từ máng cỏ, Đức Giê-su, quyền lực dịu hiền,
công bố lời kêu mời hãy chia sẻ với những người rốt hết con đường dẫn đến một
thế giới nhân bản hơn, huynh đệ hơn, thế giới không ai bị loại bỏ và bị gạt ra
ngoài lề.
Thường thì trẻ em –mà cả người lớn cũng vậy nữa !–
thích bỏ thêm vào hang đá máng cỏ những bức tượng bé xíu khác xem ra chẳng ăn
nhập gì với các trình thuật trong Tin Mừng. Mà dẫu thế, ở đây, óc tưởng tượng lại
muốn nói lên rằng : Thế giới mới mà Đức Giê-su đã khai trương có chỗ cho tất cả
những gì liên quan đến con người và cho từng thụ tạo. Từ anh chăn chiên đến chú
thợ rèn, từ bác làm bánh mì đến các nhạc công, từ các bà đội vò nước đến những
em bé đang chơi đùa… : nhất nhất đều mô tả sự thánh thiện hằng ngày, mô tả niềm
vui được làm những việc đời thường một cách phi thường khi có Đức Giê-su thông
chia cho chúng ta sức sống thần linh của Người.
7. Mỗi lần thêm một chút, máng cỏ dẫn chúng ta đến
hang đá để gặp thấy tượng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Đức Ma-ri-a là người mẹ
chiêm ngắm bé thơ của mình và cho hết những ai đến viếng thăm bé được thấy bé.
Bức tượng nhỏ mang khuôn hình Mẹ lại giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm lớn đã
cuốn hút người nữ mới chớm độ xuân thì này khi Thiên Chúa đến gõ cửa con tim vô
nhiễm. Trong cuộc truyền tin, thiên sứ xin Đức Ma-ri-a làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã
đáp lại, vâng phục hoàn toàn. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm
cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Những lời này của Mẹ làm chứng cho
chúng ta tất cả là trong đức tin, Mẹ đã phó thác dường nào cho ý muốn của Thiên
Chúa. Thưa “xin vâng” như thế, Đức Ma-ri-a đã nên Mẹ của Con Thiên Chúa mà
không mất, ngược lại, còn thánh hiến sự trinh khiết của mình nhờ Người. Chúng
ta gặp nơi Mẹ vị Thiên Chúa Thánh Mẫu không những không giữ Con mình cho riêng
mình, mà còn xin mọi người vâng nghe lời Người và đem ra thực hành (x. Ga 2,5).
Bên cạnh Đức Ma-ri-a là thánh Giu-se trong thái độ che chở
Hài Nhi và Mẹ Người. Thông thường, người ta vẽ hình đắp tượng ngài có cây gậy
trong tay, đôi khi cầm thêm cây đèn. Thánh Giu-se thể hiện vai trò rất quan trọng
trong cuộc đời Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a. Ngài không bao giờ biết mệt trong việc
canh giữ chở che gia đình mình. Thiên Chúa báo cho ngài mối nguy Hê-rô-đê ;
không chút do dự, ngài lên đường di cư sang Ai-cập (x. Mt 2,13-15). Qua cơn
nguy hiểm, ngài đem gia đình về Na-da-rét. Nơi đây, ngài sẽ là nhà giáo dục đầu
tiên của Đức Giê-su tuổi ấu thơ và thời niên thiếu. Thánh Giu-se ủ ấp trong
lòng mầu nhiệm vĩ đại bao phủ lên Đức Giê-su và Hiền thê Ma-ri-a của ngài ; là
người công chính, ngài luôn luôn tin tưởng vào thánh ý Thiên Chúa và đem ra thực
hành.
8. Trái tim máng cỏ bắt đầu đập khi, Giáng Sinh đến,
chúng ta đem tượng Hài Nhi Giê-su đặt vào. Thiên Chúa hiện diện như thế đó, nơi
một bé thơ, mong chúng ta đón lấy trong vòng tay. Bên trong nỗi yếu đuối mong
manh, Người che sâu giấu kín quyền năng Người tạo thành mọi sự và biến đổi mọi
loài. Tưởng chừng như không thể mà lại đúng là thế này : Nơi Giê-su, Thiên Chúa
đã là một em bé, và trong thân phận bé bỏng này, Người đã muốn mặc khải tình
yêu cao vời Người đang bày tỏ nơi nụ cười chúm chím và đôi tay Người dang rộng
cho muôn người.
Sự ra đời của một em bé khơi lên niềm vui và gây sững sờ vì
đặt chúng ta trước mầu nhiệm lớn lao của sự sống. Có thấy đôi mắt rạng ngời của
cặp vợ chồng trẻ trước đứa con vừa sinh, chúng ta mới hiểu được tâm tình của Đức
Ma-ri-a và thánh Giu-se : nhìn Bé Giê-su, các ngài nhận thức được Thiên Chúa
đang hiện diện trong cuộc sống của các ngài.
“Sự sống quả thật đã được tỏ bày” (1 Ga 1,2) : Tông đồ
Gio-an tóm lược mầu nhiệm Nhập Thể như thế. Máng cỏ cho chúng ta nhìn thấy, cho
chúng ta sờ vào biến cố có một không hai, biến cố lạ lùng đã thay đổi dòng chảy
của lịch sử, và việc đánh số các năm, trước và sau Đức Ki-tô Giáng Sinh, cũng
được xếp đặt thứ tự tính từ biến cố đó.
Thiên Chúa có lối hành động khiến chúng ta gần như ngây người
ra, vì xem chừng không thể nào Người lại từ bỏ vinh quang của mình để trở nên một
con người như chúng ta. Bất ngờ biết bao khi thấy Thiên Chúa lại nhận lấy cho
mình chính những sinh hoạt thông thường của chúng ta : cũng ngủ, cũng bú mẹ,
cũng khóc, cũng chơi đùa, y hệt mọi đứa trẻ ! Như vẫn thế, Thiên Chúa khiến
chúng ta chưng hửng, không thể nào dự kiến gì về Người, và Người liên tục ở ngoài
những dự án của chúng ta. Vậy đang khi cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã vào trần
gian như thế nào, máng cỏ thúc đẩy chúng ta suy nghĩ về cuộc sống mình, cuộc sống
đã được lồng vào cuộc sống của Thiên Chúa. Máng cỏ kêu mời chúng ta làm môn đệ
của Người nếu muốn đạt tới ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.
9. Gần lễ Hiển Linh, ba bức tượng nhỏ các Vua và cũng
là các nhà Chiêm Tinh được đặt vào cảnh máng cỏ. Quan sát ngôi sao, các bậc
thông thái và quyền quý giàu sang bên Phương Đông đã lên đường tiến về Bê-lem để
được biết Đức Giê-su và dâng lên Người vàng, nhũ hương và một dược làm của lễ.
Những món quà này cũng mang ý nghĩa ẩn dụ : vàng tôn vinh vương quyền của Đức
Giê-su ; nhũ hương tôn vinh thần tính của Người ; một dược tôn vinh nhân tính
thánh của Người, nhân tính sẽ biết đến sự chết và mai táng.
Nhìn ngắm cảnh tượng này nơi máng cỏ, chúng ta được mời gọi
suy nghĩ về trách nhiệm của mọi Ki-tô hữu là phải làm người loan báo Tin Mừng.
Mỗi chúng ta trở thành người đem Tin Vui tới tất cả những ai mình gặp gỡ, dùng
những hành động cảm thương cụ thể mà làm chứng về niềm vui đã được gặp Đức
Giê-su và tình yêu của Người.
Các nhà Chiêm Tinh dạy chúng ta rằng người ta có thể đi từ rất
xa đến gặp Đức Ki-tô. Các ngài là những người giàu sang, những nhà hiền triết ở
nước ngoài, khao khát về vô biên, đi ngàn dặm xa và nguy hiểm mới đến được
Bê-lem (x. Mt 2,1-12). Trước vị Ấu Vương, nỗi vui dạt dào tràn ngập cõi lòng.
Các ngài không lấy làm chướng tai gai mắt vì cảnh nghèo nơi đây ; không chút ngần
ngại, các ngài quỳ gối thờ lạy Người. Trước mặt Người, các ngài hiểu rằng :
Thiên Chúa lấy thượng trí khôn ngoan mà điều chỉnh sự vận hành của các vì tinh
tú thế nào, thì cũng như thế, Người dẫn dắt dòng chảy của lịch sử khi hạ bệ kẻ
quyền hành và cất nhắc người phận nhỏ. Hẳn là khi trở về Đất Nước mình, các
ngài đã kể lại cuộc gặp gỡ đầy ngạc nhiên với Đấng Mê-si-a và khai mở chuyến đi
của Tin Mừng giữa chư dân.
10. Trước máng cỏ, tâm trí dễ dàng về lại thời thơ ấu,
thuở chúng tôi háo hức mong đến lúc được bắt đầu dựng hang đá. Những kỷ niệm
này đưa chúng tôi đến chỗ mỗi ngày mỗi ý thức hơn về món quà to lớn chúng tôi
đã được ban tặng do việc truyền thụ đức tin. Đồng thời, những kỷ niệm ấy cũng
khiến chúng tôi cảm thấy có bổn phận phải và niềm vui được làm cho con cháu
mình cũng trải nghiệm y như thế. Quan trọng không phải là làm máng cỏ ra sao.
Có thể là năm nào cũng như năm nào, mà cũng có thể thay đổi cho mỗi năm mỗi
khác. Điều đáng kể là máng cỏ nói gì với cuộc sống chúng ta. Ở bất cứ đâu và
mang bất cứ hình dáng nào, máng cỏ cũng kể chuyện tình yêu của Thiên Chúa, Đấng
Thiên Chúa đã trở thành bé thơ để nói với chúng ta rằng Người gần gũi biết bao
với tất cả những ai là người, cho dẫu thân phận họ có như thế nào đi chăng nữa.
Anh chị em thân mến, máng cỏ nằm trong tiến trình truyền đạt
đức tin, một tiến trình êm ái, nhưng đòi hỏi. Từ khi chúng ta còn thơ ấu, rồi đến
mỗi độ tuổi trong đời, máng cỏ đều dạy chúng ta chiêm ngắm Đức Giê-su, cảm nhận
tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, cảm nhận và tin rằng Thiên Chúa ở cùng
chúng ta và chúng ta ở cùng Người, ai ai cũng là con và cũng là anh chị em, nhờ
Hài Nhi Con Thiên Chúa và cũng là Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Máng cỏ cũng dạy
chúng ta cảm nhận rằng hạnh phúc là ở chỗ được học biết như thế. Dưới mái trường
của thánh Phan-xi-cô, chúng ta hãy mở lòng ra đón lấy ơn phúc đơn sơ này ; từ nỗi
sững sờ kinh ngạc, hãy để trào lên lời kinh khiêm tốn : kinh “cám ơn” dâng về
Thiên Chúa, Đấng đã muốn chia sẻ hết với chúng ta để không bao giờ bỏ mặc chúng
ta một mình.
Ban bố tại Ghét-trô, trong Đền Thánh Máng Cỏ,
ngày 1 tháng 12 năm 2019,
năm thứ bảy triều đại Giáo Hoàng.
PHAN-XI-CÔ
(1) Ghi chú của người dịch.
[1] Tô-ma
thành Trê-la-nô, Cuộc Sống Đầu Tiên, số 84 : Nguồn tài liệu
Phan-xi-cô (FF), số 468.
[2] X. Sđd,
số 85 : FF, số 469.
[3] Sđd,
số 86 : FF, số 470.
Nhóm Phiên Dịch CGKPV
Ngày 14 tháng 12 năm 2019

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét