Mùa Vọng tới, các giáo xứ, các tu viện đều hướng tới việc
làm hang đá, tập hát… Rồi Lễ Giáng Sinh tới, người ta kéo nhau đi viếng, đi xem
hang đá, có nơi còn “đi chấm thi” xem hang đá nào đẹp… Đức Thánh Cha Phan-xi-cô
đã ra một tông thư nêu ý nghĩa của việc dựng Hang Đá Giáng Sinh và Máng Cỏ. Mọi
người có thể đọc và học hỏi, để Hang Đá Giáng Sinh năm nay giúp chúng ta mừng lễ
sốt sáng hơn.
Tôi nhìn vào máng cỏ với làn điệu và tâm tình bài thánh ca
trong thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê :
Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là
hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng
như nhau. 3 Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng
hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. 4 Mỗi
người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người
khác. 5 Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những
tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.
6 Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy
trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang,
mặc lấy thân nô lệ,trở nên giống phàm nhân,
sống như người trần thế.
8 Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn
Người
và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Tội đầu tiên mở cửa cho tội xâm nhập vào loài người và thâu
tóm mọi tội lỗi của loài người là nghe lời Xa-tan xúi giục, muốn nên ngang hàng
với Thiên Chúa bằng con đường chống lại Lời Thiên Chúa đã truyền. Tội nào cũng
là chống lại Lời Thiên Chúa truyền, chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Để giải
thoát loài người khỏi ách nô lệ của tội và cái chết, Con Thiên Chúa đã đi con
đường ngược lại : Người đã từ trời xuống thế, và đã làm người, sống trọn thân
phận con người, chịu thử thách mọi bề giống như chúng ta, nhưng không phạm tội.
Người đã đi đến cùng trong sự trút bỏ vinh quang, tự hóa ra không : sống trọn
thân phận nô lệ bằng cách vâng phục Thiên Chúa đến nỗi bằng lòng chết, chết
trên cây thập tự, là cái chết dành cho nô lệ, cho dân bị trị trong đế quốc
Rô-ma. Đó là sự khiêm nhường của Thiên Chúa : hạ mình sống thân phận con người
như chúng ta để dạy chúng ta chấp nhận và sống thân phận của mình.
Sự khiêm nhường của chúng ta là sống theo sự thật về thân phận
của mình là thụ tạo, là kẻ được Thiên Chúa tạo thành, là công trình của Thiên
Chúa. Cái khác, cái hơn hẳn giữa con người với các thụ tạo khác là : Thiên Chúa
cho con người tự do trở thành công trình thụ tạo của Thiên Chúa, bằng
cách đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch cho để nên giống Thiên Chúa và chung
phần vinh quang của Thiên Chúa. Từ chối đi theo con đường ấy là từ chối chính
mình.
Con Thiên Chúa đã xuống làm Anh Cả (tiếng miền Nam : Anh
Hai) để dạy cho chúng ta biết địa vị và vinh quang dành cho mình vượt xa mọi thụ
tạo trên trần gian này, nó đáng sống và có thể sống được, vì từ nay Con Thiên
Chúa đi trước dẫn đường và gọi chúng ta bước đi đàng sau Ngài mà lên với Cha.
Con đường ấy Ngài đã đi mà xuống với chúng ta, nên bảo đảm là con đường đưa
chúng ta lên với Cha ở trên trời. Con đường ấy là thi hành ý muốn của Cha trên
trời mà Ngài cùng sống với chúng ta, cùng đi với chúng ta chứ không để chúng ta
phải đi một mình.
Con Thiên Chúa phải hạ mình xuống mang lấy thân phận của
chúng ta, còn chúng ta sống thân phận thụ tạo là sống theo sự thật về chính
mình thôi, chứ đâu có phải hạ mình xuống. Khi nói chúng ta “hạ mình” thì chỉ có
nghĩa là chúng ta tỉnh lại, bỏ cái độ cao “ảo” mà sống trên mặt bằng thật của
mình. Chúng ta giống như kẻ đóng tuồng trong vai vua, quan…, mang cái mặt nạ rồi
tưởng thật không chịu gỡ ra để sống với cái mặt thật của mình. “Hạ mình” đối với
chúng ta chỉ có nghĩa là lột bỏ cái mặt nạ đã tự sắm và đeo vào mặt, gột rửa lớp
son phấn đã ngồi trước tấm gương trét vào, tô điểm cái mặt mình cho thành người
đẹp, người quí phái rồi tưởng mình thật sự là như vậy đó.
Chuyện xưa kể rằng có một cô gái Saigon, giữa trưa hè nắng bỏng,
đứng ngoắt xích-lô để đi xuống Chợ Lớn. Người phu xích lô thấy người đẹp, vui vẻ
dừng lại mời nàng lên xe. Khi tới nơi, người đẹp dịu dàng đưa bàn tay nhỏ bé
ngoắt bảo ngừng lại. Nàng ung dung bước xuống quay lại mở bóp trả tiền. Người phu
xích lô đang giữ thắng cho xe đứng yên, bỗng nhảy xuống ù té chạy, miệng la thất
thanh : “Ma ! Bà con ơi, ma !”.
Chuyện thời nay thì có anh tài tử đóng vai “Tôn ngộ Không”
trong bộ phim “Đường Tăng đi thỉnh kinh”, anh đóng đạt tới mức ra khỏi phim trường,
về đến nhà vẫn còn cái dáng “khỉ” với những điệu bộ “khỉ”. Hậu quả là vợ anh đả
bỏ anh vì anh “khỉ” quá.
Chẳng có son phấn nào chịu nổi nắng Saigon, chẳng có mặt nạ
nào không có lúc rơi. Khốn nỗi người ta lại cứ thích đi trên mặt bằng ảo, mang
bộ mặt tô vẽ, cư xử, nói năng như đào kép đang trên sân khấu tuồng cổ, cải
lương, kể cả đóng vai tôi tớ, con hầu đứa ở. Nhiều khi người ta tự nói về mình
thật ngon lành như là kẻ nhỏ bé nghèo hèn bất xứng… nhưng nếu bị đối xử gần như
thế thôi là như lò xo bật dậy, lồng lộn lên, mất ăn mất ngủ, kể lể than van,
khóc đứng khóc ngồi, thậm chí tim cách trả đũa cho kỳ được. Đó là chuyện thường
ngày ở trong nhà, ngoài làng, ngoài phố, ngoài chợ và cả trong… tu viện nữa đấy.
Cái bệnh thâm căn cố đế này nhập vào con người từ khi con người đầu tiên đã chối
bỏ thân phận của mình để nhảy lên đòi ngang hàng với Thiên Chúa, và nó đã thành
bệnh di truyền. Chỉ có Con Thiên Chúa sinh làm người và người Trinh Nữ đã được
Thiên Chúa chọn để làm mẹ sinh ra người con ấy được miễn nhiễm thôi. Con Thiên
Chúa sinh làm người để thành người “Tôi Tớ” mang lấy tội lỗi của chúng ta vào
thân mà đem lên thập giá, người Trinh Nữ được chọn để làm mẹ của Người Tôi Tớ,
đã hợp xướng với Con bằng lời thưa : “Này con đây là nữ tỳ của
Chúa, xin cứ xảy ra cho con như lời sứ thần đã nói”.
Con đường nào Chúa đã đi qua…
Một hôm trên đường về từ nơi dạy học gần chặng thứ nhất
“Đàng Thánh Giá”, trên đường phố trong Cổ Thành Giê-ru-sa-lem, ngang chặng thứ
bảy tôi bỗng nghe tiếng một đoàn hành hương hát bằng tiếng Việt : “Con đường
nào Chúa đã đi qua, con đường nào người ra pháp trường…”, tôi nói nhỏ :
“không phải con đường này !” rồi bước lại gần, thì hóa ra là chính tác giả bài
hát, cha Văn Chi, đang dẫn đoàn hành hương người Úc gốc Việt đi Đàng Thánh Giá
theo con đường truyền thống mang tên “Đường Thương Khó” (Via dolorosa).
Tôi nói thế vì “bệnh nghề nghiệp” của người giảng dạy cho sinh viên của Thánh
Kinh Học Viện . Thứ sáu Tuần Thánh thì thầy trò chúng tôi vẫn chen chân với
hàng ngàn khách hành hương từ khắp thế giới đi Đàng Thánh Giá trên con đường
này, nhưng khi giảng dạy thì phải phân biệt rõ : truyền thống này chỉ có từ thời
Binh Thánh Giá chiếm lại Giê-ru-sa-lem hồi thế kỷ 12 thôi. Dù sao thì thành
Giê-ru-sa-lem đã bị quân Rô-ma phá bình địa vào năm 70 sau CGS, rồi 60 năm sau,
hoàng đế A-dri-a-no cho xây lại theo sơ đồ một thành phố của người Rô-ma. Khuôn
viên Đền Thờ còn đó, đồi Can-va-ri-ô còn đó dựa trên dấu vết Nhà Thờ Do-thái hậu
Helena cho xây dựng từ thế kỷ thứ tư, dù đã bị người Ba-tư phá hết vào năm 614.
Nhưng chẳng ai biết đích xác những đường phố thời Chúa Giê-su như thế nào. Sau
cuộc tàn phá của Ba tư thì suốt năm trăm năm thành phố này chỉ có người Hồi
giáo và các Ki-tô hữu Đông phương còn sót lại. Tín hữu Phương Đông đi viếng cac
nơi thánh, nhưng không có truyền thống đi Đàng Thánh Giá. Khi binh Thánh Giá từ
phương Tây mở cuộc thánh chiến, chiếm lại Giê-su-sa-lem thì người ta phỏng
đoán, hay đặt ra những nơi mang dấu vết các sự việc, các truyện trong sách Tin
Mừng, các truyền thuyết đạo đức, có cả nhà ông Simon Ky-rê-nê, nhà bà
Ve-ro-ni-ca… Các tín hữu từ phương Tây qua thích đi viếng những nơi này, dần dần
hình thành Đường Thánh Giá hiện nay mà khách hành hương vẫn đi.
Ý nghĩa của Đàng Thánh Giá cũng như các nơi hành hương không
phải là chính xác con đường này, nơi này, nhưng là sự hiệp thông trong đức tin
với bao triệu tín hữu đã đến đây tuyên xưng đức tin. Đa số các vị thánh và hầu
hết các tín hữu bao đời nay chẳng bao giờ có dịp đặt chân tới các nơi thánh.
Nay thì có những người năm nào cũng đi hành hương thánh địa, rồi hành hương hết
nơi này đến nơi khác. Cũng tốt thôi, Chúa ban cho có tiền bạc, thời giờ thì cám
ơn Chúa mà đi. Nhưng đó không phải là việc chính yếu, và cũng có thể bớt số lần
đi hành hương để làm những việc cần hơn. Trong tám mối phúc không có mối phúc
hành hương ; kinh “thương người có mười bốn mối” gần với Lời Chúa : “Ta bảo
thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy.” Các nơi
thánh mang kỷ niệm tĩnh, còn những người anh em bé nhỏ nghèo hèn là anh em của
Chúa, là hình ảnh sống động của Chúa. Ở Việt Nam có câu : “nhất thân, nhì thế,
tam tài, tứ chế”, ai cũng muốn có bà con làm lớn, vì “một người làm quan cả
họ được nhờ”, ai cũng thích quen thân ông lớn bà lớn… để dễ nhờ vả khi cần.
Nhưng anh em của Chúa, bà con của Chúa thì ít người cầu cạnh ; cho người nghèo
một ly nước lã thôi, chứ không cần đến một chai coca cola thì Chúa cũng đền ơn…
nhưng ít người quan tâm, có lẽ vì Chúa chỉ hứa sẽ đền đáp khi Chúa đến xét xử cả
loài người thôi, còn hơi lâu !
Đường tình đó Ngài dành cho con
“Con đường nào Chúa đã đi qua” không phải là những
con đường gập ghềnh quanh co trong Cổ Thành Giê-ru-sa-lem, hay xa lộ hiện đại
trên Miền Đất Chúa đã chọn để sống kiếp người giống như chúng ta, nhưng là con
đường mà Chúa mời gọi chúng ta như đã gọi các môn đệ đầu tiên : “Hãy theo Thầy”.
Đó là cả nếp sống Chúa đã sống, là đường đời Chúa đã trải qua, từ lòng mẹ qua
máng cỏ và thập giá tới nấm mồ. Chúa tóm tắt con đường ấy trong những điều kiện
để đi theo làm môn đệ của Chúa.
“Đường tình đó” không phải là đường tình ái của người
đời, nhưng là con đường Chúa Giê-su đã đi vì yêu thương chúng ta cho đến cùng,
và tỏ cho thế gian biết rằng Ngài yêu mến Chúa Cha và thi hành trọn vẹn ý muốn
của Chúa Cha. Chúa Giê-su thâu tóm “đường tình đó” trong một chữ : “thi
hành ý muốn của Cha Thầy ở trên trời” (Mt 7,21), hoặc “nghe
và giữ Lời Thiên Chúa” theo gương thân mẫu của Ngài (Lc 8,21).
Con đường ấy đi ngược chiều với con đường Xa-tan đã chỉ cho loài người : “Hãy
học với tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Tâm hồn anh em sẽ được
nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,29).
Chúa Giê-su không dạy chúng ta theo kiểu thầy giáo giảng bài
trong lớp học, nhưng bằng cách làm và dạy chúng ta làm theo : “Thầy đã làm
gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,15).
Vậy thì hôm nay quỳ trước máng cỏ là nơi Chúa bắt đầu hé lộ
“đường tình đó” cho chúng ta, chúng ta hãy nhìn lại toàn bộ “con đường
nào Chúa đã đi qua”, từ lòng mẹ tới lòng đất, từ máng cỏ tới thập giá, như các
sách Tin Mừng kể cho chúng ta, để cảm nếm tình yêu Chúa đã dành cho ta và học ứng
dụng vào cuộc sống cụ thể của mỗi người.
Đấng uy nghi trên chín tầng trời, giờ đây làm trẻ thơ bé nhỏ,
nằm trên mớ cỏ khô.
“Cá biển chim trời Người nuôi sống”, giờ đây Người nằm
trong máng cỏ như thể sinh ra để làm của ăn cho mọi loài.
Đấng thần thánh trên trời thờ lạy, giờ đây chỉ có bò lừa vây
quanh.
Đấng “phán một lời là băng giải tuyết tan” giờ đây nhờ
hơi ấm của bò lừa cho bớt lạnh.
Đấng đã chọn vua Đa-vít để làm tổ tiên cho mình khi sinh làm
người, giờ đây sinh ra tại “thành vua Đa-vít”, nhưng chẳng có bà con
thân thuộc nào đoái hoài, chỉ có những người chăn chiên nghèo hèn, cùng đinh
trong xã hội tới viếng thăm.
Đấng đã dùng quyền năng mạnh mẽ đưa dân của mình ra khỏi
Ai-cập, bây giờ lại di cư sang Ai Cập để thoát tay bạo chúa Hê-rô-đê.
Đấng mà “hết mọi loài ngửa trông lên, đợi chờ Ngài đến bữa
cho ăn”, bây giờ phải tuân theo quy luật : “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi
ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn” ; “ngươi sẽ phải đổ mồ hôi
trán mới có bánh ăn”.
Ở sông Gio-đan ngài đứng lẫn trong đám đông từ khắp nơi kéo
đến, nghe ông Gio-an giảng rồi chờ tới phiên mình để chịu phép rửa sám hối từ
tay ông. Tin Mừng Lu-ca còn cho ta cảm tưởng rằng Ngài đứng xếp
hàng chót hết sau những kẻ nhận biết mình cần sám hối và là người cuối cùng xuống
nước sau khi toàn dân đã quăng tội của mình xuống sông.
Liền sau khi lên khỏi nước và được tiếng từ trời xác nhận “con
là con Ta yêu dấu”, thì Ngài đã chịu cái sỉ nhục là bị Xa-tan cám dỗ nghi
ngờ chính tiếng từ trời và xui “thử” xem lời ấy có đúng không.
Khi đã đi rao giảng, nổi tiếng khắp nơi, Chúa trở về
Na-da-rét, dân làng bảo nhau : “Anh chàng này chẳng phải là anh thợ mộc, con
bà Maria đó sao ?” (Mc 6,3). Điều ít người nghĩ tới là người
Do-thái xưa nay nêu tên cha để xác định căn cước một người. Khi chỉ nêu tên mẹ
thì hàm chứa một sự khi dể : “thằng con không cha ấy mà
!”. Dân làng Na-da-rét đã chẳng coi Người ra gì, mà cả cái làng Na-da-rét
của ngài lại bị làng Ca-na bên cạnh coi chẳng ra gì, như lời ông Na-ta-na-en trả
lời ông bạn Phi-lip-phê : “Từ cái xó Na-da-rét ấy thì có thể có cái gì hay
được cơ chứ !”
Suốt ba năm đi rao giảng thì Người cũng từng chịu đói chịu
khát.
Dân chúng thì hoan hô, đi theo Người để nghe giảng, để được
chữa lành mọi bệnh tật, có khi được Người đãi cho ăn nữa. Nhưng giới lãnh đạo ở
Giê-ru-sa-lem lăng mạ Người là “đồ quỉ ám”, là “quân Sa-ma-ri”,
là “kẻ lộng ngôn”.
Khi họ bắt Chúa Giê-su và điệu tới trước mặt quan tòan quyền
Phi-la-tô để xin phê chuẩn án tử hình mà họ đã quyết rồi, thì họ cáo buộc Chúa
là kẻ gian phi (Ga 18,30), kẻ xách động
dân chúng (Lc 23,5). Đến khi Phi-la-tô cho họ chọn giữa
Chúa Giê-su và Ba-ra-ba thì họ chọn Ba-ra-ba, một tên cướp (Ga 18,40)
; một người tù khét tiếng (Mt 27,16) ; “kẻ đã bị
bắt cùng với bọn phiến loạn can tội sát nhân trong một cuộc gây rối” (Mc 15,7)
; “kẻ đã bị bỏ tù vì một vụ gây rối và sát nhân đã xảy ra trong thành” (Lc 23,19).
Thủ hạ của thượng tế, rồi lính của Phi-la-tô tha hồ đánh đập,
chế diễu nhục mạ Người (Ga 19,2-3). Phi-la-tô cho giải Người qua
“làm quà” cho vua Hê-rô-đê, dù vua này chẳng có quyền gì tại Giê-ru-sa-lem, vua
Hê-rô-đê và cả triều đình súm lại nhạo cười rồi gởi trả lại cho Phi-la-tô, và
hai người vốn hận thù nhau trở nên thân thiện, nhờ trao tay nhau món quà này
(23,11-12).
Khi treo Người lên thập giá thì họ treo Người giữa hai
tên cướp (Mt 27,38 ; Mc 15,27), hai
kẻ gian phi (Lc 23,33). Rồi những kẻ cùng chịu
một khổ hình, kẻ qua người lại, những người lãnh đạo nghênh ngang đắc thắng, bọn
lính đã đóng đinh Người vào thập giá, kết thành một ban hợp xướng chế nhạo Người.
Đến khi Chúa đã nằm trong mồ rồi, phe lãnh đạo còn chưa để yên, họ đi nói với
Phi-la-tô rằng Người là tên bịp bợm (Mt 27,62).
Tin Mừng Gio-an kể rằng sau khi bọn lính đã
đánh Chúa Giê-su tan xương nát thịt và bày trò chế nhạo, thì Phi-la-tô đắc ý và
tiếp tục trò chơi tàn bạo. Ông bước ra như một người xướng chương trình trên
sân khấu, long trọng giới thiệu : “Đây, ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các ngươi
thấy là ta không tìm ra lý do nào để kết tội ông ấy”. Bấy giờ Chúa
Giê-su bước ra, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ tía. Ông
Phi-la-tô nói với họ : “Này, người đây !”
Phi-la-tô tính toán gì ? Đưa ra trước đám người hung hăng
này một con người “mặt mày tan nát, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52,14)
để kết luận rằng “ta không tìm ra lý do nào để kết tội ông ấy”,
Phi-la-tô như nói với họ rằng con người này chẳng đáng ta cũng như các ngươi
quan tâm nữa. Nhưng đòn này phản lại ông. Họ thấy mình chỉ cần nhấn thêm một
chút là Phi-la-tô phải nhượng bộ hoàn toàn. Và họ đã tìm thấy cái “huyệt” để điểm
vào hạ gục Phi-la-tô : cái ghế toàn quyền. Con người này chẳng còn gì đáng giá
thì cần chi ông phải liều mất cái ghế quan toàn quyền để bảo vệ nữa. Ông đem
Người ra đánh đổi. Ông cũng nhận ra cái “huyệt” để điểm gục các thượng tế. Hai
bên cùng ra đòn sát thủ. Các thượng tế đánh đổi cả Thiên Chúa để giết cho được
Chúa Giê-su : “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da”. Còn
Phi-la-tô đổi cái mạng một người không còn gì đáng quan tâm để kê chân ghế cho
vững. Phi-la-tô trao Chúa Giê-su cho các thương tế đem đi đóng đinh vào thập
giá như họ yêu cầu. Hai bên cùng hả hê. Nhưng Phi- la-tô cao tay hơn : ông ghi
chiến thắng của mình bằng bản án treo trên thập giá, viết bằng ba thứ tiếng để
ai cũng đọc được : “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do-thái”. Các thượng tế phản
đối bản án này. Phi-la-tô đã kê lại chân ghế, hết sợ rồi, đập bàn quát lên : “Cái
gì ta đã viết là đã viết”. Các thượng tế đang vênh vang đắc thắng bỗng tiu
nghỉu ngậm bồ hòn rút lui.
“Đường tình đó Ngài dành cho con” là con đường Chúa
đã đi từ lòng mẹ đến lòng đất. Ngài dành cho con, vì Ngài đã đi trọn con đường ấy,
từng bước đều vì yêu con, như thánh Phao-lô nói : “Người đã yêu thương tôi
và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Ngài cũng dành cho con để
bước đi theo Ngài : hạ mình xuống để vâng phục Thiên Chúa đến cùng, hạ mình xuống
để phục vụ anh em như thánh Phao-lô dạy : “Hãy lấy lòng khiêm nhường mà
coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho chính
mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,3-4). Thánh
Gio-an đẩy tới tột đỉnh : “Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta ; cả chúng ta nữa
cũng phải thí mạng vì anh em” (1 Ga 3,16)
Tột đỉnh của yêu thương chỉ có thể nở hoa trên đỉnh cao của
khiêm nhường.
Giê-ru-sa-lem, Mùa Vọng 2019 – L.M Giu-se Nguyễn công
Đoan, S.J.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét