THÔNG ĐIỆP LAO ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI
của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Cùng anh chị em đáng
kính,
Cùng các con yêu dấu
xin gửi lời chào và
chúc lành Tòa Thánh.
Chính nhờ lao động mà
con người kiếm ra được lương thực hằng ngày và đóng góp vào sự tiến bộ liên tục
của khoa học kỹ thuật và nhất là làm cho cộng đồng xã hội anh em của mình luôn
luôn thăng tiến về văn hóa và đạo đức. Danh từ “lao động” hiểu là tất cả mọi
việc làm cho con người hoàn thành dưới bất cứ hình thức đặc biệt và hoàn cảnh
nào; nói cách khác, giữa muôn vàn sinh hoạt phong phú mà người ta, hễ đã là
người do bản tính bẩm sinh của mình vẫn có khả năng, thì tất cả hoạt động nào
có thể và phải coi là công việc làm ăn, đều là lao động cả. Con người được tạo
dựng theo hình ảnh giống như chính Thiên Chúa để sống trong thế giới hữu hình
và được đặt trong thế giới này để làm chủ trái đất ; vì thế, ngay từ đầu con
người đã được kêu gọi để lao động. Lao động là một trong những đặc tính phân
biệt con người với tất cả tạo vật khác mà hoạt động, vì chỉ liên hệ với vấn đề
sống còn, nên không thể được gọi là lao động. Chỉ có con người mới có khả năng
lao động. Chỉ có con người mới thực hiện được lao động, và chính vì vậy, nhờ
lao động, con người mới gây dựng cuộc sống mình trên trái đất. vì thế, lao động
mang dấu chỉ riêng của con người và của nhân loại, dấu chỉ của một người hành
động trong một cộng đồng nhân loại; và dấu chỉ đó xác định phẩm chất nội tại
của họ; hiểu theo một ý nghĩa nào đó, dấu chỉ này tạo thành chính bản chất con
người.
I. NHẬP ĐỀ
- Lao động của con người. 90 năm sau Thông điệp Rerum novarum.
Vào ngày 15 tháng 5
năm nay, 90 năm trôi qua kể từ ngày đức Lêô XIII, vị Giáo Hoàng vĩ đại của “vấn đề xã hội”, đã ban hành bức thông
điệp có tầm quan trọng quyết định bắt đầu bằng hai tiếng Rerum novarum. Vì thế tôi muốn dành tài liệu này để trình bày về
lao động của con người; hơn thế nữa, tôi muốn cống hiến nó cho con người trong
khung cảnh rộng lớn mênh mông của thực tại là vấn đề lao động. Quả vậy, như tôi
đã nói trong bức thông điệp Redemptor
homonis được công bố vào những ngày tôi bắt đầu phục vụ trên tông tòa Roma
của Thánh Phêrô. “Con người là con đường
đầu tiên và là con đường căn bản của Giáo Hội”. căn cứ vào mầu nhiệm khôn
dò là mầu nhiệm Cứu chuộc trong Đức Kitô, chúng ta phải luôn luôn trở lại và
luôn luôn tiến trên con đường ấy, tùy theo những hình thái khác nhau mà con
đường ấy trình bày cho ta tất cả sự phong phú cũng như tất cả những khó khăn
của đời sống con người trên trái đất.
Lao động là một trong
những khía cạnh ấy, một khía cạnh thường xuyên và căn bản, luôn luôn hiện tại
và không ngừng đòi hỏi chúng ta chú tâm trở lại và quyết tâm trở thành những
chứng nhân. Luôn luôn có những câu hỏi mới, những vấn đề mới được đặt ra, và
những vấn đề ấy luôn làm nảy sinh những niềm hy vọng mới, nhưng đồng thời cũng
tạo ra niềm sợ hãi, những mối đe dọa gắn liền với kích thước căn bản của đời
sống loài người; nhờ kích thước đó, sự sống con người được xây dựng mỗi ngày và
tìm thấy trong đó chính phẩm giá đặc biệt của mình, nhưng đồng thời trong đó cũng
bao hàm thường xuyên phần cực nhọc của con người, phần đau khổ, sự thiệt hại,
sự bất công ăn rễ sâu vào đời sống mỗi quốc gia và giữa các quốc gia. Nếu quả
thật con người kiếm sống bằng đôi tay , nghĩa là nuôi sống mình không những
bằng lương thực nuôi thân xác mà cả bằng chất bồi dưỡng của khoa học, tiến bộ,
văn minh và văn hóa, thì cũng có một điều không kém hiển nhiên là họ phải tìm
kiếm lương thực ấy bằng chính mồ hôi trán của mình, nói cách khác, bằng sự cố
gắng và lao nhọc bản thân giữa không biết bao nhiêu tình trạng căng thẳng tranh
chấp và khủng hoảng. Những việc ấy liên kết với thực tại của lao động khiến cho
đời sống của mỗi xã hội và của cả nhân loại bị xáo trộn.
Chúng ta mừng kỷ niệm
90 năm, ngày ban hành thông điệp Rerum
novarum vào một lúc sắp có những phát triển của những điều kiện chuyên môn,
kinh tế và chính trị, và theo nhiều nhà chuyên gia, những phát triển này sẽ có
ảnh hưởng đến thế giới lao động và sản xuất không kém gì cuộc cách mạng kỹ nghệ
của thế kỷ trước. Ta thấy xuất hiện những dữ kiện có tầm phổ quát như: vấn đề
tự động hóa trở thành phổ biến trong nhiều lĩnh vực sản xuất, việc giá cả năng
lượng và các nguyên liệu gia tăng; việc con người ý thức sâu xa hơn về tính
cách hạn chế của di sản thiên nhiên của mình và tình trạng ô nhiễm quá đáng;
việc có nhiều dân tộc sau bao năm bị đô hộ, nay xuất hiện trên chính trường đòi
chỗ đứng cho họ và yêu cầu được hỏi ý kiến trong những quyết định có tính cách
quốc tế. Những điều kiện và đòi hỏi mới đó buộc phải tổ chức và sắp xếp lại các
cơ cấu kinh tế hiện nay cũng như vấn đề phân phối lao động. Nhưng tiếc thay,
đối với hàng triệu người có tay nghề, những thay đổi như thế dẫn đến sự thất
nghiệp, ít ra tạm thời, hoặc họ học lại một nghề mới; đối với những nước phát
triển hơn, vấn đề thay đổi ấy có thể sẽ khiến cho vấn đề phúc lợi bị giảm bớt
đi hoặc phát triển chậm hơn; tuy nhiên, đối với hàng triệu người sống trong
cảnh khốn cùng tủi nhục và bất xứng thì những thay đổi này mang cho họ niềm an
ủi và hy vọng.
Giáo Hội không có
nhiệm vụ phân tách một cách khoa học những hậu quả khả dĩ có thể có của những
biến đổi trên đối với đời sống của xã hội loài người, nhưng cảm thấy có bổn
phận luôn nhắc nhở người ta nhớ đến phẩm giá và quyền lợi của người lao động,
phải lên án những điều kiện trong đó có quyền lợi này bị vi phạm và phải đóng
góp phần mình trong việc hướng những biến đổi này sao cho bảo đảm sự tiến bộ
của con người và của xã hội.
- Trong thế triển
khai cơ hữu về hành động và lời giáo huấn xã hội của Giáo Hội.
Có một điều chắc chắn
là: lao động là vấn đề của con người nằm ngay trung tâm của vấn đề xã hội.
Trong gần trăm năm qua, kể từ ngày bức thông điệp nói trên được ban hành, các
giáo huấn của Giáo Hội cũng như bao nhiêu sáng kiến mà Giáo Hội đưa ra đều
hướng về đó. Khi tôi muốn chú tâm đến vấn đề lao động với những suy tư sau đây,
tôi không chú ý trình bày độc đáo mà chỉ muốn trước nhất nêu rõ: những suy tư
đó có liên hệ cơ hữu với tất cả truyền thống của lời giáo huấn và các sáng kiến
vừa nói. Đồng thời tôi làm việc này theo hướng của Tin Mừng đã rút ra từ trong
di sản của Tin Mừng cả cái cũ lẫn cái mới. Điều ta có thể chắc chắn là: lao
động là vấn đề “xưa cũ”, xưa cũ không kém gì con người trên trái đất. Tuy
nhiên, hoàn cảnh con người trong thế giới ngày nay, nếu căn cứ vào chẩn đoán và
phân tích dưới các khía cạnh: địa lý, văn hóa, văn minh thì hoàn cảnh đó đòi
hỏi chúng ta phải khám phá ra những ý nghĩa mới của lao động con người và xác
định những nhiệm vụ mới phải làm, vì ở trong lãnh vực này, đó là những vấn đề
đặt ra cho con người, mỗi gia đình, cho mỗi quốc gia riêng biệt, cho toàn thể
nhân loại, và cuối cùng cho chính Giáo Hội.
Trong những năm qua,
kể từ ngày công bố thông điệp Rerum
novarum, vấn đề xã hội luôn luôn được Giáo Hội quan tâm đến. Chúng ta có
nhiều chứng từ trong những tài liệu của Huấn quyền, hoặc của các vị Giáo Hoàng
hoặc của công đồng Vaticanô II; chúng ta có những chứng từ nơi hàng Giám Mục;
chúng ta có những chứng từ qua hoạt động của nhiều trung tâm tư tưởng và những
sáng kiến tông vụ cụ thể, hoặc trên bình diện quốc tế hoặc trên bình diện các
Giáo Hội địa phương. Ở đây thật khó liệt kê một cách chi tiết tất cả những hành
động và việc biểu lộ sự dấn thân tận tình của Giáo Hội và của người Kitô hữu
vào lãnh vực xã hội, vì chúng quá nhiều. Một trong những kết quả của công đồng
là việc thành lập Uỷ ban Giáo Hoàng “Công
Lý và hòa bình" (justitia et pax), một uỷ ban đã trở thành trung tâm
điều hợp chính yếu trong lãnh vực này cùng với những cơ quan cùng với tổ chức
tương ứng thuộc phạm vi hoạt động của Hội Đồng Giám Mục. Danh xưng của uỷ ban
rất có ý nghĩa và chỉ rõ rằng vấn đề xã hội cần được giải quyết một cách toàn
bộ, trong toàn thể chiều kích của nó. Việc dấn thân hoạt động cho công lý cần
liên kết chặt chẽ với việc dấn thân cho hoạt động hòa bình trong thế giới hiện
đại. Một bài học đau đớn khiến chúng ta phải dấn thân cả hai phương diện đó là
hai trận chiến, trong 90 năm qua, đã làm đảo lộn biết bao quốc gia không những
thuộc lục địa Châu Âu mà một phần của các lục địa khác nữa, đặc biệt xảy ra
trong trận thế chiến thứ hai, là hiểm họa thường xuyên của một cuộc chiến tranh
nguyên tử và viễn ảnh của một sự tự hủy diệt ghê gớm hậu quả của cuộc chiến
tranh nầy.
Nếu chúng ta theo đúng
đường hướng triển khai của các tài liệu thuộc lời giáo huấn tối cao của Giáo
Hội, chúng ta sẽ thấy chính trong đó sự công khai xác nhận lối đặt vấn đề như
vậy. Vị trí cốt yếu liên quan vấn đề hòa bình trên thế giới, chính là vị trí
thông điệp Pacem in terris của Đức
Gioan XXIII. Ngoài ra nếu xét đến phương diện biến hóa của vấn đề công lý xã hội,
người ta sẽ thấy rằng, trong thời gian từ thông điệp Quadragesimo anno của Đức Piô XI, giáo huấn của Giáo Hội đặc biệt
chú trọng đến việc giải quyết vấn đề thợ thuyền một cách công bằng trong khung
cảnh những quốc gia riêng biệt; còn trong giai đoạn sau đó, lời giáo huấn mở
rộng nhãn giới, bao quát cả thế giới. Sự phân phối không đồng đều về của cải và
sự khốn cùng, hiện tượng có nhiều quốc gia , đại lục phát triển và những quốc
gia, đại lục không phát triển, những sự việc ấy đòi hỏi có sự quân phân cho đều
và phải tìm biện pháp làm sao cho tất cả có thể phát triển một cách công bằng.
Đó là hướng đi của lời giáo huấn chứa trong thông điệp Mater et Magistra của Đức Gioan XXIII, trong hiến chế mục vụ Gaudium et Spes của Công đồng Vat.II và
trong thông điệp Populorum Progressio
của Đức Phaolô VI.
Thế khai triển của lời
giáo huấn và hành động dấn thân của Giáo Hội trong vấn đề xã hội hoàn toàn
thích ứng với sự quan sát khách quan những tình trạng thực tế. Ngày xưa, tại
trung tâm vấn đề, người ta làm nổi bật vấn đề “giai cấp” còn mới đây, vấn đề “thế
giới” được đưa lên hàng đầu. Vì thế, người ta không chỉ quan tâm đến cái
khung cảnh giai cấp, mà người ta chú ý đến khung cảnh của những tình trạng
không đồng đều, những bất công trên bình diện thế giới, và do đó, không chỉ còn
chú trọng nguyên đến chiều kích của giai cấp mà chú tâm đến chiều kích thế giới
của những nhiệm vụ phải làm để tiến tới một tình trạng công bằng hơn trong một
thế giới hiện đại. Việc phân tách đầy đủ về tình trạng thế giới ngày nay làm nổi
bật ý nghĩa trước đây của những bất công xã hội một cách hiển nhiên, sâu xa và
trọn vẹn hơn, một ý nghĩa mà ngày nay phải đem làm ứng dụng vào những nỗ lực cố
gắng thiết lập nền công bình trên thế giới, song không phải vì thế mà che dấu
những cơ cấu tổ chức bất công, trái lại phải cứu xét và biến đổi chúng trên một
bình diện, tỷ lệ phổ quát hơn.
- Đề tài lao động,
then chốt của vấn đề xã hội.
Giữa tất cả các diễn
tiến này - kể cả việc chẩn đoán về thực tại xã hội khách quan cũng như lời giáo
huấn của Giáo Hội trong vấn đề xã hội, một vấn đề phức tạp và đa diện - lao
động của con người là vấn đề tự nhiên xuất hiện thường xuyên nhất. Hiểu theo
một nghĩa riêng, nó là một thành phần cố định trong lời giáo huấn của Giáo Hội
cũng như trong đời sống xã hội. Ngoài ra, trong lời giáo huấn đó, vấn đề này
được lưu tâm tới từ lâu trước 90 năm qua. Quả vậy, giáo lý về xã hội của Giáo
Hội bắt nguồn từ trong Kinh Thánh, bắt đầu từ Sáng Thế, và đặc biệt trong Tin
Mừng và trong các văn bản của các Thánh Tông Đồ. Ngay từ đầu, giáo lý ấy nằm
trong giáo huấn của Giáo Hội, trong quan niệm của Giáo Hội về con người và về
đời sống xã hội, đặc biệt là trong nền đạo đức xã hội được dày công xây dựng
tùy theo nhu cầu từng thời kỳ khác nhau. Di sản truyền thống này sau đó trở
thành gia nghiệp và được khai triển bằng lời giáo huấn của các vị Giáo Hoàng về
vấn đề xã hội hiện đại, và khởi đầu bằng thông điệp Rerum novarum. Trong phần nội dung của vấn đề này, đề tài lao động
luôn được đào sâu, rọi sáng thêm mỗi ngày, nhưng căn bản bao giờ cũng vẫn là
chân lý Kitô giáo mà ta có thể coi như một căn bản trường tồn.
Trong tài liệu này,
chúng ta trở lại vấn đề trên - nhưng không cốt ý trình bày tất cả các khía
cạnh, chúng ta không muốn nhắc lại những gì đã bao hàm trong lời giáo huấn của
Giáo Hội, mà muốn làm nổi bật hơn bao giờ hết sự việc này: lao động của con
người là then chốt, có lẽ là then chốt quan yếu của tất cả vấn đề xã hội, nếu
chúng ta quan sát nó dưới khía cạnh lợi ích của con người. Giải quyết một vấn
đề, hay nói đúng hơn giải quyết từng bước vấn đề xã hội, gặp thường xuyên và
ngày càng phức tạp, là nỗ lực cố gắng “làm cho đời sống con người trở nên con
người hơn", thì vấn đề lao động của con người đúng là then chốt có tầm
quan trọng chủ yếu và quyết định.
II. LAO ĐỘNG VÀ CON NGƯỜI
- Trong sách Sáng
thế
Giáo Hội xác tín rằng
lao động mang một tầm vóc cốt yếu trong đời sống của con người trên trái đất.
Niềm tin ấy càng thêm vững chắc nhờ căn cứ vào toàn bộ di sản của các ngành
khoa học nghiên cứu về loài người như: nhân loại học, cổ sinh vật học, sử học,
xã hội học, tâm lý học v.v...tất cả các ngành khoa học ấy hầu như chứng minh
thực tại đó một cách hết sức chắc chắn , tuy nhiên, trước hết Giáo Hội có được
niềm xác tín đó nhờ ở Lời mạc khải của Thiên Chúa, và vì thế niềm xác tín của Giáo
Hội vừa là một niềm xác tín của tri thức vừa là một niềm xác tín của đức tin.
Lí do là vì - đây là điều chúng ta nên lưu ý tới ngay từ bây giờ - Giáo Hội tin
tưởng vào con người: Giáo Hội nghĩ tới con người, ngỏ lời với con người, không
những dựa vào ánh sáng của kinh nghiệm lịch sử hoặc dựa vào các phương pháp của
tri thức khoa học, mà nhất là còn dựa vào lời mạc khải của Thiên Chúa hằng
sống. Giáo Hội đề cập đến con người và tìm cách diễn tả những ý định muôn đời
và những vận mệnh siêu việt mà Thiên Chúa hằng sống là Đấng Tạo Hóa và là Đấng
Cứu chuộc, đã gắn liền vào với con người.
Giáo Hội tìm thấy ngay
trong những trang đầu của sách Sáng thế niềm xác tín rằng: lao động là một
chiều kích căn bản của đời sống con người trên trái đất. Khi phân tích đoạn văn
này, chúng ta ý thức được rằng ngay cả trong mầu nhiệm tạo thành, những đoạn
văn ấy cũng đã biểu lộ những chân lí căn bản về con người - thỉnh thoảng với
một hình thức diễn tả cổ sơ. Đó là những chân lí quyết định số phận của con
người ngay từ những ngày đầu và đồng thời cũng diễn tả các đường nét chính của
đời sống con người trên trần gian, không những trong tình trạng công chính
nguyên thủy mà cả trong tình trạng tội lỗi đã phá vỡ giao ước nguyên thủy giữa
Đấng Tạo Hóa và tạo vật. Khi con người, được tạo dựng “giống hình ảnh của Thiên Chúa..., cả nam lẫn nữ”, nghe lời Chúa
phán bảo “Hãy sinh sản, gia tăng thêm
nhiều đầy dẫy trái đất và hãy bắt nó phục tùng” thì mặc dầu những lời đó
không trực tiếp hay minh nhiên nói đến vấn đề lao động, chúng vẫn cũng ám chỉ
một cách gián tiếp đến lao động, coi như đó là một hoạt động của con người trên
trần gian. Hơn thế nữa, chúng còn chứng tỏ một cách rõ ràng bản chất sâu xa của
lao động. Sở dĩ con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhất là vì họ được Đấng Tạo
Hóa uỷ nhiệm cho việc khuất phục và cai trị cả trái đất. Khi thi hành lời uỷ
nhiệm đó, mọi người phản ảnh chính công việc làm của Đấng tạo thành vũ trụ.
Lao động được coi như
một “hành động ngoại thi” có nghĩa là
nó bắt nguồn từ một chủ thể là con người, nhưng hướng về một đối tượng bên
ngoài. Vì thế phải hiểu: lao động chính là việc con người chế ngự “trái đất” một cách đặc biệt, con người
xác định và phát triển sự chế ngự đó. Đành rằng, danh từ “trái đất” nói trong Kinh Thánh trước hết chỉ một phần vũ trụ hữu
hình, nơi con người sinh sống, song hiểu rộng ra, nó chỉ tất cả cái thế giới
hữu hình nằm dưới tầm ảnh hưởng của con người, nhất là khi con người hành động
theo nhu cầu của họ. Từ ngữ “hãy bắt trái
đất phục tùng” có tầm giá trị vô biên. Nó chỉ tất cả mọi tài nguyên mà trái
đất (và gián tiếp là cả thế giới hữu hình) chứa đựng bên trong và con người có
thể dùng hoạt động tri thức của mình để khám phá và sử dụng theo ý của họ.
Chính vì thế nên những lời này, đặt ngay nơi trang đầu của bộ Kinh Thánh, luôn
luôn có giá trị hiện tại. Nó áp dụng không những cho các thời đại văn minh,
kinh tế đã qua mà cho tất cả những giai đoạn phát triển sắp tới có lẽ lúc này
mới khởi sự thành hình, nhưng hiện thời phần lớn như còn ẩn tàng, chưa được con
người biết tới.
Thỉnh thoảng người ta
có nói đến những giai đoạn “gia tốc”
trong đời sống kinh tế trong nền văn minh của nhân loại hay của một số quốc
gia, nghĩa là những giai đoạn tiến bộ đặc biệt của khoa học, kỹ thuật và nhất
là những khám phá có ảnh hưởng quyết định tới đời sống kinh tế, xã hội, nhưng
có thể nói là không một giai đoạn “gia
tốc” nào vượt quá nội dung cốt yếu đã được trình bày trong đoạn văn rất cổ
nói trên của kinh Thánh. Khi dùng sức lao động để trở nên chủ nhân có uy quyền
hơn trên trái đất và khi sử dụng sức lao động để củng cố uy quyền của mình trên
thế giới hữu hình, thì trong mỗi bước tiến tới, mỗi giai đoạn tiến bộ, con
người luôn luôn nằm trên con đường mà Đấng Tạo Hóa đã vạch ra từ hồi nguyên
thủy; chương trình kế hoạch của Đấng Tạo Hóa được nhất thiết gắn liền chặt chẽ
với sự kiện này là: con người, nam và nữ, đã được tạo dựng “Giống hình ảnh của Thiên Chúa” đây là một diễn tiến có tính cách
phổ quát, vì nó liên quan tới tất cả mọi người, mọi thế hệ. Mọi giai đoạn phát
triển kinh tế và văn hóa; đồng thời đây cũng là một diễn tiến được thực hiện
trong mỗi một con người, một vật thụ tạo có ý thức. Diễn tiến đó liên quan đến
tất cả, đến mỗi một người. Mọi người và từng người, tùy theo một chiều kích
thích ứng và dưới muôn vàn thể thức, đều tham dự vào diễn tiến khổng lồ, trong
đó con người “bắt trái đất phải phục
tùng” bằng sức lao động của họ.
- Lao động theo ý
nghĩa khách quan: kỹ thuật chuyên môn.
Đặc tính phổ quát và
đa dạng của diễn tiến “Con người bắt trái
đất phục tùng” làm nổi bật giá trị lao động của con người, lý do vì việc
con người chế ngự trái đất được thể hiện trong sự lao động, và nhờ lao động. Từ
đó, ta thấy xuất hiện ý nghĩa của lao động hiểu theo nghĩa khách quan, ý nghĩa
đó được biểu lộ tùy theo mỗi giai đoạn của nền văn hóa và văn minh. ngay từ buổi
sơ khai, con người đã chế ngự trái đất bằng cách thuần hóa loài vật, nuôi chúng
và bắt chúng phải cung cấp của ăn áo mặc, và cũng bằng khai thác từ lòng đất,
biển cả những tài nguyên thiên nhiên. Dần dần về sau sự chế ngự ấy gia tăng khi
con người biết cách gieo trồng, cày cấy và khi biết biến chế các sản phẩm để
thích ứng với nhu cầu của họ. Và như thế, nông nghiệp đã trở thành một ngành sơ
khai của hoạt động kinh tế, nhờ lao động của con người, nông nghiệp là một nhân
tố cần yếu của sản xuất. Và sau đó đến lượt kỹ nghệ, một ngành hoạt động phối
hợp các tài nguyên của trái đất- các tài nguyên còn nguyên chất của thiên
nhiên, các nông sản, các tài nguyên khoáng sản và hóa chất- với sức lao động
chân tay và trí óc của con người. Cả nền kỹ nghệ phục vụ cũng như trong ngành
nghiên cứu thuần túy hay ứng dụng cũng tương tự như thế.
Ngày nay, trong ngành
kỹ nghệ và nông nghiệp, có rất nhiều trường hợp, hoạt động của con người không
là hoạt động chân tay nữa bởi vì chân tay và bắp thịt đỡ phải vất vả mệt nhọc nhờ
việc sử dụng các máy móc, cơ khí mỗi ngày một hoàn bị hơn. Trong kỹ nghệ và
ngay cả trong nông nghiệp, chúng ta đã chứng kiến những biến đổi do sự phát
triển đều đặn và không ngừng của khoa học và kỹ thuật. Xét chung, về phương
diện lịch sử, sự kiện này tạo ra những bước ngoặc quan trọng của nền văn minh,
kể từ đầu “kỷ nguyên kỹ nghệ” đến các
giai đoạn phát triển tiếp theo đó nhờ những kỹ thuật mới như điện tử hoặc các
máy vi phát trong những năm gần đây.
Người ta có thể cho
rằng trong diễn tiến kỹ nghệ, chính máy móc mới “làm việc”, còn con người chỉ có việc kiểm soát máy, giúp nó vận
hành hoặc trợ giúp nó cách này hay cách khác; nhưng thực sự chính sự kiện đó mà
sự phát triển kỹ nghệ đặt ra một cái mốc khởi hành để có thể đặt lại lao động
một cách mới mẻ. Việc kỹ nghệ hóa đầu tiên đã tạo ra vấn đề lao động cũng như
những biến đổi giai đoạn kỹ nghệ và hậu kỹ nghệ xảy ra sau đó chứng minh một
cách hết sức rõ ràng, ngay trong giai đoạn “lao
động” cơ khí hóa thêm mãi, chủ thể thực sự của lao động vẫn là con người.
Sự phát triển của kỹ
nghệ và các ngành liên hệ, kể cả những kỹ thuật mới mẻ nhất của điện tử, đặc
biệt là trong lãnh vực vi hóa, điện toán, điện thư...,tất cả đều chứng minh
rằng, trong giai đoạn cộng hưởng giữa chủ thể và đối tượng của lao động (hiểu
theo nghĩa rộng nhất) kỹ thuật, một thứ đồng minh của lao động do tư tưởng của
con người tác tạo ra, đóng một vai trò rộng lớn quan trọng như thế nào? trong
trường hợp này, nếu kỹ thuật được hiểu là toàn bộ những dụng cụ con người đem
sử dụng trong lao động chứ không phải là một khả năng hay một tài năng lao
động, thì quả thực, kỹ thuật đúng là một đồng minh của con người. Kỹ thuật làm
cho lao động dễ dàng hoàn bị hơn, nhanh chóng hơn và nhiều hơn. Kỹ thuật giúp
cho sản phẩm của lao động thêm nhiều hơn và phẩm chất của phần đông cũng tốt
hơn . Ngoài ra có sự kiện này là: Trong một số trường hợp việc cơ khí hóa lao
động, đã “hất chân” con người bằng
cách khiến cho họ mất hết niềm thỏa mãn riêng, hết mọi phát huy sáng kiến hết
tinh thần trách nhiệm, khi nó làm cho nhiều người thợ không còn việc làm hoặc
khi vì quá đề cao máy móc, con người trở thành nô lệ của máy móc.
Nếu từ ngữ của Kinh
Thánh “Hãy bắt trái đất phục tùng “mà
con người được nghe từ thuở ban đầu được hiểu trong khung cảnh của toàn thể
thời đại kỹ nghệ và hậu kỹ nghệ ngày nay, thì nhất định nó cũng mang ý nghĩa
một mối liên quan với kỹ thuật, với thế giới của cơ khí hóa và máy móc, một mối
liên hệ kết quả lao động trí óc con người và xác định tính cách lịch sử việc
con người chế ngự thiên nhiên.
Thời đại mới đây của
lịch sử nhân loại và đặc biệt của một vài xã hội, tự nó cũng xác minh: Kỹ thuật
là một nhân tố cốt yếu của tiến bộ kinh tế; nhưng đồng thời chính sự xác minh
ấy đã và còn luôn luôn làm phát sinh ra những vấn đề có liên hệ tới sự lao động
của con người, xét về khía cạnh những tương quan của nó đối với chủ thể là
chính con người. Những vấn đề này bao hàm một toàn bộ riêng biệt những nhân tố
và những vấn đề gay cấn có tính cách đạo đức và cả tính cách đạo đức xã hội
nữa. Vì thế chúng thường xuyên trở thành một thách đố đối với nhiều cơ cấu tổ
chức, đối với các quốc gia và chính phủ, đối với các chế độ và tổ chức quốc tế
và đồng thời cũng là thách đố đối với Giáo Hội.
- Lao động theo
nghĩa chủ quan: con người, chủ thể của lao động.
Muốn tiếp tục việc
phân tách về vấn đề lao động bằng cách dựa vào Kinh Thánh (theo đó con người
phải chế ngự trái đất), chúng ta phải chú trọng vào ý nghĩa chủ quan của lao
động. Chú trọng nhiều hơn là vào ý nghĩa khách quan: chúng ta thực sự chỉ mới
lướt qua vấn đề rộng rãi lớn lao này, một vấn đề mà các chuyên gia thuộc nhiều
ngành và cả những người thuộc giới lao động hoàn toàn hiểu rõ từng chi tiết,
mỗi người hiểu theo lãnh vực mình. Trong việc phân tách trên đây, những lời
trong sách sáng thế mà ta trích dẫn chỉ nói một cách gián tiếp đến lao động
hiểu theo nghĩa khách quan, và khi nói đến chủ thể của lao động thì cũng nói
gián tiếp như thế; tuy nhiên, điều mà những lời Kinh Thánh nói lên rất hùng
biện và súc tích ý nghĩa.
Con người phải chế ngự
trái đất, phải bắt nó phục tùng, vì họ là “hình
ảnh của Thiên Chúa”, họ là một nhân vị, nghĩa là một chủ thể, một chủ thể
có khả năng hành động một cách có kế hoạch và hợp lý, có khả năng tự quyết định
và hướng tới sự thành tựu của bản thân mình. Chính vì là một nhân vị, nên con
người mới là chủ thể của lao động, bất kể nội dung khách quan của nó như thế
nào, các hoạt động này phải thực hiện nhân tính của con người và hoàn thành
thiên chức của một nhân vị hay ơn gọi làm người của mình. Nhưng chân lý chính
yếu về vấn đề này mới đây đã được cộng đồng Vaticanô II nhắc lại trong hiến chế
Gaudium et spes, đặc biệt nơi chương
I nói về thiên chức của con người.
Vì thế vấn đề “chế ngự” được nói đến trong đoạn Kinh
Thánh mà ta suy ngẫm nơi đây không phải chỉ liên quan đến khía cạnh khách quan
của lao động, mà nó còn đồng thời giúp ta hiểu cả tầm vóc chủ quan của nó nữa.
Sự lao động được hiểu theo một diễn tiến, theo đó con người và nhân loại chế
ngự trái đất, lao động ấy chỉ tương ứng với ý niệm căn bản của Kinh Thánh khi
trong suốt diễn tiến đó, con người đồng thời cũng biểu hiện và tự xác định rằng
mình là người “làm chủ” hiểu theo một ý nghĩa nào đó, sự chế ngự này liên quan
đến khía cạnh chủ quan nhiều hơn khía cạnh khách quan: khía cạnh đó là điều
kiện của tính chất đạo đức của lao động. Quả vậy, có một điều không nghi ngờ là
lao động con người có giá trị đạo đức trực tiếp gắn liền, không qua trung gian
nào, với sự việc này là: người thực hiện lao động ấy là một nhân vị, một chủ
thể có ý thức và tự do, nghĩa là một chủ thể tự quyết định.
Có thể nói: chân lý
này là điểm trung tâm và thường trực của giáo lý Kitô Giáo về lao động của con
người; chân lý đó đã và đang tiếp tục có một ý nghĩa căn bản cho việc đặt ra
những vấn đề xã hội quan trọng trong suốt các thời đại.
Trong thời đại cổ, con
nười được phân chia một cách đặc thù thành từng nhóm tùy theo việc làm. Người
ta giao cho nô lệ làm những công việc đòi hỏi phải sử dụng sức mạnh thân xác,
phải sử dụng đến chân tay và bắp thịt, vì người ta cho sự lao động ấy không
xứng đáng đối với người tự do. Kitô giáo đã mở rộng tầm nhìn có sẵn trong cựu
ước và đem lại một sự thay đổi căn bản các quan niệm, tuy là Thiên Chúa, đã trở
nên hoàn toàn giống chúng ta đã hiến phần lớn đời mình ở trần gian cho lao động
chân tay nơi xưởng mộc của mình. Hoàn cảnh này, tự nó, chính là một “Tin Mừng” hùng hồn nhất “về lao động”. Do đó, căn bản giúp chúng
ta xác định giá trị của lao động con người không phải cốt ở loại việc làm mà ở
sự kiện này: người làm công việc ấy là một người. Nguồn gốc phẩm giá của lao
động không thể tìm thấy nơi chiều kích khách quan nhưng phải tìm nơi chiều kích
chủ quan của nó.
Với quan niệm như thế,
đương nhiên người ta không còn có thể chấp nhận căn bản xưa được dùng để phân
biệt loài người thành từng nhóm, dựa theo loại công việc họ làm điều đó không
có nghĩa rằng không bao giờ có thể hoặc nên định giá lao động con người về
phương diện khách quan. Điều đó chỉ có nghĩa rằng căn bản đầu tiên dùng để định
giá lao động là chính con người, là chủ thể của lao động. Ngay tại đây ta có
thể rút ra một kết luận rất quan trọng có tính chất đạo đức: mặc dầu con người
được chỉ định và kêu gọi lao động thật, nhưng trước hết có lao động là “vì con người” chứ không phải con người
sinh ra cốt “để lao động”. Xuất phát
từ kết luận này, chúng ta đương nhiên sẽ phải công nhận tính cách ưu việt của ý
nghĩa chủ quan của lao động đối với ý nghĩa khách quan của nó. và cũng xuất
phát nhìn sự việc trên đây, cộng thêm với việc chấp nhận rằng các công việc làm
do con người thực hiện có thể có ít nhiều giá trị khách quan, chúng ta tìm cách
để xác minh rằng: mỗi công việc đó phải được đánh giá trước hết căn cứ vào tầm
vóc giá trị của chủ thể của chính công việc, nghĩa là giá trị của cá thể, của
con người thực hiện công việc ấy. Mặt khác, bất kể công việc gì được mọi người
làm (và giả dụ rằng, công việc đó trở thành mục đích hoạt động của họ)- và
thỉnh thoảng mục đích này chiếm hết thời gian, tâm trí họ - thì chính mục đích
ấy không mang trong nó một ý nghĩa quyết định. Và cuối cùng, mục đích của lao
động - dù là công việc hết sức hèn mọn, một lao động cực kỳ đơn điệu xét theo
bậc thang định giá thông thường, một lao động tầm thường nhất - mục đích ấy bao
giờ cũng là chính con người.
7. Mối đe dọa đối với bậc thang giá trị đích thực:
Những xác định chủ yếu
trên đây về vấn đề lao động luôn luôn bắt nguồn từ chân lý phong phú của Kitô
Giáo, nhất là từ chính bản sứ điệp của “Tin Mừng lao động” chúng tạo thành nền
tảng của cách suy nghĩ, phán đoán và hành động mới của con người. Vào thời đại
ngày nay, ngay từ đầu kỷ nguyên kỹ nghệ, chân lý Kitô giáo về lao động phải đối
đầu với những luồng tư tưởng duy vật và duy kinh tế.
Đối với một số người
theo các trào lưu tư tưởng này, lao động được hiểu và đối xử y như một loại “hàng hóa” mà người lao động và đặc biệt
là người thợ trong kỹ nghệ bán cho người chủ thuê là người đồng thời làm chủ
vốn nghĩa là làm chủ toàn bộ các dụng cụ lao động và những phương tiện để sản
xuất. Cách quan niệm về lao động như vậy có lẽ đặc biệt phổ biến vào đầu thế kỷ
thứ 19. Rồi sau đó, những định thức minh nhiên thuộc loại này gần như hoàn toàn
biến mất và thay thế vào đó là một lối suy nghĩ và định giá một cách nhân đạo
hơn về lao động. Sự cộng hưởng giữa người lao động và toàn bộ các dụng cụ,
phương tiện sản xuất đã khiến cho chủ nghĩa tư bản phát triển dưới nhiều hình
thức song song với các hình thức của chủ nghĩa tập thể, trong những hình thức
tư bản có xen vào nhiều nhân tố kinh tế xã hội phát sinh do những hoàn cảnh
thực tế mới, do sự hoạt động của các liên đoàn thợ thuyền, của các cơ quan chính
quyền, do sự thành lập các đại xí nghiệp siêu quốc gia. Mặc dầu thế, người ta
vẫn thấy cái nguy cơ của khuynh hướng muốn coi lao động như một thứ “hàng hóa suigeneris” (biệt loại) hoặc
như một thứ “lực lượng” vô danh cần
cho sản xuất (có người dùng đến cả danh từ “lực
lao động") nếu phương pháp trình bày và giải quyết các vấn đề về kinh
tế dựa trên những nguyên tắc của “chủ
nghĩa kinh tế” duy vật.
Đối với lối suy nghĩ
và phán đoán này, cái tạo ra một cơ hội có hệ thống, hay theo một ý nghĩa nào
đó, trở thành một động cơ kích thích, chính là diễn tiến phát triển gia tốc của
nền văn minh duy vật phiến diện, trong đó người ta quan trọng hóa khía cạnh
khách quan của lao động, trong khi kích thước chủ quan - nghĩa là tất cả những
gì có liên quan trực tiếp hay gián tiếp với chính chủ thể của lao động đều bị
liệt kê vào hàng thứ yếu. Trong tất cả mọi trường hợp thuộc loại này và trong
mỗi hoàn cảnh xã hội thuộc kiểu đó, thấy xuất hiện một sự hỗn độn và hơn thế,
một sự đảo lộn trật tự đã được thiết lập từ những ngày đầu do lời trong sách
Sáng thế: Lúc đó con người bị coi như một dụng cụ sản xuất, trong khi họ -- và
chỉ mình họ thôi, chứ không kể đến công việc họ làm -- phải được coi như chủ
thể hiệu năng, người thợ thực sự và người tạo thành của công việc đó. Hãy bỏ
qua một bên chương trình, danh xưng của nó, chính ra sự đảo lộn trật tự đó,
hiểu theo ý nghĩa sẽ giải thích rộng rãi dưới đây, phải gọi là “chủ nghĩa tư bản” mới đúng. Chúng ta
biết rõ: chủ nghĩa tư bản có một ý nghĩa lịch sử được xác định rõ ràng coi như
một chế độ kinh tế xã hội đối lập với “chủ
nghĩa xã hội” hoặc “cộng sản chủ
nghĩa”. Nhưng nếu để ý phân tách thực tại căn bản của tất cả các diễn tiến
kinh tế và trước hết của các cơ cấu tổ chức sản xuất (và chính lao động là như
thế đó!) thì ta nên ghi nhận rằng sự sai lầm của chủ nghĩa tư bản sơ khởi có
thể lại tái diễn bất cứ ở nơi nào mà con người bị xếp ngang hàng với toàn bộ
phương tiện vật chất dùng để sản xuất, bị coi như một dụng cụ mà đáng lý ra
theo đúng giá trị của lao động phải được coi như một chủ thể, một tác giả, nói
cách khác, như chính mục đích của tất cả tiến trình của sản xuất.
Đặt vấn đề như thế
rồi, chúng ta sẽ hiểu rằng: việc dựa vào ánh sáng của những lời Kinh Thánh liên
quan đến quyền “chế ngự” của con
người trên trái đất để phân tách vấn đề lao động của họ, việc phân tách này xen
vào chính trung tâm của vấn đề đạo đức xã hội. Quan niệm này cũng phải chiếm
một vị trí trung tâm của tất cả địa hạt chính trị kinh tế xã hội, trên bình
diện của những nước khác nhau, cũng như rộng hơn thế, trên bình diện các mối
liên lạc quốc tế và liên lục địa, đặc biệt dựa vào những tình trạng căng thẳng
trên thế giới, không những giữa Đông-Tây mà cả giữa Nam-Bắc. Bức Thông điệp
Populorum progressio của Đức Phaolô VI đã đặc biệt chú tâm trên những khía cạnh
đó của các vấn đề đạo đức và xã hội đương thời.
8. Sự liên đới của người lao động:
Nói đến lao động của
con người, hiểu theo chiều hướng căn bản của chủ thể, nghĩa là con người trong
tư cách một cá thể thực hiện lao động ấy, ít ra chúng ta cũng phải thử ước
lượng sơ qua những phát triển đã xảy ra trong 90 năm qua kể từ Thông điệp Rerum
novarum, xét trên chiều kích chủ quan của lao động. Quả vậy, chủ thể của lao
động, tức là con người, lúc nào cũng là một, thế nhưng đã có nhiều thay đổi
đáng kể xảy ra trong khía cạnh khách quan của lao động. Mặc dù có thể nói rằng,
xét về phương diện chủ thể, lao động chỉ là một (là một với một tính chất không
bao giờ có thể kiêm một cái gì giống hệt như thế), nhưng nếu nghiên cứu các
điều kiện khách quan của nó, ta sẽ thấy có nhiều thứ lao động, có rất nhiều
loại công việc khác nhau. Về lãnh vực này, sự phát triển của nền văn minh nhân
loại là một nhân tố phong phú hóa liên tục. Tuy nhiên cần phải ghi nhận rằng,
trong diễn tiến của sự phát triển này, trong khi có nhiều hình thức lao động
mới xuất hiện, thì đồng thời cũng có nhiều hình thức cũ biến mất. Hãy cứ giả dụ
rằng, trên nguyên tắc, đây là một hiện tượng thông thường, nhưng ta cũng cần
tìm hiểu xem liệu trong hiện tượng đó, có lọt vào một vài sự gì bất thường có tính
sâu xa hay chỉ bên ngoài có thể trở thành nguy hại về phương diện đạo đức xã
hội không.
Chính trong thế kỷ
trước, vì có một việc bất thường gây ra phản ứng quan trọng như thế, nên đã nảy
sinh ra vấn đề lao động mà có người mệnh danh là “vấn đề giai cấp vô sản”. Vấn đề này, cũng như các vấn đề có liên
hệ đã gây ra một phản ứng xã hội rất chính đáng và làm nảy sinh, có thể nói là
làm bùng lên một mối tình liên đới nhiệt thành giữa các người lao động, nhất là
những người lao động trong ngành kỹ nghệ. Lời kêu gọi hãy liên kết với nhau và
cùng chung sức hành động được tung ra tới những con người lao động, có giá trị
của nó, một giá trị quan trọng và có một sức mạnh thuyết phục về phương diện
đạo đức xã hội, nhất là khi nó liên quan đến sự lao động có tính chất khu vực,
đơn điệu, phi nhân trong những phức hợp kỹ nghệ, khi máy móc có khuynh hướng
chế ngự con người. Đó là sự phản ứng chống lại sự giảm hóa con người, chủ thể
của lao động, chống lại tình trạng bóc lột chưa từng thấy thường gắn liền vào
đó trong lãnh vực lợi nhuận, điều kiện làm việc và công tác chiếu cố săn sóc
cho cá nhân người lao động. Sức phản ứng đó đã liên kết thế giới công nhân lại
thành một cộng đồng có tinh thần liên đới rất cao.
Nương theo hướng đi
của Thông điệp Rerum novarum và rất
nhiều tài liệu giáo huấn sau đó của Giáo Hội, chúng ta phải thành thật công
nhận sự hợp lý về phương diện đạo đức xã hội của phản ứng chống lại chế độ bất
công, tai hại mà tiếng kêu oan đã vang thấu Trời, thứ chế độ đè nặng trên người
lao động trong giai đoạn kỹ nghệ hóa mau lẹ này. Tình trạng xã hội trên đây lại
tìm được một môi trường thuận tiện trong chế độ xã hội chính trị tự do, một chế
độ chủ trương những nguyên tắc kinh tế riêng của những người nắm tư bản, nhưng
lại không chú trọng đầy đủ tới quyền lợi của người lao động, vì họ khẳng quyết
rằng: lao động của con người chỉ là một dụng cụ sản xuất, rằng: tư bản là nền
tảng, là nhân tố và là mục tiêu của sản xuất.
Kể từ đó, trong nhiều
trường hợp, tinh thần liên đới của các người lao động cộng thêm việc có nhiều
người bắt đầu ý thức rõ ràng hơn và dấn thân hơn để hoạt động cho quyền lợi của
các người lao động, những yếu tố đã tạo ra nhiều thay đổi sâu xa. Người ta nghĩ
ra nhiều thứ chế độ mới, nhiếu hình thức tân tư bản và tập sản chủ nghĩa được
thành hình phát triển. Trong nhiều trường hợp và ở nhiều nơi, người lao động
được tham gia và thực sự tham gia vào việc quản lý, kiểm soát công việc sản
xuất của xí nghiệp. Với những tổ chức liên đoàn thích hợp, họ có ảnh hưởng đối
với các điều kiện làm việc cũng như chế độ lương bổng và tới cả nền pháp chế xã
hội nữa. Nhưng đồng thời, có những chế độ xây dựng trên căn bản ý thức hệ hoặc
trên quyền hành, cũng như có những mối quan hệ mới xuất hiện trên những bình
diện khác nhau của đời sống xã hội, những cái đó đã lưu giữ lại những chuyện
bất công rành rành hoặc tạo ra những bất công mới. Trên bình diện thế giới, sự
phát triển của nền văn minh và các phương tiện giao thông đã giúp người ta chẩn
đoán được một cách đầy đủ hơn về các điều kiện sinh sống và làm việc của con
người trên khắp thế giới, nhưng đồng thời nó lại cũng phát hiện ra những hình
thức bất công khác còn lớn lao hơn cả thời thế kỷ vừa qua, những bất công trước
đây đã khiến cho các người lao động phải hợp nhất lại với nhau trong một tinh
thần liên đới đặc biệt trong thế giới thợ thuyền. Đó là việc đã xảy ra trong
những nước đã thực hiện một thế diễn tiến của cuộc cách mạng kỹ nghệ; và đó là
việc cũng đã xảy ra trong những nước mà công trường lao động lớn nhất vẫn là
công trường của nông nghiệp hoặc những hoạt động tương tự.
Cần có những phong
trào liên đới trong lãnh vực lao động - một thứ tinh thần liên đới không phải
khép kín chẳng chịu đối thoại hoặc cộng tác với người khác - những phong trào
liên đới có quan hệ cả với những tập thể xã hội từ trước đến nay chưa gia nhập
chung vào, xong do sự hoán chuyển của các chế độ xã hội và điều kiện sinh sống,
đã bị thực sự “vô sản hóa” hoặc trên
thực tế đã thực sự sống trong tình trạng “gia
cấp vô sản” và thật xứng đáng danh xưng đó, mặc dầu họ không chính thức mang
danh xưng này. Có thể liệt vào hạng người này nhiều lớp người, nhiều nhóm “tri thức” lao động,đặc biệt là khi chế
độ giáo dục đã được mở rộng, số những người học hành có bằng cấp nhờ việc học
gia tăng ngày một nhiều, trong khi chỗ làm việc ngày một giảm. Tình trạng trí
thức thất nghiệp ấy xảy ra hoặc gia tăng, nên người ta mở rộng cửa học đường,
song nền giáo dục lại không hướng về những loại chức vụ và nghề nghiệp mà nhu
cầu thực tế xã hội đòi hỏi hoặc khi loại công việc mà người ta cần được chuẩn
bị bằng sự học văn hóa hay học nghề lại không được trọng dụng hoặc là không
được trả lương cao bằng công việc tay chân. Đã hiển nhiên rằng tự nó vấn đề học
vấn bao giờ cũng có giá trị và làm cho giá trị con người thêm phong phú hơn;
tuy nhiên không phải thế mà tình trạng “vô sản hóa” không xảy ra theo một vài
diễn tiến.
Chính vì thế nên chúng
ta vẫn phải tiếp tục tìm hiểu thêm về chủ thể của lao động cũng như về về những
điều kiện sinh sống của chủ thể ấy. Muốn thể hiện sự công bằng xã hội tại các
miền đất trên thế giới, tại các quốc gia, trong các quan hệ giữa các miền, các
nước, chúng ta luôn luôn cần phải có những phong trào liên đới mới của các
người lao động và với những người lao động. Phải có thứ tinh thần liên đới như
thế ở những nơi mà giá trị xã hội của chủ thể của lao động bị hạ thấp xuống,
những nơi người lao động bị bóc lột và những miền đói khổ ngày một gia tăng.
Giáo Hội nhiệt tâm dấn thân vào công cuộc này, vì Giáo Hội coi đó là sứ vụ, là
công việc của mình và là chứng nghiệm cho lòng trung thành của mình đối với Đức
Kitô, để có thể thực sự trở nên “Giáo Hội
của những người nghèo”. Và những “người
nghèo” này ở dưới nhiều dạng thức, xuất hiện ở nhiều nơi và trong nhiều lúc
khác nhau; trong nhiều trường hợp họ là hậu quả của việc vi phạm phẩm giá của lao
động con người: hoặc do công việc làm bị hạn chế - đó là tai họa của thất
nghiệp - hoặc do việc người ta coi nhẹ giá trị của lao động và các quyền lợi
của nó, đặc biệt là quyền được hưởng một đồng lương xứng đáng, quyền được bảo
vệ cho bản thân và gia đình người lao động.
9. Lao động và phẩm giá con người:
Vẫn đứng về khía cạnh
con người là chủ thể lao động, chúng ta cũng nên bàn, ít ra một cách tổng hợp,
về những vấn đề có khả năng xác định sát hơn về phẩm giá của lao động con
người, vì chúng có thể giúp chúng ta biểu thị giá trị đạo đức đặc thù của nó
một cách đầy đủ hơn. Chúng ta phải làm việc đó dưới ánh sáng lời Kinh Thánh: “Hãy bắt trái đất phục tùng”, vì đó là
lời kêu gọi biểu lộ ý muốn của Đấng Tạo Hóa, để việc lao động giúp con người
đạt tới “sự chế ngự” theo đúng vai
trò của mình trong thế giới hữu hình.
Ý định căn bản và đầu
tiên của Thiên Chúa đối với con người mà Ngài “đã dựng nên... giống Ngài, theo hình ảnh Ngài” vẫn được giữ nguyên
và không hề bị hủy bỏ, cả ngay sau khi con người đã xé bỏ giao ước nguyên thủy
với Thiên Chúa rồi bị tuyên án: “Ngươi sẽ
đổ mồ hôi trán ra để kiếm miếng ăn". Những lời này có ý chỉ sự mệt
nhọc đôi khi nặng nề được gắn liền với lao động kể từ ngày đó, nhưng nó không
làm thay đổi sự kiện này là: lao động luôn luôn là con đường dẫn con người tới
chỗ “chế ngự” thế giới hữu hình bằng cách bắt trái đất “phải phục tùng”, đúng với vai trò của họ. Sự mệt nhọc ấy mọi người
đều được biết và đều đã trải qua. Sự mệt nhọc là chuyện quá quen thuộc đối với
những người lao động về thân xác trong những hoàn cảnh đôi khi vô cùng khổ cực.
Sự mệt nhọc là chuyện quá quen thuộc đối với người nông dân phải trải qua những
ngày dài đằng đẵng cày sâu cuốc bẫm trên những mãnh ruộng nhiều khi chỉ “sinh ra cỏ rả gai góc”, đối với những
người thợ mỏ trong các mỏ kim khí, khai thác đá đối với những người thợ luyện
kim làm việc bên những lò nóng cháy; đối với những vất vã nơi các công trường
kiến trúc thuộc ngành xây dựng là nơi mà thường xuyên tính mạng và an toàn của
họ bị đe dọa. Sự mệt nhọc cũng là chuyện quá quen thuộc đối với những người gắn
liền với công trường lao động trí óc, với những nhà bác học, những người mang
nặng trên vai trách nhiệm đưa ra những quyết định hệ trọng ảnh hưởng lớn lao
trên bình diện xã hội. Sự mệt nhọc là chuyện quá quen thuộc đối với các bác sĩ
và y tá, ngày đêm săn sóc bên giường các bệnh nhân. Sự mệt nhọc là chuyện quá
quen thuộc đối với các phụ nữ ngày ngày vất vã lo lắng việc nhà và giáo dục con
cái, nỗi vất vả cực nhọc mà ít khi xã hội và chính những người thân chịu để ý
ghi nhận. Đúng thế, tất cả các người lao động đều biết chuyện mệt nhọc, vì lao
động là một thiên chức phổ quát, một thiên chức chung cho hết mọi con người.
Thế nhưng, mặc dầu có sự mệt nhọc như thế và có thể nói, có lẽ chính vì sự mệt
nhọc đó mà lao động là một cái lợi ích của con người.
Tuy lợi ích đó mang
dấu ấn của một thứ bonum arduum, thứ “lợi ích cực
nhọc” theo danh từ thánh Tôma dùng, thì với dấu ấn đó, nó vẫn là một lợi
ích của con người. Nó không phải chỉ là một lợi ích “hữu dụng" mà người ta có thể “thụ hưởng” mà nó còn là một lợi
ích “xứng đáng”, có nghĩa là nó tương
ứng với phẩm giá của con người, một lợi ích biểu lộ và gia tăng phẩm giá đó.
Muốn xác định rõ ràng hơn ý nghĩa đạo đức của lao động, trước hết chúng ta phải
chú tâm đến chân lý ấy. Lao động là một lợi ích của con người, một lợi ích của
nhân tính họ - bởi vì, nhờ lao động, không những con người chỉ biến đổi thiên
nhiên bằng cách ứng dụng nó vào nhu cầu của họ, mà họ còn có thể tự thực hiện
chính mình với tư cách là một người và hiểu theo một ý nghĩa nào đó, “họ trở nên người hơn”.
Nếu không có nhận định
như thế, người ta không thể hiểu được rằng: sự thành công trong lao động là một
thiện đức, nói rõ hơn: không thể hiểu được tại sao sự nhiệt thành trong lao
động lại phải là một thiện đức. Quả vậy, thiện ý là định ý đạo đức giúp cho con
người có thể trở thành tốt, với tư cách là một con người. Sự kiện này không làm
cho chúng ta bớt lo lắng băn khoăn trong việc làm thế nào để cho trong lao
động, con người không bị giảm nhân cách trong khi tìm cách nâng cao giá trị vật
chất. Người ta cũng biết rằng: có thể bằng nhiều cách, sử dụng lao động để
chống lại con người, chẳng hạn bằng cách áp dụng chế độ cưỡng bách trong các
trại tập trung, bằng cách dùng lao động để cưỡng bách áp bức con người, và cuối
cùng khai thác bóc lột bằng nhiều cách lao động con người, tức là chính người
lao động. Tất cả sự việc đó khiến chúng ta cảm thấy có trách nhiệm tinh thần
phải kết hợp hai sự kiện: đức tính nhiệt thành lao động với một trật tự xã hội
về lao động để con người có thể “trở nên
người hơn” trong lao động và tránh cho họ khỏi giảm mất nhân cách qua việc
lao lực (vì đó là một việc, xét theo một mức độ nào đó, không sao tránh được)
và nhất là làm tổn hại phẩm giá và tính chất chủ thể riêng của họ.
10. Lao động và xã hội: gia đình và quốc gia.
Sau khi đã xác định
chiều kích cá nhân của lao động con người, chúng ta phải nói đến một khu vực
thứ hai của các giá trị gắn liền với các vấn đề trên. Lao động là nền tảng xây
dựng đời sống gia đình lại là một quyền tự nhiên và là thiên chức của con
người. Hai khu vực giá trị này - một khu vực gắn liền với lao động, một khu vực
phát xuất từ tính chất gia đình của đời sống con người, phải liên kết với nhau
và ảnh hưởng tới nhau một cách đúng đắn. Có thể nói, lao động là điểu kiện giúp
cho gia đình có thể thành hình, vì muốn tồn tại, gia đình phải có những phương
tiện sinh sống mà con người phải nhờ lao động mới có được. Tất cả diễn tiến
giáo dục cũng chịu ảnh hưởng của lao động và của lòng nhiệt thành trong lao
động, lý do chính là vì mỗi người “trở nên người” lại là mục tiêu chính yếu của
tiến trình giáo dục. Có thể nói, chính ở đây, ta thấy xuất hiện hai khía cạnh
lao động: trước tiên là lao động để bảo đảm sự sinh sống cho gai đình và thứ
đến, lao động để giúp thực hiện các mục tiêu của gia đình, nhất là mục tiêu
giáo dục. Tuy nhiên, hai khía cạnh lao động này kết hợp và bổ túc cho nhau về
nhiều điểm.
Nói chung, ta phải nhớ
và xác định rằng: gia đình là một trong những căn cứ điểm quan trọng nhất mà
trật tự xã hội và đạo đức của con người phải dựa vào để hình thành. Nền giáo
dục (giáo lý) của Giáo Hội luôn luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho các vấn đề
trên, và trong tài liệu này, chúng ta cần phải nhắc nhở, bàn luận tới. Lý do vì
gia đình vừa là một cộng đồng thành hình và tồn tại được nhờ có lao động đồng
thời cũng là trường học đầu tiên dạy cho mọi người lao động.
Còn khu vực giá trị
thứ ba mà chúng ta gặp thấy trên khía cạnh đang nghiên cứu - khía cạnh chủ thể
lao động; khu vực này liên quan đến đại xã hội mà con người là thành phần trực
thuộc do những mối dây văn hóa lịch sử đặc thù liên kết lại. Cả trong trường
hợp xã hội này chưa hoàn toàn mang tính hình thức của một quốc gia, nó vẫn là
một trung tâm “giáo dục” lớn của con
người, mặc dầu mới chỉ giáo dục một cách gián tiếp (bởi vì trong gia đình, mỗi
người đều tiếp thu các nhân tố và giá trị ma toàn bộ sẽ tạo thành nền văn hóa
của một quốc gia nhất định) và mỗi xã hội là một hiện thân có tính cách lịch sử
và xã hội của lao động qua tất cả các thế hệ. Kết quả của tất cả các sự việc
trên là: con người gắn chặt nhân cách tính sâu xa nhất của mình với việc họ
trực thuộc vào quốc gia; họ cũng nhận thấy việc họ lao động là một phương thế
làm gia tăng lợi ích chung mà người đống bào cũng góp sức vào và biết rằng, nhờ
phương thế đó, lao động sẽ làm gia tăng di sản của cả gia đình nhân loại, của
tất cả mọi người sống trên trần thế.
Cả ba khu vực giá trị
này luôn luôn giữ tính cách quan trọng của chúng đối với lao động con người về
khía cạnh chủ quan của chúng. Khía cạnh đó, nghĩa là thực tại cụ thể của con
người khi lao động, có ưu thế hơn khía cạnh khách quan, việc “chế ngự” thế giới thiên nhiên được thực
hiện trước tiên và công việc này, con người đã kêu gọi thực hiện ngay từ hối
nguyên thủy, căn cứ theo lời chép trong sách Sáng thế. Nếu công việc chế ngự
trái đất, có nghĩa là việc lao động dưới khía cạnh kỹ thuật, trong lịch sử,
nhất là trong những thế kỷ gần đây, đã nổi bật hẳn với sự phát triển của các
phương tiện sản xuất, thì đó là một hiện tượng có lợi và tích cực, với điều
kiện là khía cạnh khách quan của lao động không lướt thắng hẳn chiều kích chủ
quan bằng cách làm cho con người mất đi hoặc làm giảm sút phẩm giá và các quyền
lợi bất khả nhượng của họ.
III. CUỘC TRANH CHẤP GIỮA LAO ĐỘNG VÀ TƯ BẢN
TRONG GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ HIỆN TẠI
11. Chiều kích của cuộc tranh chấp:
Có thể nói bản ước
trình căn bản về lao động được phác họa trên đây, căn cứ vào những đoạn văn đầu
tiên trong Kinh Thánh, là cái sườn của giáo huấn Giáo Hội, nó không hề thay đổi
qua bao thế kỷ giữa bao kinh nghiệm và biến thiên của lịch sử. Tuy nhiên trên
tấm màn bối cảnh những kinh nghiệm thâu thập được trước và sau khi ban hành
thông điệp Rerum novarum, lời giáo
huấn đó đã có thêm được một khả năng diễn tả đặc biệt và một tính chất thời sự
nóng bỏng. Qua sự phân tích này, lao động xuất hiện như một thực tại lớn có ảnh
hưởng căn bản đối với việc hình thành (hiểu theo nghĩa loài người) thế giới,
cái thế giới đã được Đấng Tạo Hóa giao phó cho con người, cũng như đối với việc
nhân tính hóa họ, lao động cũng là một thực tại gắn liền chặt chẽ với con người
như với chủ thể riêng của nó, và với phương pháp hành động hợp lý của họ. Trong
diễn tiến thông thường của mọi sự vật, thực tại đó tràn ngập trong đời sống con
người và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với giá trị và ý nghĩa của nó. Mặc dù dính
liền với sự mệt nhọc và sự cố gắng, lao động vẫn luôn luôn là một lợi ích khiến
cho con người phát triển thêm trong lúc yêu lao động. Tính chất hoàn toàn tích
cực và sáng tạo, giáo dục và hữu công trên đây của lao động con người phải trở
thành nền tảng cho những lượng giá và quyết định của con người đối với lao
động, ngay cả trường hợp họ dựa vào những quyền chủ quan của con người, đúng
như những lời xác quyết của các bản Tuyên ngôn quốc tế và các Bộ luật lao động
được soạn thảo do các cơ cấu lập pháp hữu quyền của các quốc gia cũng như các
tổ chức chuyên trách về vấn đề xã hội hoặc khoa học xã hội liên quan đến ước
trình của lao động. Có một cơ quan lo đề xuất những sáng kiến tương tự trên
bình diện quốc tế: đó là tổ chức lao động quốc tế, một tổ chức chuyên môn lâu
đời nhất của liên hiệp quốc.
Tôi dự định, trong một
phần liên quan đến các nhận định này, sẽ trở lại bàn một cách chi tiết hơn về
các vấn đề quan trọng trên, và sẽ nhắc sơ qua đến những yếu tố căn bản của giáo
lý Giáo Hội đối với vấn đề này. Nhưng trước đó, chúng ta nên đề cập tới phạm vi
rất quan trọng của những vấn đề dùng làm khung cho sự hình thành của lời giáo
huấn này mà thời đầu, theo một nghĩa tượng trưng nào đó, thích ứng với năm được
ban hành Thông điệp Rerum novarum.
Chúng ta được biết,
suốt trong giai đoạn này (hiện vẫn còn đang tiếp diễn) vấn đề lao động được đặt
ra, liên quan tới vụ tranh chấp lớn xảy ra vào thời gian kỹ nghệ phát triển, và
có liên hệ tới nó, vụ tranh chấp giữa “thế
giới tư bản” và “thế giới lao động”
nghĩa là giữa một nhóm người hạn chế, nhưng rất có ảnh hưởng, là các nhà thầu,
các sở hữu chủ, các người nắm giữ các phương tiện sản xuất, và một nhóm thứ hai
là số đông quần chúng rộng lớn hơn thiếu những phương tiện ấy, nên chỉ tham gia
vào tiến trình sản xuất bằng sức lao động của mình mà thôi.
Cuộc tranh chấp này
bắt nguồn từ việc các người lao động đặt sức lực của mình dưới quyền sử dụng
của nhóm các người thầu, trong khi nhóm người này, dựa trên nguyên tắc làm sao
thu được nhiều lợi nhuận nhất, luôn luôn tìm cách giữ cho đồng lương phải trả
cho công việc làm của những người lao động ở mức thấp nhất. Đó là chưa kể những
phương thế bóc lột khác gắng liền với sự thiếu an toàn trong lao động, thiếu
bảo đảm về những điều kiện sức khỏe và đời sống của người thợ và gia đình họ.
Một số người giải thích sự tranh chấp này dưới hình thức một cuộc tranh chấp
kinh tế xã hội có tính giai cấp; cuộc tranh chấp này diễn tiến trong cuộc tranh
chấp ý thức hệ giữa chủ nghĩa tự do, được coi như ý thức hệ của chế độ tư bản
và chủ nghĩa mác-xít, được coi như ý thức hệ của chế độ xã hội khoa học và chế
độ cộng sản, là chế độ tự cho mình là phát ngôn nhân của giai cấp thợ thuyền,
của toàn thể giai cấp vô sản thế giới. Và như thế, cuộc tranh chấp thực sự giữa
thế giới lao động và thế giới tư bản và biến thành cuộc chiến tranh giai cấp có
hệ thống được tiến hành với những phương pháp không những chỉ có tính cách ý
thức hệ mà nhất là với tính cách chính trị. Chúng ta đều biết rõ cuộc đấu tranh
này, cũng như biết rõ yêu sách của hai phe đối nghịch. Chương trình đấu tranh
của Mác-xít, dựa trên thuyết của Mác và Ăng-ghen, coi cuộc đấu tranh giai cấp
như một phương thế duy nhất để loại trừ bất công giai cấp trong xã hội và đồng
thời cũng hủy bỏ luôn chính các giai cấp đó. Để thực hiện chương trình này,
trước tiên người ta chủ trương “tập sản hóa” các phương tiện sản xuất để có thể
giải tỏa lao động khỏi sự bóc lột sau khi đã chuyển các phương tiện sản xuất từ
tay tư nhân sang tay tập thể.
Đó là mục tiêu cuộc
tranh đấu tiến hành bằng những phương pháp vừa ý thức hệ vừa chính trị. Theo
đúng nguyên tắc “vô sản chuyên chính”
và bằng cách gây những ảnh hưởng về nhiều mặt, kể cả bằng áp lực cách mạng, các
nhóm được tập hợp lại thành những chính đảng, theo ý thức hệ Mác-xít, tìm cách
chiếm độc quyền và quyền bính trong mỗi xã hội và đem áp dụng tại đó chế độ tập
sản bằng cách loại trừ quyền tư hữu các phương tiện sản xuất. Theo chủ trương
các lý thuyết gia và các lãnh tụ phong trào quốc tế rộng lớn này, mục đích của
chương trình hoạt động trên là thể hiện cuộc cách mạng xã hội và du nhập vào
trong toàn thể thế giới chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Khi bàn đến một lãnh
vực gần những vấn đề cực kỳ quan trọng như thế, những vấn đề không chỉ tạo
thành một chủ thuyết, mà cả một chuỗi dài đời sống kinh tế, xã hội, chính trị
và quốc tế, của thời đại, chúng ta không thể đi sâu vào chi tiết được; vả
chăng, việc đó xét ra cũng không cần thiết, vì đây là vấn đề khá quen thuộc do
không biết bao nhiêu sách vở tài liệu đã nói tới hoặc đã được biểu hiện qua
những kinh nghiệm thực hành. Trái lại, chúng ta phải ngược dòng, đi từ nội dung
của chúng trở lại vấn đề căn bản là lao động con người mà tất cả các nhận định
của tập tài liệu này nhắm vào. Thật vậy, đây là vấn đề chủ chốt (vẫn hiểu theo
phương diện loài người), một vấn đề tạo thành một trong những chiều kích căn
bản của đời sống con người trên trái đất và ơn gọi của họ, một vấn đề chỉ có
thể giải thích được bằng cách nắm vững tất cả nội dung của thực tại hiện đại.
12. Ưu tiên của lao động.
Đối diện với thực tại
hiện đại này, một thực tại mà cơ cấu đã ghi sâu không biết bao nhiêu cuộc tranh
chấp do con người gây ra và trong đó có phương tiện kỹ thuật, kết quả của lao
động con người, đóng vai trò quan yếu nhất (ở đây người ta liên tưởng đến cả
viễn tượng của một thảm họa chung cho cả thế giới nếu xảy ra một cuộc chiến
tranh nguyên tử với khả năng phá hoại khủng khiếp không tưởng tượng được),
trước hết chúng ta cần nhắc nhở lại một nguyên tắc mà Giáo Hội luôn luôn dạy.
Đó là nguyên tắc “lao động” có ưu
tiên hơn “vốn liếng”. Nguyên tắc này
liên quan trực tiếp với chính tiến trình sản xuất trong đó lao động luôn luôn
là nguyên nhân hiệu năng, trong khi “vốn
liếng”, tức là toàn bộ các phương tiện sản xuất, chỉ là một dụng cụ, một
nguyên nhân khí cụ. Nguyên tắc này là một chân lý hiển nhiên xuất phát từ thực
tại lịch sử của con người.
Trong chương thứ nhất
của Thánh Kinh, chúng ta đọc thấy rằng con người phải bắt trái đất phục tùng
mình và chúng ta biết rằng những lời này chỉ tất cả các tài nguyên chất chứa
trong thế giới hữu hình và được đặt dưới quyền sử dụng của con người. Thế nhưng
con người chỉ có thể sử dụng các tài nguyên ấy bằng sức lao động. Ngoài ra,
ngay từ những ngày đầu, vấn đề tư hữu là một vấn đề gắn liền với lao động, bởi
vì, muốn sử dụng và muốn cho những người khác sử dụng các tài nguyên tiềm tàng
trong thiên nhiên, con người chỉ có một phương tiện là sức lao động của mình,
con người chiếm hữu một phần nhỏ các của cải thiên nhiên: trong lòng đất, dưới
đáy biển, trên mặt đất và trên không trung. Con người chiếm hữu những thứ đó và
biến chúng thành công trường lao động của họ. Họ dùng lao động để chiếm hữu và
nhờ đó có thể tiếp tục lao động thêm nữa.
Nguyên tắc trên đây
được áp dụng cho các giai đoạn tiếp theo của diễn tiến đó, và giai đoạn đầu
tiên luôn luôn vẫn là mối tương quan giữa con người và những tài nguyên của cải
thiên nhiên. Tất cả những cố gắng tìm tòi để khám phá các của cải đó, để xác
định những khả năng sử dụng khác biệt do con người và cho con người, cho chúng
ta ý thức rằng: tất cả những gì trong toàn bộ công cuộc sản xuất kinh tế do con
người làm ra, cả sức lao động lẫn toàn bộ những phương tiện và kỹ thuật sản
xuất (nghĩa là khả năng có thể vận dụng các phương tiện ấy trong lao động) giả
thiết đã có: các tài nguyên của cải của thế giới hữu hình do con người tìm ra
được, chứ không phải tạo dựng nên. Có thể nói, khi họ tìm ra chúng, chúng đã có
sẵn, đã được chuẩn bị để được khám phá ra và đem sử dụng tốt trong diễn trình
sản xuất. Trong tất cả mọi giai đoạn phát triển bằng lao động, con người gặp
một sự kiện này là: họ nhận được tất cả do nơi thiên nhiên, nói kiểu khác, xét
cho cùng là do nơi Đấng Tạo Hóa. Ngay từ khởi thủy lao động con người, đã có
huyền nhiệm tạo dựng. Điều khẳng định này chính là khởi điểm là hướng đi của
tài liệu này; điều khẳng định ấy sẽ được quảng diễn dưới đây, trong phần cuối
cùng của các suy tư này.
Nhận xét tiếp theo về
cũng một vấn đề này sẽ giúp chúng ta vững tin rằng: lao động của con người có
giá trị đối với cái mà với thời gian, người ta quen gọi là “vốn liếng”. Quả
vậy, nếu với ý thức đó, ta quen sắp xếp các tài guyên thiên nhiên vốn có sẵn
chờ con người sử dụng với toàn bộ các phương tiện mà con người chiếm hữu bằng
cách chế biến dần dần tùy theo nhu cầu của mình (có thể nói bằng cách “nhân tính hóa") chúng ta sẽ nhận
thấy rằng tất cả toàn bộ các phương tiện này đều là di sản lịch sử của lao động
con người. Tất cả các phương tiện sản xuất, từ cái thô sơ nhất đến cái tối tân
nhất, đều do con người tạo ra dần dần, nhờ kinh nghiệm và sự hiểu biết của con
người. Và như thế chúng ta thấy xuất hiện không những các dụng cụ đơn giản nhất
dùng để canh tác, mà nhờ có sự tiến bộ đồng đều của khoa học và kỹ thuật, cả
những dụng cụ tối tân và phức tạp nhất như: máy móc, nhà máy, các phòng thí
nghiệm, các máy điện toán. Vì vậy tất cả những gì dùng cho lao động, tát cả
những gì tạo thành “khí cụ” ngày càng hoàn bị theo mức độ kỹ thuật thời gian
nay của lao động. Khí cụ khổng lồ và vạn năng này, nói cách khác, toàn bộ các
phương tiện sản xuất, có thể được coi là đồng nghĩa với “vốn liếng”, đều phát xuất ra từ lao động và mang nhãn hiệu của lao
động. Với mức tiến bộ hiện thời của kỹ thuật, khi con người chủ thể của lao
động, muốn sử dụng toàn bộ các khí cụ tối tân, nghĩa là muốn sử dụng các phương
tiện sản xuất, đều phải bắt đầu dùng tri thức để tiếp nhận tất cả những kết quả
lao động của những người đã khám phá, xếp đặt, chế tạo hoàn bị các khí cụ và
ngày nay vẫn tiếp tục làm như vậy. Khả năng lao động _ nghĩa là khả năng tham
dự một cách hữu hiệu vào tiến trình hiện đại của sản xuất - đòi hỏi phải có một
sự chuẩn bị kỹ hơn, và nhất là một trình độ kiến thức tương xứng hơn, điều hiển
nhiên là bất cứ người nào tham dự vào tiến trình sản xuất, mặc dù chỉ thực hiện
một công việc không đòi hỏi một kiến thức và chuyên môn đặc biệt, họ vẫn là một
chủ thể có hiệu năng thực sự trong tiến trình đó, trong khi toàn bộ các khí cụ
dù là loại tinh xảo hoàn bị nhất, vẫn hoàn toàn chỉ là một khí cụ lệ thuộc vào
sức lao động của con người.
Đó là một chân lí
thuộc di sản bất di bất dịch trong giáo lý của Giáo Hội và cần được nhấn mạnh
mỗi khi bàn đến vấn đề chế độ lao động cũng như với tất cả chế độ kinh tế xã
hội. Cần phải nhấn mạnh và làm nổi bật tính cách ưu tiên của con người trong
tiến trình sản xuất, sự ưu tiên của con người trên các sự vật. Tất cả những gì
bao hàm trong ý niệm “vốn liếng”,
hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ là một trong toàn bộ của các sự vật. Vì là chủ tể của
lao động và dầu bất cứ làm công việc gì, con người, và chỉ duy nhất có mình con
người mà thôi, mới là một nhân thể. Tự trong chân lý này, người ta rút ra những
quy kết quan trọng và quyết định.
13. Chủ thuyết duy kinh tế và chủ thuyết duy vật.
Trước hết, dưới ánh
sáng của chân lý này, ta thấy rõ: không thể tách “vốn liếng” khỏi lao động , cũng như không có cách nào đối lập lao
động với vốn liếng và vốn liếng với lao động, và - như sẽ giải thích dưới đây -
càng không thể đối lập những con người cụ thể, hiểu theo quan niệm lao động và
tư bản (tức là vốn liếng). Chế độ lao động được gọi là công bằng, nghĩa là hợp
với chính bản chất của vấn đề, hoặc xác thực tự bản chất và đồng thời hợp pháp
về mặt đạo đức, là một chế độ, tự căn bản nền tảng, vượt qua được sự đối kháng
giữa lao động và vốn liếng bằng cách thiết lập cơ cấu tổ chức trên nguyên tắc
kể ra trên đây về ưu tiên tự bản chất và hiệu năng của lao động, về khía cạnh
chủ quan của lao động con người, về sự tham gia có hiệu quả vào tiến trình sản
xuất dù người lao động đóng góp bằng bất cứ loại việc nào.
Tính chất đối kháng
giữa lao động và vốn liếng không bắt nguồn ở cơ cấu của tiến trình sản xuất
cũng không ở cơ cấu của tiến trình kinh tế nói chung. Tiến trình này biểu lộ sự
hỗ tương thâm nhập giữa lao động và cái người ta quen gọi là vốn liếng, nó
chứng tỏ giữa hai bên có một sợi dây liên kết không gì tháo gỡ nổi. Dù làm bất
cứ công việc gì, hoặc một công việc tương đối thô sơ hay ngược lại, một công
việc hết sức hiện đại, con người vẫn có thể dễ dàng nhận thấy rằng: nhờ công
sức lao động của mình, họ được thừa hưởng hai di sản: thứ nhất là được thừa
hưởng những gì mà tất cả mọi người được hưởng, là các tài nguyên thiên nhiên,
và thứ đến, tất cả những gì mà người trước đó đã tạo ra từ những tài nguyên đó
bằng cách trước tiên là phát triển kỹ thuật, nghĩa là thực hiện các dụng cụ làm
việc mỗi ngày một hoàn bị hơn. trong khi lao động, con người được “thừa hưởng công sức của người khác”.
Nhờ trí khôn suy nghĩ và dưới ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn đức tin, chúng ta
sẽ dễ dàng chấp nhận lối nhìn đối với lãng vực và tiến trình lao động như vừa kể.
Đây là một lối nhìn mạch lạc, có tính cách thần học và nhân bản. Quả vậy, con
người xuất hiện với tư cách “chủ nhân ông”
của các tạo vật, được đặt dưới quyền sử dụng của họ trong thế giới hữu hình.
Nếu trong tiến trình của lao động, chúng ta nhận thấy có cái gì lệ thuộc, thì
đó chính là sự lệ thuộc đối với Đấng ban phát tất cả các tài nguyên đã được tạo
thành, và sự lệ thuộc ấy sẽ lại trở thành sự lệ thuộc đối với những người khác,
những con người đã dùng công sức lao động và các sáng kiến của họ, để lại cho
công việc của chúng ta những khả năng đã được hoàn bị và gia tăng. Đối với tất
cả những gì,trong tiến trình sản xuất, tạo thành một toàn bộ những “sự vật” những dụng cụ, vốn liếng, chúng
ta chỉ có thể quả quyết rằng chúng là “những
điều kiện” của lao động con người. Nhưng ta không thể quả quyết rằng chúng
như một thứ “chủ thể” vô danh bắt con
người và sự lao động của họ phải lệ thuộc.
Lối nhìn mạch lạc này,
trong đó nguyên tắc con người chiếm ưu thế ở trên sự vật được bảo vệ nguyên vẹn
đã bị phá vỡ trong tư tưởng của con người, đôi khi sau một thời gian chẩn bị
khá dài trong thực hành. trong quá trình đó, lao động đã bị tách rời và trở
thành đối lập với vốn liếng, cũng như vốn liếng trở thành đối lập với lao động,
gần như hai lực lượng vô danh, hai nhân tố sản xuất được nhận định riêng biệt
trong cùng một viễn tượng “kinh tế học”
đối với cách đặt vấn đề như thế, người ta thấy có một sai lầm căn bản có thể
mệnh danh là sự sai lầm của “chủ thuyết
duy kinh tế” là một chủ thuyết chỉ nhận xét sự lao động của con người
nguyên dưới khía cạnh cứu cánh kinh tế. Chúng ta có thể và phải gọi sai lầm căn
bản của tư tưởng này là sự sai lầm của chủ nghĩa duy vật theo ý nghĩa này là: “chủ thuyết duy kinh tế” chủ trương, một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tính cách ưu thế, trổi vượt của những gì là vật
chất, trong khi nó đặt, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, những gì có tính
cách thiêng liêng và nhân linh (như hành động của con người, các giá trị đạo
đức hoặc tư tưởng) trong một vị thế lệ thuộc đối với thực tại vật chất. Quan
niệm đó thực sự chưa phải là chủ thuyết duy vật lý thuyết theo trọn vẹn ý nghĩa
của nó; nhưng chắc chắn nó là một chủ thuyết duy vật thực hành; chủ thuyết duy
vật thực hành này ít căn cứ vào một lối phán đoán nhất định về mặt giá trị - và
như thế dựa vào một hệ thống lợi ích, dựa trên sức thu hút mãnh liệt và tức
thời của những gì là vật chất; thứ chủ thuyết duy vật thực hành được coi như có
thể thỏa mãn các nhu cầu của con người.
Lối suy nghĩ sai lầm
theo các phạm trù của “chủ thuyết duy
kinh tế” đi đôi với sự xuất hiện của triết thuyết duy vật và sự phát triển
của triết thuyết này từ giai đoạn sơ bộ và thông thường nhất (cũng được gọi là
thuyết duy vật thô sơ vì nó chủ trương qui hóa thực tại tâm linh thành một hiện
tượng dư thừa) đến giai đoạn mệnh danh là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tuy
nhiên, trong khung cảnh của những nhận xét này, đối với vấn đề căn bản này của
lao động con người và đặc biệt đối với việc phân tách và đối lập “lao động” và “vốn liếng”, coi như hai yếu tố sản xuất được xét nghiệm trong cùng
một viễn tượng “kinh tế học” mà ta
vừa nói, thì hình như “chủ thuyết duy
kinh tế” có một tầm quan trọng quyết định và ảnh hưởng lớn đến cách đặt vấn
đề một cách không nhân bản này, trước cả hệ thống triết học duy vật. Mặc dầu
thế, hiển nhiên rằng chủ nghĩa duy vật, ngay cả dưới hình thức biện chứng, cũng
không đủ sức cung cấp cho những ai suy nghĩ về đề tài lao động con người, những
căn bản đầy đủ và quyết định để có thể kiểm chứng một cách tương xứng và thật
vững chắc, và thật sự bảo đảm rằng con người có ưu thế trên dụng cụ vốn liếng,
và nhân vị có ưu thế trên sự vật. Ngay cả trong chủ nghĩa duy vật biện chứng,
con người trước tiên cũng không phải là chủ thể của lao động và là nguyên nhân
hiệu năng của tiến trình sản xuất nhưng nó được coi và được hiểu là thành phần
lệ thuộc vào vật chất; Họ là kết quả hợp thành của các quan hệ kinh tế và quan
hệ sản xuất đang thịnh hành.
Dĩ nhiên, tính chất
đối kháng nhắc tới ở đây giữa lao động và vốn liếng - thứ đối kháng nằm trong
bối cảnh lao động bị tách rời và đối lập với vốn liếng, và được coi như là một
thực thể và một nhân tố trong tiến trình kinh tế - tính chất đó bắt nguồn không
những ở triết học và các thuyết kinh tế của thế kỷ XVIII, mà hơn thế nữa, còn
bắt nguồn ở thực tại kinh tế xã hội của thời đại kỹ nghệ sơ khai rồi phát triển
một cách ồ ạt. Trong tình trạng kỹ nghệ hóa đó,người ta cảm thấy ngay cái khả
năng gia tăng mạnh mẽ của cải vật chất, tức là các phương tiện, trong lúc đó,
người ta lại quên mất cứu cánh là chính con người, con người mà các phương tiện
ấy phải phục vụ. Sự sai lầm về phương diện thực hành đó, liên quan trước tiên
đến lao động của con người, đến con người đang lao động và gây ra một phản ứng
xã hội rất chính đáng về mặt đạo đức mà ta đã nói ở trên, sự sai lầm đó từ nay mang
một sắc thái lịch sử nhất định, gắn liền với thời đại chủ nghĩa tư bản và tự do
sơ khai; sự sai lầm đó có thể tái diễn trong không gian và thời gian nếu, trong
lý luận, người ta lại khởi đầu từ những tiền đề lý thuyết và thực hành như
trên. Không thể thấy có cách gì giúp chúng ta dứt khoát thoát khỏi thứ sai lầm
đó nếu không có những thay đổi tương xứng trong lãnh vực lý thuyết cũng như
thực hành, những thay đổi nằm trong đường lối tin tưởng vững chắc và tính ưu
thế của nhân vị trên sự vật, của lao động con người trên vốn liếng (được hiểu
theo nghĩa: toàn bộ các phương tiện sản xuất).
14. Lao động và sở hữu.
Tiến trình lịch sử
được trình bày vắn tắt ở đây vượt khỏi giai đoạn đầu, nhưng nó vẫn tiếp tục và
lan rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia và đại lục. Nó cần được giải thích
rõ thêm về một khía cạnh khác. Đã hiển nhiên rằng khi ta nói đến sự đối kháng
giữa lao động và vốn liếng, thì đây không phải chỉ nói đến những ý niệm trừu
tượng hoặc những “lực lượng vô danh”
tác động trong sản xuất kinh tế. Đằng sau những ý niệm đó, có con người, những
con người sống động cụ thể. Một bên là những người làm việc nhưng lại không
phải là sở hữu chủ của các phương tiện sản xuất, và một bên là những người đóng
vai thầu khoán, là sở hữu chủ của các phương tiện hay ít ra thay mặt cho các sở
hữu chủ ấy. Chính vì thế, trong toàn bộ tiến trình lịch sử khó khăn này và ngay
từ lúc đầu, đã thấy xuất hiện vấn đề sở hữu. Thông điệp Rerum novarum trình bày về đề tài xã hội, cũng nhấn mạnh đến vấn đề
trên bằng cách nhắc lại và xác nhận giáo lý của Giáo Hội về sở hữu, về quyền tư
hữu ngay cả trong lãnh vực các phương tiện sản xuất. Thông điệp Mater et Magistra cũng giữ một lập
trường như vậy.
Nguyên tắc trên đây,
Giáo Hội đã nhắc lại lúc bấy giờ và bây giờ cũng vẫn luôn luôn dạy bảo, tự căn
khác biệt với chương trình tập sản hóa do chủ nghĩa mác xít đề xướng và được
đem thực hiện trong một số quốc gia trong những thập niên sau thông điệp của Đức
Lêô XIII. Nguyên tắc đó cũng khác biệt với chương trình của chủ nghĩa tư bản,
một chủ nghĩa được chế độ tự do và các chế độ dựa theo đem áp dụng. Trong
trường hợp thứ hai này, sự khác biệt căn cứ ở cách hiểu về quyền sở hữu. Truyền
thống Kitô giáo không bao giờ chủ trương đó là quyền tuyệt đối, không gì chạm
đến được. Trái lại, quyền này được hiểu trong bình diện rộng lớn hơn thuộc
quyền lợi chung của mọi người được sử dụng các lợi ích của cải của toàn thể tạo
vật: quyền tư hữu phụ thuộc vào quyền công ích, vào việc sử dụng chung các lợi
ích của cải.
Ngoài ra, theo giáo
huấn của Giáo Hội, sở hữu không bao giờ coi như là một duyên cớ mâu thuẫn có
tính cách xã hội đối với lao động. Như đã nhắc đến trên đây, sở hữu có được,
trước tiên là nhờ có lao động và cũng để phụ giúp lao động. Điều này đặc biệt
liên quan đến vấn đề quyền sở hữu đối với các phương tiện sản xuất. Không thể
xem xét chúng như là một toàn bộ của những tư hữu riêng biệt với mục đích đem
chúng ra dưới hình thức “vốn liếng”
để đối lập với “lao động”, và hơn
thế, để khai thác sức lao động; làm như thế là đi ngược lại với bản tính các
phương tiện ấy và của sự chiếm hữu chúng. Không thể chiếm hữu chúng để chống
lại lao động, cũng không thể chiếm hữu để chiếm hữu bởi vì, dù là sở hữu riêng
hay sở hữu chung hoặc tập thể, chỉ có thể dùng danh nghĩa duy nhất hợp pháp sau
đây để chiếm hữu, đó là chiếm hữu với mục đích dùng chúng cho lao động. Với
việc giúp cho lao động, chúng có thể đạt được nguyên tắc cốt yếu của vấn đề này
là: của cải phải được dùng chung và phải giúp ích chung cho mọi người. Về khía
cạnh này, khi xét đến lao động của con người và việc cùng chung của cải dành
cho con người, người ta cũng không thể phủ nhận việc xã hội hóa, với những điều
kiện hợp lý, một số các phương tiện sản xuất. Trong khoảng thời gian những thập
niên giữa thời gian chúng ta và thời gian ban hành thông điệp Rerum novarum, Giáo Hội luôn nhắc nhở
các nguyên tắc ấy, bằng cách dựa vào những luận cứ có từ lâu đời trong những
truyền thống, thí dụ như những luận cứ quen thuộc của bộ Tổng luận Thần Học (Somme Théologique) của thánh Tôma
Aquinô.
Trong tài liệu này,
với đề tài chính là lao động con người, ta cần xác nhận nỗ lực mà Giáo Hội đã
huấn giáo về quyền sở hữu, đã tìm mọi cách và còn luôn luôn tìm cách bảo vệ
tính cách ưu tiên của lao động, và từ chỗ đó, bảo vệ tính chất chủ thể của con
người trong đời sống xã hội, và đặc biệt trong cơ cấu năng động của tất cả tiến
trình kinh tế. Về phương diện này ta không thể chấp nhận chủ trương của chủ
nghĩa tư bản “cứng rắn”, đòi bảo vệ
quyền tư hữu có tính cách độc chiếm đối với quyền tư hữu sản xuất coi đó như là
một “giáo lý” bất khả xâm phạm trong đời sống kinh tế. Nguyên tắc tôn trọng lao
động và đòi hỏi quyền đó phải được duyệt xét lại với ý nghĩa xây dựng cả mặt lý
thuyết lẫn thực hành để tổ chức lại. Nếu quả thật vốn liếng được hiểu như là
toàn bộ các phương tiện sản xuất, đồng thời cũng là sản phẩm lao động của các
thế hệ, thì cũng phải nhận rằng: vốn liếng đó không ngừng gia tăng nhờ lao động
thực hiện với toàn bộ những phương tiện sản xuất, xuất hiện như một xưởng thợ
lớn, nơi ngày này qua ngày khác, thế hệ của những người lao động hiện thời đang
làm việc. Lẽ dĩ nhiên, đây là đủ mọi thứ công việc, không những công việc tay
chân mà con những công việc trí óc khác, kể từ công việc suy nghĩ sáng tác đến
công việc quản lý.
Dưới ánh sáng đó,
những bản đề án do những nhà chuyên môn về giáo lý xã hội Công giáo và của lời
giáo huấn tối cao của Giáo Hội đưa ra, mang một ý nghĩa đặc biệt. Đó là những
đề án liên quan đến vấn đề đồng sở hữu các phương tiện lao động, vấn đề các
người lao động tham gia vào việc quản trị hay vào số lợi tức của giới thầu, mà
người ta mệnh danh vấn đề cổ động của người thợ... Dù các đề án trên đây được
đem áp dụng vào trong thực tế như thế nào đi nữa, thì có một điều hiển nhiên
là, việc công nhận vị thế chính đáng của lao động và của người lao động trong
tiến trình sản xuất đòi có những sự thích nghi khác nhau ngay cả trong lãnh vực
quyền sở hữu các phương tiện sản xuất. Nói như thế là phải xét đến, không những
chỉ các hoàn cảnh cũ xưa, mà trước tiên phải xét đến các thực tại và ước trình
mới hình thành trong hạ bán thế kỷ này và có liên quan đến thế giới thứ ba cũng
như một số quốc gia độc lập, không những chỉ ở Châu Phi mà cả ở các nơi khác,
trước đây là những nước thuộc địa.
Vì thế nếu cần phải
thường xuyên duyệt xét lại chủ nghĩa tư bản “cứng rắn” để cải tạo lại, dựa theo
các quyền lợi của con người, những quyền lợi được hiểu theo nghĩa rộng nhất và
trong mối quan hệ của chúng đối với lao động thì người ta cũng phải xác quyết
cùng trên một phương diện ấy rằng: các cải tổ vừa nhiều vừa đáng mong ước ấy
không thể thực hiện được bằng việc tiên quyết hủy bỏ quyền tư hữu đối với các
phương tiện sản xuất. Quả vậy, ta chỉ việc quan sát và nhận định rằng nguyên một
việc giành lại các phương tiện sản xuất (vốn liếng) từ tay các sở hữu chủ tư
chưa đủ để thực hiện việc xã hội hóa một cách thỏa đáng. Chúng không còn phải
là sở hữu của một nhóm người trong xã hội (tức là các sở hữu chủ tư) mà trở
thành sở hữu của một xã hội có tổ chức và nằm dưới sự quản trị và kiểm soát
trực tiếp của một nhóm người khác. Nhóm người này tuy không phải là sở hữu chủ,
song nhờ vào quyền hành mà xã hội trao cho, họ sử dụng các phương tiện trên
bình diện kinh tế toàn thể quốc gia hay địa phương.
Có thể nhóm người chỉ
huy và hữu trách này thi hành nhiệm vụ của mình một cách thỏa đáng về phương
diện bảo vệ tính chất ưu thế của lao động, nhưng cũng có thể họ làm sai trái
bằng cách vừa giành lấy độc quyền quản trị và sử dụng các phương tiện sản xuất,
vừa lấn chiếm vi phạm vào những quyền của con người. Và như thế là việc các
phương tiện sản xuất trở thành sở hữu của Nhà Nước trong chế độ tập sản hóa, tự
nó, không phải đương nhiên có nghĩa là: quyền sở hữu đã được xã hội hóa. Ta chỉ
có thể nói “xã hội hóa” khi tính cách
chủ thể của xã hội được bảo đảm nghĩa là nếu mỗi người, với công việc của mình,
đồng thời có tư cách đầy đủ để coi mình như một người đồng sở hữu đối với công
trường lao động rộng lớn, trong đó, họ cùng dấn thân làm việc với tất cả mọi
người. Một trong những phương pháp có thể dùng để đạt tới mục tiêu ấy có lẽ là
tìm hết cách liên kết lao động với quyền sở hữu vốn liếng và hình thành một số
cơ cấu trung gian có mục đích kinh tế, xã hội và văn hóa. Các cơ cấu ấy phải
được hưởng một quyền tự trị hữu hiệu đối với chính quyền, sẽ theo đuổi các mục
tiêu chuyên biệt bằng cách giữ những quan hệ với nhau trong tinh thần cộng tác
chân thành và tuân phục những yêu sách của công ích; sẽ mang hình thức và bản
chất một cộng đồng sống động. Như thế các thành viên của cộng đồng sẽ được đối
sử và coi như những nhân thể và được khuyến khích tích cực tham gia vào đời
sống của họ.
15. Luận cứ nhân vị
Như vậy, nguyên tắc
lao động có ưu thế trên vốn liếng chính là một định tắc thuộc phạm vi đạo đức
xã hội. Định tắc này có phần quan trọng chủ chốt không những trong chế độ đặt
căn bản trên nguyên tắc giữ quyền tư hữu đối với các phương tiện sản xuất mà cả
trong chế độ quyền tư hữu này bị hạn chế từ trong căn bản: theo một khía cạnh,
lao động gắn liền không thể rời với vốn liếng, và nó không chấp nhận một hình
thức đối kháng, nghĩa là sự tách rời và đối lập với các phương tiện sản xuất.
Một thứ mâu thuẫn kết quả của những tiền đề hoàn toàn kinh tế và đè nặng trên
đời sống con người trong những thế kỷ vừa qua. Khi con người làm bằng cách sử
dụng toàn bộ các phương tiện sản xuất, họ mong muốn rằng kết quả của công sức
lao động mình có lợi cho cả chính mình lẫn cho người khác và làm sao cho trong
chính tiến trình lao động, họ có thể tự coi mình như một người đồng trách nhiệm
và là người cộng sự trong công tác mà họ phụ trách.
Từ nhận xét này, ta
thấy xuất hiện nhiều quyền chuyên biệt của người lao động, những quyền tương
ưng với nghĩa vụ lao động. Về điểm này, đưới đây, chúng ta sẽ bàn tới. Nhưng
ngay từ bây giờ, ta cần phải nhấn mạnh tổng quát về điểm: con người khi lao
động mong muốn rằng không những được hưởng số tiền lương trả cho công việc của
mình, mà còn được người ta làm thế nào để trong chính tiến trình sản xuất, họ
có thể ý thức được rằng dầu họ làm việc trong một cơ sở tập thể, họ cũng đồng
thời làm việc cho chính họ. Ý thức ấy bị bóp nghẹt nơi họ khi họ làm việc trong
một chế độ tập trung quan liêu quá đáng, ở đó người lao động có cảm giác như
mình ở trong một guồng máy khổng lồ điều khiển từ trên cao và nhiều trường hợp
chỉ như một dụng cụ sản xuất tầm thường hơn là một chủ thể thực sự của lao
động, có những sáng kiến riêng. Trong giáo huấn, Giáo Hội luôn luôn biểu lộ sự
tin tưởng sâu xa vững chắc rằng lao động của con người không phải chỉ liên quan
riêng tới kinh tế, mà còn bao hàm trước nhất là những giá trị nhân bản nữa.
Chính chế độ kinh tế và tiến trình sản xuất cũng được lợi nếu các giá trị cá
nhân ấy được tôn trọng. Trong tư tưởng của Thánh Tôma Aquinô, Ngài đã dùng lý
do trên đây để biện hộ cho quyền tư hữu đối với các phương tiện sản xuất. Nếu
chúng ta chấp nhận rằng vì một vài lý do xác đáng, có thể có những chuyện ngoại
lệ đối với nguyên tắc quyền tư hữu, và trong thời đại của chúng ta, chúng ta
cũng chứng kiến thấy chế độ sở hữu “xã
hội hóa” đã du nhập vào đời sống rồi; thế nhưng, luận cứ nhân vị vẫn không
mất sức mạnh của nó cả trên bình diện các nguyên tắc, cả trên bình diện thực
hành. Muốn có giá trị thuần lý và có hiệu quả, bất kể biện pháp xã hội hóa các
phương tiện sản xuất nào cũng phải quan tâm đến luận cứ trên đây. Chúng ta phải
làm mọi cách để cho ngay trong một chế độ như thế, con người vẫn giữ được ý
thức là làm việc cho mình. Trường hợp ngược lại, tiến trình kinh tế sẽ gặp
những tai hại không sao lường nổi, những tai hại không những về kinh tế mà nhất
là đối với cả chính con người nữa.
VI. QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
16. Trong lãnh vực rộng lớn của nhân quyền
Về nhiều phương diện,
lao động là một sự bó buộc, có nghĩa là một nghĩa vụ, nhưng đồng thời nó cũng
là nguồn gốc của nhiều quyền lợi cho người lao động. Những quyền đó cần được
nghiên cứu trong bình diện rộng lớn của toàn bộ các nhân quyền, những quyền lợi
có tính chất đồng tự nhiên với con người và nhiều quyền lợi đã được nhiều thẩm
cấp quốc tế công nhận và luôn luôn được chính phủ bảo đảm cho công dân của
mình. Sự tôn trọng toàn bộ các nhân quyền là điều kiện căn bản cho nền hòa bình
trong thế giới hiện đại; hòa bình trong nội bộ mỗi nước, mỗi xã hội cũng như
trong lãnh vực bang giao quốc tế, đúng như Giáo Hội đã nhiều lần lưu ý tới
trong các lời Giáo Huấn, đặc biệt là từ sau thời kỳ ban hành Thông điệp Pacem in terris. Các quyền của con
người xuất phát từ lao động nằm trong toàn bộ rộng lớn các quyền lợi căn bản
của con người.
Nhưng, trong toàn bộ
đó, chúng mang một đặc tính riêng biệt tương ứng với bản tính đặc thù của lao
động con người như ta vừa phác họa những nét đại cương trên đây và chúng ta
phải quan sát chúng bằng cách căn cứ vào các đặc điểm ấy. Như ta đã nói, lao
động là một việc bó buộc, nghĩa là một nhiệm vụ của con người dưới nhiều danh
nghĩa. Con người phải làm việc vì Đấng Tạo Hóa đã ra lệnh cho họ như thế và
cũng vì chính nhân tính của họ, một nhân tính chỉ có thể tồn tại và phát triển
nhờ vào lao động. Con người phải làm việc vì lưu tâm đến tha nhân, nhất là đối
với gia đình mình, cũng như đối với xã hội mà họ trực thuộc, đối với đất nước
mà họ là con dân, đối với tất cả đại gia đình nhân loại mà họ là thành viên, lý
do vì họ là người thừa hưởng công sức lao động của những thế hệ đi trước và
đồng thời cũng là người đồng lao cộng tác trong việc tạo dựng tương lai cho
những kẻ đến sau trong tiến trình lịch sử. Tất cả các điều ấy, tuy hiểu cách
rộng rãi nhất, cũng là một luật luân lý bắt buộc con người phải lao động. Khi
phải xét đến các quyền lợi tinh thần của con người đối với lao động, những
quyền lợi đi đôi với nhiệm vụ, chúng ta cần luôn luôn có trước mắt toàn thể
chiếc vòng tròn của những điểm tham chiếu, tượng trưng cho việc làm của mỗi chủ
thể trong lúc lao động.
Quả vậy, khi nói đến
nhiệm vụ phải lao động và những quyền lợi đi đôi với nhiệm vụ ấy, chúng ta nghĩ
ngay đến mối quan hệ giữa chủ thuê - tức là người có việc cho làm, hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp - và người lao động.
Sự phân biệt giữa chủ
thuê trực tiếp và chủ thuê gián tiếp có vẻ rất quan trọng xét về phương diện tổ
chức thực sự của lao động cũng như về phương điện khả năng lập những mối quan
hệ công bằng hay bất công trong lãnh vực lao động.
Nếu chủ thuê trực tiếp
là người hoặc là cơ quan ký kết với người thợ giao kèo lao động theo những điều
kiện ấn định rõ ràng, thì chủ thuê gián tiếp phải hiểu là những nhân tố khác
biệt nhau, cùng với chủ thuê trực tiếp, tạo một ảnh hưởng nhất định đối với
cách thế lập thành giao kèo lao động, và do đó, là những mối quan hệ công bằng
hay bất công trong lãnh vực của con người.
17. Chủ thuê: “trực tiếp” và “gián tiếp”
Ý niệm chủ thuê gián
tiếp bao gồm những người, những cơ cấu tổ chức các loại cũng như những khế ước
tập thể về lao động, những nguyên tắc xử trí do những người và cơ cấu tổ chức
nói trên thiết lập ra để xác định cả một hệ thống xã hội kinh tế, hoắc xuất
phát từ hệ thống đó. Vì thế ý niệm chủ thuê gián tiếp dựa vào nhiều yếu tố khác
nhau. Trách nhiệm của chủ thuê gián tiếp với chủ thuê trực tiếp - chính các từ
ngữ cũng chỉ rõ như thế: trách nhiệm sẽ không trực tiếp bằng- nhưng đó vẫn là
một trách nhiệm thực sự: người chủ thuê gián tiếp ấn định bản chất hình thái
này hay hình thái khác của quan hệ lao động và như thế, họ sẽ xác định luôn
cách xử trí của chủ thuê trực tiếp, khi người này ấn định một cách cụ thể bản
khế ước và các quan hệ lao động. Nhận xét đó không mục đích giải tỏa trách
nhiệm cho người chủ thuê trực tiếp, vì họ có trách nhiệm của riêng họ, nhưng có
ý lưu tâm đến những yếu tố chồng chất ảnh hưởng đến cách xử trí của họ. Khi cần
đưa ra một chính sách lao động hợp với đạo đức, cần phải lưu ý đến tất cả những
yếu tố đó. Chính sách này được coi là hợp với đạo đức khi các quyền lợi khách
quan của người lao động được tôn trọng.
Ý niệm chủ thuê gián
tiếp có thể đem áp dụng cho mỗi xã hội riêng biệt và trước hết cho chính phủ.
Quả vậy, chính phủ có nhiệm vụ phải đưa ra áp dụng một chính sách lao động thật
công bằng. Tuy nhiên, chúng ta được biết, với hệ thống quan hệ kinh tế hiện
thời trên thế giới, có nhiều sự liên lạc giữa các chính phủ khác nhau, những
liên lạc được biểu lộ bằng các vụ xuất nhập khẩu, nghĩa là trao đổi cho nhau
các của cải kinh tế, hoặc những nguyên liệu, hoặc những bán sản phẩm hay những
toàn phần kỹ nghệ. Những quan hệ đó tạo ra sự phụ thuộc và thật khó có thể nói
tới chuyện hoàn toàn tự túc, dù là đối với một quốc gia hết sức hùng mạnh về
kinh tế.
Tình trạng lệ thuộc
lẫn nhau như thế, tự nó, cũng chỉ là chuyện thường; thế nhưng nó có thể đưa đến
những hình thức khai thác, bóc lột bất công và gây ảnh hưởng đến chính sách lao
động của các quốc gia, và cuối cùng, đến chính cá nhân người lao động là chủ
thể chính của lao động. Chẳng hạn như những nước kỹ nghệ tiên tiến, và hơn thế
nữa, các xí nghiệp kiểm soát trên một phương diện đại quy mô các phương tiện
sản xuất kỹ nghệ (người ta mệnh danh đó là những công ty đa quốc gia hoặc siêu
quốc gia) có thể sẽ tìm cách bán các sản phẩm của họ với giá thật cao và đồng
thời đòi mua các nguyên liệu và các bán sản phẩm của với giá rẻ mạt. Đó là một
trong những nguyên nhân tạo ra tình trạng không đồng đều ngày càng gia tăng
giữa các nguồn lợi tức quốc gia của các nước. Sự cách biệt giữa đa số các nước
giàu và nước nghèo hơn không giảm bớt, không san bằng được, trái lại, cứ tăng
lên mãi và tất nhiên, sự thua thiệt là ở phía các nước nghèo. Hiển nhiên rằng
sự kiện này không thể không gây ảnh hưởng đến chính sách lao động địa phương và
đến tình trạng của người lao động tại các nước bị thua thiệt. Trong một chế độ
như thế, người chủ thuê trực tiếp tất nhiên sẽ ấn định những điều kiện lao động
dưới tầm mức đòi hỏi khách quan của các người lao động, nhất là nếu họ muốn thu
được thật nhiều lợi nhuận ở xí nghiệp họ điều khiển (hoặc ở những xí nghiệp mà
họ điều khiển trong trường hợp là một cơ sở đã “xã hội hóa” các phương tiện sản xuất).
Chúng ta có thể kết
luận một cách dễ dàng: khung cảnh của những lệ thuộc liên quan đến các ý niệm
chủ thuê gián tiếp là một khung cảnh rất rộng lớn và phức tạp. Muốn xác định,
phải một phần nào để ý tới toàn bộ các yếu tố quyết định của đời sống kinh tế
trong bối cảnh của một xã hội hoặc quốc gia nhất định; nhưng đồng thời cũng
phải quan tâm tới những mối dây liên lạc, những tình trạng lệ thuộc rộng lớn
hơn nhiều. Sự vận dụng các quyền của người lao động không thể gò bó, coi đó là
hậu quả của các chế độ kinh tế, mà tiêu chuẩn có lẽ chỉ là làm thế nào để đạt
được một lợi nhuận tối đa, theo một quy mô lớn hay nhỏ một chút. Trái lại, cần
phải căn cứ vào những quyền lợi khách quan của người lao động bất kể họ làm
công việc gì: lao động tay chân, trí óc, kỹ nghệ, nông nghiệp v.v...để đưa ra
một tiêu chuẩn tương xứng và căn bản để hình thành chế độ kinh tế, hoặc là của
một xã hội, một quốc gia, hay để đề ra toàn bộ chính sách kinh tế thế giới cũng
như những hệ thống và quan hệ quốc tế tùy thuộc.
Hành động của các tổ
chức quốc tế, kể từ tổ chức liên hiệp quốc, cần phải đi theo hướng đó, đúng với
thiên chức của mình. Rất có thể các tổ chức lao động quốc tế (OIT), Lương nông
của liên hiệp quốc (FAO) và các tổ chức tương tự, sẽ giúp được nhiều ngay chính
trong lãnh vực này. Trên bình diện quốc gia, chúng ta có các Bộ, các cơ quan
chính quyền và những tổ chức xã hội thiết lập với mục đích đó. Tất cả những
chuyện đó đều chỉ cho chúng ta thấy rõ tính cách quan trọng - như đã nói ở trên
- của chủ thuê, gián tiếp trong việc vận dụng và tôn trọng các quyền của người
lao động, vì các quyền của cá nhân con người là nhân tố chủ chốt của tất cả nền
trật tự đạo đức xã hội.
18. Vấn đề kiếm việc làm
Trong việc nghiên cứu
các quyền của người lao động trên khía cạnh liên hệ với “chủ thuê gián tiếp”, nghĩa là liên hệ với toàn bộ thẩm quyền các
cấp chịu trách nhiệm, trên bình diện quốc gia và quốc tế, về chiều hướng chính
sách lao động, chúng ta cần lưu tâm trước nhất đến một vấn đề căn bản. Đó là
vấn đề kiếm được việc làm, nói cách khác, vấn đề tìm công ăn việc làm thích ứng
cho tất cả mọi người có thể làm được. Nếu không thực hiện được tình trạng công
bằng và đúng đắn trong lãnh vực này, thì sẽ xảy ra nạn thất nghiệp, nghĩa là
không đủ việc làm cho những người có khả năng lao động. Sự thiếu công việc làm
có thể là một tình trạng chung hoặc xảy ra trong một vài ngành nghề. Những thẩm
quyền được nói tới ở đây dưới danh từ chủ thuê gián tiếp có nhiệm vụ phải hành
động chống lại nạn thất nghiệp vì đây là một tai họa, và khi xảy ra trên một
quy mô rộng lớn, nó sẽ trở nên một thảm cảnh xã hội. Vấn đề càng trở nên đau
lòng, não nề khi nạn nhân là những thanh niên, sau khi đã được chuẩn bị, huấn
luyện về văn hóa, kỹ thuật và nghề nghiệp thích ứng rồi, lại không kiếm được
việc làm và cảm thấy đau khổ vì không được làm việc như lòng mình chân thành
mong ước và không được lãnh phần trách nhiệm trong cuộc phát triển kinh tế và
xã hội trong cộng đồng. việc chiếu cố lo lắng cho những người thất nghiệp,
nghĩa là làm tròn bổn phận bảo đảm những món tiền phụ cấp cần thiết cho họ và
gia đình tạm sống, là một nhiệm vụ căn cứ trên nguyên tắc căn bản của nền trật
tự đạo đức trong lãnh vực này, tức là nguyên tắc cùng chung sử dụng các của cải
lợi ích, hoặc nói một cách đơn giản hơn, quyền sống và tồn tại của con người.
Để đối phó với nạn
thất nghiệp và đảm bảo công ăn việc làm cho mỗi người, các thẩm quyền trong vấn
đề này tức là giới chủ thuê gián tiếp - phải đề ra một kế hoạch toàn bộ thích
hợp với công trường lao động nhiều loại này là nơi hình thành đời sống không những
kinh tế và cả văn hóa của một xã hội nhất định; ngoài ra các thẩm quyền ấy còn
phải lưu tâm sao cho công trường này được tổ chức một cách thích đáng và hợp
lý. Nỗi lo âu tổng quát này cũng đè nặng trên vai Nhà Nước, nhưng như thế không
có nghĩa là phải có một chế độ tập trung một chiều hoàn toàn do chính quyền
liệu lý. Trái lại, đây phải là một công tác phối hợp công bằng và hợp lý trong
một khung cảnh khả dĩ bảo đảm được sáng kiến của con người, của các nhóm tự do,
các trung tâm và toàn bộ lao động địa phương được đảm bảo, bằng cách chú trọng
đến những điều đã được trình bày ở trên vì tính chất chủ thể của lao động con
người.
Việc các xã hội và các
quốc gia phải lệ thuộc lẫn nhau và sự cần thiết phải cộng tác trong nhiều lãnh
vực đã đưa đến một nhận định này là: mặc dù vẫn phải bảo vệ quyền tối thượng
của mỗi nước về phương diện kế hoạch hóa và quyền tổ chức lao động tại mỗi xã
hội, người ta vẫn phải nghĩ đến việc hành động trong tinh thần hợp tác quốc tế
trong lãnh vực quan trọng này, và ký kết với nhau những hiệp ước hay thỏa hiệp
quốc tế. Chính trong công việc đó, vấn đề lao động của con người ngày càng phải
trở thành tiêu chuẩn của các hiệp ước và thỏa hiệp đó, và lao động của con
người phải được coi như quyền căn bản của tất cả mọi người, thứ lao động mang
lại cho tất cả những quyền lợi tương tự, để cho mức sống của người lao động tại
các xã hội ngày càng đỡ chênh lệch quá đáng khiến cho tình trạng bất công ngang
ngược có thể gây ra những phản ứng quá mạnh mẽ. Các tổ chức quốc tế có những
nhiệm vụ vô cùng lớn lao trong lãnh vực này, và cần phải dựa vào một sự ước
tính chính xác về sự phức tạp của tình hình cũng như những điều kiện thiên
nhiên, lịch sử, xã hội .v.v... Đối với những chương trình hành động cùng chung
nhau thiết lập ra, họ cần tiến hành tốt hơn, nghĩa là làm sao cho có hiệu quả
thực nghiệm hơn.
Chúng ta có thể theo
chiều hướng đó để vận động cho một kế hoạch xúc tiến đẩy mạnh đà tiến bộ hòa
hợp toàn thể cho hết mọi người, đúng theo tinh thần Thông điệp Populorum progressio của Đức Phaolô VI.
Chúng ta cần nhấn mạnh rằng: yếu tố cấu thành và đồng thời cách chứng nghiệm
đầy đủ nhất sự tiến bộ này trong tinh thần công lý và hòa bình mà Giáo Hội cổ
võ và không ngừng cầu xin Cha chung của mọi người và mọi dân tộc ban cho, chính
là việc liên tục định giá về lao động con người về khía cạnh cứu cách khách
quan cũng như về khía cạnh phẩm cách của chủ thể của tất cả mọi lao động, tức
là con người. Sự tiến bộ nói trên được thực hiện do con người và cho con người,
và nó phải tạo được những kết quả nơi con người. Một cách để chứng nghiệm sự
tiến bộ ấy là việc nhận thức ngày một rõ ràng hơn về cứu cánh của lao động và
sự tôn trọng ngày càng tiến bộ hơn đối với các quyền lợi gắn liền lao động,
xứng hợp với phẩm cách con người và chủ thể lao động.
Một chương trình kế
hoạch hợp lý và một tổ chức lao động con người tương xứng thích hợp với các xã
hội và các quốc gia cũng đủ khả năng giúp chúng ta khám phá ra những sự phân
phối tương xứng giữa các loại hoạt động như: lao động nông nghiệp, lao động kỹ
nghệ, các dịch vụ, lao động trí óc như lao động khoa học và nghệ thuật tùy theo
khả năng của mỗi người để có ích lợi chung cho xã hội và cho cả nhân loại. Đối
với việc tổ chức đời sống con người tùy theo khả năng của lao động, cần phải có
một hệ thống giáo dục thích hợp, cố nhằm mục đích phát triển nhân tính và giúp
nó trưởng thành, nhưng đồng thời cũng phải huấn luyện đặc biệt cho mỗi người
tùy lợi ích của mình giữ được một chỗ làm việc trong công trường lao động rộng
lớn và cũng rất khác biệt về mặt xã hội.
Khi để ý ngắm nhìn
toàn bộ gia đình nhân loại sống rải rác trên khắp trái đất, người ta không thể
không thấy một sự kiện kỳ lạ có sự tỷ lệ lớn lao: trong khi một đàng có những
tài nguyên thiên nhiên quan trọng chưa được khai thác hết, thì đàng khác vẫn có
từng đoàn người thất nghiệp, những người không được sử dụng đúng mức trong lao
động và biết bao người đói khổ. Sự kiện đó chứng tỏ một cách rõ ràng rằng:
trong nội bộ của mỗi cộng đồng chính trị cũng như trong các mỗi quan hệ giữa
các cộng đồng ấy trên bình diện đại lục hay thế giới đối với tất cả những gì
liên quan đến việc tổ chức lao động và vấn đề kiếm việc làm- có một giá trị
không ổn, nhất là về những điểm gay cấn nhất, quan trọng nhất về phương diện xã
hội .
19. Lương bổng và các chiếu cố xã hội
Sau khi trình bày đại
cương vai trò quan trọng của vấn đề tìm kiếm việc làm cho các người lao động để
giữ lòng tôn trọng các quyền lợi bất khả phân ly của con người đối với lao
động, chúng ta nên đề cập trực tiếp đến những quyền lợi cuối cùng được hình
thành trong tương quan giữa người lao động và chủ thuê trực tiếp tất cả những
gì đã được trình bày trên đây về chủ thuê gián tiếp đều có mục đích để làm sáng
tỏ những mối tương quan này nhờ sự hiện diện của nhiều dữ kiện trong đó các mối
tương quan ấy được hình thành một cách gián tiếp. Tuy nhiên sự trình bày nói
trên không phải chỉ có giá trị suông; nó không phải là một bản tóm lược về kinh
tế hay chính trị; chúng ta chỉ muốn nhờ đó để làm nổi bật khía cạnh thuộc nghĩa
vụ và đạo đức. Trong việc này, vấn đề chủ chốt của nền đạo đức xã hội là trả
lương xứng đáng cho một công việc đã được thực hiện. Trong cục diện ngày nay,
không có cách nào quan trọng hơn nữa để thực hiện sự công bằng trong các mối
quan hệ giữa người - lao động và chủ thuê cho bằng việc trả lương cho lao động.
Bất cứ lao động được thực hiện trong một chế độ của quyền tư hữu và các phương
tiện sản xuất hay trong chế độ quyền sở hữu đã được “xã hội hóa” ít hay nhiều ,
mối quan hệ giữa chủ thuê (trước nhất là trực tiếp) và người lao động đều được
giải quyết trên căn bản đồng lương, nghĩa là bằng cách trả lương xứng đáng cho
một công việc đã được thực hiện.
Ta cũng phải lưu ý một
điều là tựu chung người ta đánh giá sự công bằng của một hệ thống xã hội kinh
tế, và hoạt cộng vận hành của nó, bằng cách quan sát xem lao động của con người
trong hệ thống đó được trả công có xứng đáng hay không. Về điểm này, chúng ta
lại chạm trán với nguyên tắc thứ nhất của tất cả mọi chế độ trật tự đạo đức xã
hội, nghĩa là với nguyên tắc cùng chung sử dụng các của cải. Trong bất cứ hệ
thống nào, và dù các quan hệ căn bản giữa tư bản và lao động ra sao, thì đồng
lương, nghĩa là việc trả lương cho lao động vẫn là đường lối của đại đa số loài
người phải sử dụng để được hưởng một cách cụ thể những của cải dành cho việc sử
dụng chung, kể cả của cải thiên nhiên hay của cải do sản xuất tạo ra. Người lao
động có thể với tới cả hai của cải đó nhờ đồng lương mà họ được hưởng coi như
công xá trả nợ cho công việc của họ. Xuất phát từ đó, ta có thể nói: trong mỗi
trường hợp, đồng lương xứng đáng là một chứng nghiệm cụ thể của sự công bằng.
Lẽ tất nhiên đây không phải là cách chứng nghiệm duy nhất, nhưng đây là cách
chứng nghiệm quan trọng và có thể nói là chủ chốt.
Cách chính nghiệm này
nhắm trước nhất vào gia đình. Một đồng lương xứng đáng cho việc làm của người
trưởng thành có trách nhiệm đối với gia đình là một thứ lương bổng đủ để thành
lập và đủ để nuôi sống một cách xứng đáng gia đình họ và bảo đảm được tương lai
cho gia đình ấy. Việc trả công cho người lao động có thể thực hiện hoặc bằng phương
pháp gọi là lương bổng gia cảnh, nghĩa là một số lương duy nhất trả cho người
chủ gia đình có công lao động, đủ cho nhu cầu gia đình họ mà không buộc người
vợ phải làm thêm một công việc nào ngoài gia đình để kiếm thêm tiền; hoặc bằng
những biện pháp xã hội khác, như phụ cấp gia đình hay phụ cấp cho người mẹ
trong gia đình, những phụ cấp tương xứng với số những thân nhân phải nuôi bao
lâu họ chưa đủ khả năng mưu sinh một cách xứng đáng cho chính họ.
Kinh nghiệm cho thấy,
chúng ta cần phải cố gắng tìm cách mang lại giá trị xã hội cho các nhiệm vụ của
người mẹ, cho công sức khó nhọc phải dành cho các nhiệm vụ đó, cho nhu cầu đòi
hỏi của con cái, cho tình thương, thân ái để chúng có thể trở nên những người
có tinh thần trách nhiệm, trưởng thành về mặt tinh thần và đạo đức, và quân
bình về tâm lý. Xã hội phải coi là vinh hạnh được bảo đảm cho người mẹ - bảo
đảm nhưng không cản trở quyền tự do, không kỳ thị tâm lý hay thực hành, không
để người mẹ bị thua thiệt so với các người phụ nữ khác - bảo đảm cho họ có thể
dạy dỗ con cái, chăm lo giáo dục chúng tùy theo nhu cầu của từng lứa tuổi. Nếu
để người mẹ phải bỏ công việc đó để tìm việc làm ngoài gia đình hầu kiếm thêm
tiền, thì đó là một điều bất công xét về phương diện lợi ích xã hội của gia
đình, khi công việc đó mâu thuẫn làm cản trở những mục đích đầu tiên của nhiệm
vụ làm mẹ.
Trong nội dung vấn đề
này, ta cần nhấn mạnh rằng: nói chung, phải tìm cách tổ chức và thích nghi tất
cả tiến trình lao động để thỏa mãn được các nhu cầu đòi hỏi của con người và
tôn trọng các hình thức đời sống của họ, trước hết là đời sống gia đình tùy
theo lứa tuổi và tùy theo phái nam hay phái nữ. Một dự kiện cần chú ý là trong
rất nhiều xã hội, người phụ nữ làm việc trong ở hầu hết mọi địa hạt của đời
sống. Tuy nhiên, chúng ta nên thu xếp sao cho họ có thể thực hiện công tác hợp
với tính chất riêng của họ, nhưng phải biết tôn trọng những nguyện vọng có tính
cách gia đình và vai trò đặc thù của họ bên cạnh người đàn ông trong việc xây
dựng lợi ích chung của xã hội. Sự thăng tiến đích thực của người phụ nữ đòi hỏi
lao động phải được tổ chức thế nào để họ có thể thăng tiến mà không buộc phải
từ bỏ đặc tính riêng hoặc gây tai hại cho gia đình; là nơi mà vai trò làm mẹ
của họ không thể thay thế.
Bên cạnh đồng lương, ở
đây còn có nhiều ứng khoản xã hội khác có mục đích đảm bảo đời sống và sức khỏe
cho người lao động và gia đình. Trước những phí tổn để bảo vệ sức khỏe, nhất là
trong trường hợp tai nạn lao động, người lao động cần được dễ dàng trong việc
hưởng sự chăm sóc về y tế với một giá rẻ và nếu có thể không phải mất tiền. Một
lãnh vực chiếu cố khác là quyền được nghỉ ngơi: trước hết là việc nghỉ hàng
tuần một cách đều đặn, gồm ít ra là ngày chủ nhật và ngoài ra, một sự nghỉ ngơi
dài hơn thường được gọi là phép năm, hoặc chia ra làm nhiều kỳ nghỉ ngắn trong
một năm. Cuối cùng là quyền hưởng hưu trí, được đảm bảo tuổi già và bảo hiểm
tai nạn. Trong lãnh vực những quyền lợi chính này; có cả một hệ thống các quyền
lợi riêng biệt cùng với lương bổng, chúng là dấu hiệu của một thứ quan hệ công
bằng giữa người lao động và chủ thuê. Trong số các quyền lợi ấy, không bao giờ
quên quyền được hưởng những địa điểm và những phương pháp lao động không tác
hại cho sức khỏe thể xác và không xúc phạm đến tính chất thanh toàn đạo đức của
họ.
20. Sự quan trọng của các nghiệp đoàn
Căn cứ vào tất cả các
quyền trên đây và cũng vì người lao động phải có đủ sức bảo vệ các quyền đó, ta
thấy xuất hiện một thứ quyền lợi khác: quyền hội đoàn, nghĩa là quyền được liên
kết, hiệp hội để bảo vệ các quyền lợi sinh tử của những người làm việc trong
các ngành nghề khác nhau. Các hiệp hội ấy được gọi là nghiệp đoàn. Cho tới một
mức độ nào đó, các quyền lợi sinh tử của những người lao động đều chung như
nhau; thế nhưng đồng thời, mỗi thứ lao động mỗi nghề nghiệp lại có đặc tính
riêng, phản ánh cách riêng biệt khác nhau trong các tổ chức ấy.
Có thể nói các nghiệp
đoàn xuất xứ từ những phường, vạn thợ thuyền thời trung cổ ở chỗ các tổ chức ấy
tập họp những người cùng chung một nghề, nghĩa là sự hợp hội căn cứ vào nghề
nghiệp. Nhưng nghiệp đoàn khác các phường, vạn ở điểm: các nghiệp đoàn ngày nay
phát triển nhờ sự tranh đấu của thợ thuyền, của giới lao động, và nhất là của
các người lao động trong ngành kỹ nghệ để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của
họ chống lại những nhà thầu và giới chủ nhân các phương tiện sản xuất. Nhiệm vụ
của nghiệp đoàn là bảo vệ những quyền lợi sinh tồn của người lao động trong tất
cả mọi lãnh vực có dính dáng đến quyền lợi của họ. Kinh nghiệm lịch sử cho
biết, các tổ chức thuộc loại này là một nhân tố cần thiết của đời sống xã hội,
nhất là trong các xã hội kỹ nghệ tân tiến. Lẽ dĩ nhiên điều đó không có nghĩa
là chỉ có các thợ thuyền ngành kỹ nghệ mới có thể thành lập những nghiệp đoàn
kiểu như vậy. Vì trong thực tế, chúng ta thấy có cả những nghiệp đoàn nông dân
và nghiệp đoàn trí thức, và cũng có những nghiệp đoàn của chủ nhân. các nghiệp
đoàn lại phân chia thành những chi, nhóm nhỏ căn cứ theo các chuyên môn trong
nghề.
Theo giáo lý xã hội
của công giáo, nghiệp đoàn không chỉ là phản ánh của một cơ cấu “giai cấp” xã
hội và không phải là những phát ngôn nhân của một cuộc đấu tranh giai cấp có
chủ trương phải tất yếu nắm quyền chi phối đời sống xã hội. Chắc chắn nghiệp
đoàn là những phát ngôn nhân của một cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội, cho
các quyền lợi chính đáng của người lao động tùy theo nghề nghiệp khác nhau của
họ. Tuy nhiên, cuộc “tranh đấu” ấy
phải được hiểu như là một sự dấn thân thông thường “với mục đích” đạt tới một lợi ích chính đáng, và ở đây là sự lợi
ích tương ứng với các nhu cầu và công lao của những người lao động hợp hội lại
với nhau theo nghề của mình; nhưng nó không phải là “một cuộc đấu tranh chống
lại” những người khác. Nếu trong những vấn đề bị tranh chấp, nó mang tính chất
của một sự đối lập lẫn nhau, thì đó chỉ là một cuộc đi tìm lợi ích tức là sự
công bằng xã hội chứ không phải là đấu tranh để tranh đấu hay là việc tìm cách
diệt trừ lẫn nhau. Đặc điểm của lao động trước hết là việc kết hợp loài người
và sức mạnh xã hội của nó ở chính điểm đó: sức mạnh xây dựng một cộng đồng. Vì
cuối cùng, chính trong cộng đồng ấy, các người lao động và những người làm chủ
các phương tiện sản xuất phải tìm cách kết hợp với nhau cách này hay cách khác.
Dưới ánh sáng của cơ cấu tổ chức căn bản của tất cả mọi thứ lao động-ánh sáng
chiếu soi làm nổi bật sự kiện: “lao động”
và “tư bản”, xét cho cùng là những
lực hợp thành cần thiết của sản xuất trong bất kỳ một hệ thống xã hội nào,
chúng ta thấy sự loài người kết hợp với nhau để bảo vệ các quyền lợi của mình,
sự kết hợp phát xuất ngay từ các đòi hỏi của lao động, vẫn luôn luôn là một yếu
tố tạo thành nền trật tự xã hội và nghĩa hợp quần, một yếu tố không sao có thể
bỏ qua được.
Những cố gắng chính
đáng để bảo vệ quyền lợi của các người lao động hợp hội trong cùng một nghề
nghiệp, cần luôn luôn để ý đến những hạn chế do tình trạng kinh tế chung trong
nước gây ra. Những đòi hỏi của nghiệp đoàn không thể trở thành một thứ thái độ
ích kỷ của phe nhóm hay giai cấp, mặc dù nó cũng phải nhắm tới việc sửa chữa
tất cả những gì khiếm khuyết trong hệ thống sở hữu các phương tiện sản xuất
hoặc trong cách quản trị và sử dụng các phương tiện ấy vì lợi ích chung của
toàn thể xã hội. Đời sống xã hội và kinh tế xã hội đúng là một hệ thống “bình
thông đáy” và mỗi hoạt động xã hội có mục đích bảo vệ quyền lợi của các nhóm
riêng biệt đều phải thích ứng theo.
Theo nghĩa đó, hoạt
động của các nghiệp đoàn tất nhiên nằm trong lãnh vực của chính trị, được hiểu
như là việc khôn ngoan lo lắng đến ích chung. Thế nhưng, cùng lúc ấy vai trò
của các nghiệp đoàn không phải là để làm chính trị theo nghĩa ngày nay người ta
thường hiểu. Các nghiệp đoàn không có tính chất đảng chính trị tranh đấu giành
lấy chính quyền, và chúng cũng không bao giờ nên tùng phục các quyết định của
các chính đảng hoặc liên hệ quá chặt chẽ với họ. Thật vậy, nếu các nghiệp đoàn
hoạt động như thế, chúng sẽ dễ mất sự liên lạc tiếp xúc với vai trò riêng của
chúng, tức là vai trò bảo vệ các quyền lợi chính đáng của người lao động trong
khung cảnh lợi ích chung của cả xã hội, và trái lại sẽ trở thành một dụng cụ để
thực hiện các mục đích khác.
Khi nói đến việc bảo
vệ các quyền lợi chính đáng của người lao động theo nghề nghiệp của họ,lẽ đương
nhiên phải luôn để ý nhiều hơn đến những gì mà tính chất chủ quan của lao động
lệ thuộc vào tùy theo mỗi nghề nghiệp, và đồng thời, hoặc hết sức phải lưu tâm
đến những gì ảnh hưởng tới phẩm cách riêng của chủ thể đang lao động. Về điểm
này, hoạt động của các nghiệp đoàn có rất nhiều khả năng, kể cả khả năng dấn
thân hoạt động cho nền học vấn, giáo dục và cổ võ cho việc tự giáo dục. Hoạt
động của nhà trường, của cái người ta gọi là “đại học thợ thuyền” hoặc “đại
học bình dân”, của các trương trình và các khóa huấn luyện đã và đang giúp
phát triển loại hoạt động ấy, thật rất đáng biểu dương. Chúng ta phải luôn luôn
mong ước rằng nhờ hoạt động của các nghiệp đoàn, không những người lao động có
thể “có” nhiều hơn, nghĩa là có thể
hiện diện trọn vẹn nhân tính của mình hơn, dưới mọi hình thái của nó.
Trong việc bảo vệ các
quyền lợi chính đáng của người lao động, các nghiệp đoàn cũng sử dụng phương
pháp đình công, nghĩa là ngưng việc lao động, coi như một tối hậu thư gởi cho
các cơ chế thẩm quyền và trước hết cho các chủ thuê. Đó là một phương pháp mà
giáo lý xã hội của Công giáo công nhận là hợp pháp, với một số điều kiện và
trong những hạn định chính đáng, quyền đình công phải được bảo đảm cho các
người lao động và cá nhân họ không thể bị trừng phạt vì đã tham gia vào hoạt
động ấy. Đây là một phương phát chính đáng và hợp pháp, nhưng người ta cũng
phải nhấn mạnh rằng nó vẫn chỉ là một hạ sách. Người ta không nên lạm dụng
quyền đình công, và đặc biệt là không nên lạm dụng để nó trở thành lá bài chính
trị. Ngoài ra, ta đừng bao giờ quên rằng, đối với những dịch vụ cốt yếu cho đời
sống của xã hội, ta phải luôn luôn đảm bảo và nếu cần, phải sử dụng cả những
biện pháp tương xứng. Sự lạm dụng quyền đình công có thể làm tê liệt tất cả đời
sống xã hội kinh tế, và như thế là ngược với những đòi hỏi của công ích xã hội,
mà công ích xã hội lại là điều đối ứng với chính bản chất - một bản chất được
hiểu đúng nghĩa - của chính lao động.
21. Phẩm cách của lao động nông nghiệp
Tất cả những gì đã nói
trên đây về phẩm cách của lao động, về tầm vóc khách quan và chủ quan của lao
động con người, cũng áp dụng trực tiếp cho vấn đề lao động nông nghiệp và cho
tình trạng hoàn cảnh của người vất vả với công việc ruộng vườn. Quả vậy, đây là
một vấn đề rộng lớn của một trường lao động trên trái đất của chúng ta, một
lãnh vực không phải hạn chế ở đại lục này hay đại lục khác, cũng không phải hạn
chế cho riêng những xã hội đã đạt tới một trình độ nào đó trong sự phát triển
và tiến bộ. Thế giới nông nghiệp, một thế giới cung ứng cho xã hội những nhu
cầu lương thực cần thiết hàng ngày, có một tầm mức quan trọng cơ bản. Các điều
kiện của đời sống nông thôn và của lao động nông nghiệp ở các nơi không đồng
đều và hoàn cảnh xã hội của các người lao động nông nghiệp mỗi nước một khác.
Việc đó không chỉ lệ thuộc vào mức độ phát triển kỹ thuật nông nghiệp mà còn lệ
thuộc, có lẽ rất nhiều, vào sự có công nhận hay không các quyền lợi chính đáng
của người lao động nông nghiệp, và cuối cùng vào mức độ ý thức trong toàn thể
nền đạo đức xã hội và lao động.
Công việc đồng áng gặp
những khó khăn lớn như việc phải vận dụng sức lực thể xác lâu giờ và cực nhọc,
việc xã hội thường coi nhẹ giá trị của người nông dân khiến họ có cảm giác mình
là con ghẻ của xã hội và thúc đẩy rất đông nông dân bỏ đồng ruộng lên thành
thị, và do đó lâm vào tình trạng mất nhân cách hơn nữa trong đời sống. Đó là
chưa kể tình trạng thiếu huấn luyện nghề nghiệp cho đầy đủ, thiếu nông cụ thích
ứng, một thứ tinh thần cá nhân chủ nghĩa ngấm ngầm và cả những hoàn cảnh khách
quan bất công nữa. Tại một số quốc gia đang phát triển, hàng triệu người buộc
phải canh tác trên đất đai của những người khác và bị các đại điền chủ bóc lột,
không hy vọng gì trong tương lai có được một mảnh đất riêng cho mình. Cá nhân
và gia đình người lao động nông nghiệp không được hưởng một hình thức pháp luật
nào bảo vệ khi già yếu, bệnh tật hay thất nghiệp. Họ phải làm việc lam lũ cực
nhọc qua những ngày tháng dài mà tiền công lại rẻ mạt. Nhiều đất canh tác bị
các chủ điền bỏ hoang, quyền sở hữu hợp pháp của một vài mảnh đất nhỏ xíu, tự
lo lắng canh tác trong bao nhiêu đời, thường bị cướp đoạt ngang xương trước
lòng tham không đáy “ham mở rộng đất canh tác” của những cá nhân hay những nhóm
người quyền thế hơn. Ngay cả ở những nước kinh tế phát triển, là nơi các nghiên
cứu khoa học, các khám phá về kỹ thuật, hoặc chính sách của nhà nước đã đưa
nông đân đến một mức độ phát triển rất cao, quyền lao động vẫn bị vi phạm khi
người ta không cho người nông dân được quyền tham dự vào việc lựa chọn phần
công tác lao động của mình hoặc quyền được tự do họp hội để xây dựng một cách
chính đáng việc thăng tiến xã hội, văn hóa và kinh tế của người lao động nông
nghiệp.
Vì thế trong nhiều
trường hợp và hoàn cảnh, cần phải cấp tốc có những thay đổi tận gốc rễ nền nông
nghiệp và người lao động lấy lại được giá trị xác đáng, coi như nền tảng một
nền kinh tế lành mạnh trong toàn bộ sự phát triển của cộng đồng xã hội. Do đó,
ta phải xác nhận và tuyên dương cổ võ phẩm cách của sự lao động, của tất cả mọi
thứ lao động, đặc biệt là lao động nông nghiệp là thứ lao động giúp cho con
người “chế ngự” một cách thật hùng
hồn trái đất là thứ Thiên Chúa đã trao tặng cho và củng cố “quyền ngự trị” của họ trên thế giới hữu hình.
22. Người khuyết tật và lao động
Trong những năm gần
đây, các cộng đồng quốc gia và các tổ chức quốc tế đã để ý lưu tâm tới một vấn
đề gắn liền với lao động, và có nhiều hậu quả: vấn đề những người khuyết tật.
Họ cũng là những chủ thể có đầy đủ nhân tính và với danh nghĩa đó, họ có những
quyền thiên phú bất khả xâm phạm. Mặc dầu thân xác họ có những phần bị hạn chế
và đau khổ hằn trên thân mình và năng lực, những quyền đó càng làm nổi bật phẩm
cách và sự cao quí của con người. Vì người khuyết tật là một chủ thể đầy đủ có
quyền lợi nên chúng ta có nhiệm vụ phải dành mọi sự dễ dàng để họ có thể tham
gia vào đời sống xã hội trên mọi khía cạnh, mọi bình diện mà khả năng cho phép
họ tham dự. Người khuyết tật là một người trong chúng ta và thông phần đầy đủ
vào nhân tính của chúng ta. Thật là một điều hết sức bất xứng đối với con
người. Và là một lời phủ nhận nhân tính chung nếu chúng ta chỉ chấp nhận cho
vào đời sống xã hội và lao động những thành phần còn giữ được đầy đủ các phương
tiện khả năng. Làm như thế, chúng ta sẽ lại rơi vào một hình thức kỳ thị lớn,
kỳ thị giữa những người khỏe và lành mạnh với những người yếu đuối bệnh tật.
Ngay trong trường hợp này, lao động theo nghĩa khách quan phải lệ thuộc vào con
người, vào chủ thể của nó chứ không vào mối lợi về kinh tế.
Vì thế bổn phận của
các thẩm quyền hữu trách trong thế giới lao động, của chủ thuê trực tiếp cũng
như chủ thuê gián tiếp là phải dùng những biện pháp hiệu nghiệm và thích ứng để
những người khuyết tật sử dụng được quyền của mình bằng cách được huấn luyện về
nghề nghiệp để có thể lao động và có được chỗ đứng trong hoạt động sản xuất mà
họ có thể đóng góp vào được. Tại đây nhiều vấn đề có tính chất thực hành, pháp
chế và kinh tế được đặt ra; nhưng nhiệm vụ của cộng đồng, nghĩa là của các nhà
cầm quyền, các hiệp hội và các nhóm trung gian, các xí nghiệp và chính những
người khuyết tật là phải góp ý kiến và của cải để đạt tới mục tiêu mà mọi người
phải tiến tới, nói cách khác, để những người khuyết tật có được một việc làm
tùy theo khả năng, lý do vì phẩm cách con người và chủ thể lao động của họ đòi
hỏi như thế. Mỗi cộng đồng cần thiết lập những cơ cấu thích nghi để tìm kiếm và
tạo cơ sở làm việc cho những người đó, hoặc trong các xí nghiệp công, tư với
một công việc thường lệ hay thích nghi với hoàn cảnh của họ, hoặc trong các xí
nghiệp và môi trường được “bảo trợ”.
Cũng như đối với các
người lao động, ta phải hết sức chú tâm đến các điều kiện lao động thể xác và
tâm lý của người khuyết tật, đến việc trả lương xứng đáng cho họ, đến khả năng
thăng tiến của họ cũng như đến các trở ngại cần phải san bằng. ta không tự dối
mình và ta công nhận đây là một công việc phức tạp và khó khăn, nhưng ta hy
vọng rằng một quan niệm xác đáng về lao động theo nghĩa chủ quan có thể dẫn tới
một tình trạng tốt đẹp, trong đó người khuyết tật có thể cảm thấy mình không
phải ở bên ngoài lề thế giới lao động hoặc phải lệ thuộc vào xã hội, mà là một
chủ thể lao động có đầy đủ quyền và hữu ích; phẩm cách con người của mình được
tôn trọng, được kêu gọi góp sức vào công cuộc tiến bộ,làm ích cho gia đình và
cho cộng đồng theo khả năng của mình.
23. Lao động và vấn đề di trú
Cuối cùng, ít ra chúng
ta cũng phải có đôi lời nói về vấn đề di trú để tìm việc làm. Đây là một hiện
tượng xưa cũ nhưng vẫn tái diễn không ngừng và hơn thế nữa ngày nay vẫn tiếp
tục với một mức độ gây ra nhiều phức tạp cho đời sống hiện thời. Con người có
quyền lìa bỏ nguyên quán vì những lý do khác nhau - cũng như có quyền trở về
nguyên quán - để có được những hoàn cảnh sống tốt hơn ở một xứ khác. Lẽ tất
nhiên là sự kiện này không phải là không phải là không gặp những khó khăn khác
nhau. Trước hết, đó là một sự mất mát đối với xứ sở mà người ta lìa bỏ. Đó là
sự ra đi của một người, cũng là thành viên của một cộng đồng lớn được kết hợp
với nhau bằng một dòng lịch sử, một truyền thống, một nền văn hóa chung, để đến
lập lại cuộc đời ở giữa một xã hội khác được kết hợp với nhau bằng một nền văn
hóa khác và thường thường cũng bằng một ngôn ngữ khác. Trong trường hợp này,
thế là mất đi một chủ thể lao động là người đáng lẽ sẽ dùng nỗ lực của tư tưởng
và bàn tay của mình để góp công tăng gia lợi ích trong xứ sở mình; và bây giờ
nỗ lực và sự đóng góp ấy và được mang đến cho một xã hội khác có thể nói là
không có quyền hưởng bằng quê hương bản quán.
Thế nhưng, mặc dầu
việc di trú, dưới một và khía cạnh, là một tai họa, song tai hại này, trong
những hoàn cảnh nhất định, lại là một tai hại cần thiết. Chúng ta phải làm đủ
mọi cách và quả thật người ta đang làm rất nhiều trong lãnh vực trên - để tai
hại này (hiểu theo ý nghĩa vật chất) không mang lại những gì tai hại tinh thần
nặng nề quan trọng hơn, mà trái lại còn có thể mang phần nào lợi ích trong đời
sống cá nhân, gia đình và xã hội của người di trú, cho xứ sở họ tới cũng như
cho xứ sở mà họ bỏ ra đi. Về lãnh vực này rất nhiều việc phải tùy thuộc vào một
nền luật pháp công bằng, đặc biệt là trong địa hạt các quyền lợi của người lao
động. Chúng ta hiểu rằng vấn đề này phải được đặt trong nội dung các điều đang
được bàn luận ở đây, nhất là về phương diện này.
Điều quan trọng nhất
là phải làm sao cho những người lao động ở nước ngoài với tư cách những người
di trú thường trực hoặc những người lao động từng mùa (tạm thời) không bị thiệt
thòi trong lãnh vực quyền lợi lao động so với các người lao động khác của xã
hội này. Không thể để cho việc di trú vì lý do tìm việc làm trở thành một cơ
hội cho người ta khai thác về tài chánh hoặc xã hội dưới bất cứ hình thức nào.
tương quan lao động đối với người lao động di trú cần được xây dựng trên cùng
những tiêu chuẩn như đối với các người lao động khác của xã hội đó. Giá trị của
lao động cần được ước lượng bằng cùng một hệ thống đo lường chứ không thể căn
cứ vào sự khác biệt về quốc tịch, tôn giáo hay chủng tộc, phương chi càng không
nên khai thác hoàn cảnh bó buộc của những người di trú. Tất cả những hoàn cảnh
đó đều phải lùi bước - lẽ tất nhiên sau khi đã cân nhắc các phẩm chất riêng -
trước giá trị căn bản của lao động, thứ giá trị gắn liền với phẩm chất của con
người. Chúng ta cần nhắc lại một lần nữa nguyên tắc căn bản: hệ thống các giá
trị, ý nghĩa sâu xa của lao động đòi hỏi tư bản phải phục vụ cho lao động chứ
không thể để lao động phục vụ cho tư bản.
V. NHỮNG YẾU TỐ ỨNG DỤNG CHO MỘT NỀN ĐẠO ĐỨC CỦA LAO ĐỘNG.
24. Vai trò đặc biệt của Giáo Hội.
Trong đề tài nói về
lao động nhân dịp kỷ niệm 90 năm ban hành thông điệp Rerum novarum, chúng tôi muốn dành phầm cảm nghĩ cuối cùng để trình
bày về nền đạo đức của lao động theo ý nghĩa Kitô giáo. Căn cứ vào việc: Lao
động xét theo kích thước chủ quan của nó, luôn luôn là một hành động thuộc nhân
vị - actus
personnae
- ta có thể quả quyết rằng: Toàn thể con người , cả thể xác lẫn tinh thần, đều
tham dự vào lao động, dầu là lao động chân tay hay trí óc. Đồng thời chính vì
lợi ích cho toàn diện con người mà lời Thiên Chúa hằng sống và sứ điệp Tin mừng
cứu độ đã được ban đến cho họ, trong đó có nhiều lời giáo huấn như những ánh
sáng đặc biệt liên quan đến sự lao động của con người. Vì thế, chúng ta phải
thấu triệt những lời giáo huấn đó: cần phải vận dụng trí khôn dưới ánh sáng của
đức tin, cậy và mến để nhờ vào những lời giáo huấn này, làm cho lao động của
con người cụ thể mang được ý nghĩa mà nó phải có trước mặt Thiên Chúa, mà nhờ
đó trở thành một trong những yếu tố vừa thông thường vừa đặc biệt quan trọng
của công cuộc cứu độ.
Nếu Giáo Hội cho rằng
mình có nhiệm vụ phải xác định quan điểm về giá trị nhân bản của lao động, về
trật tự luân lý mà lao động có phần đóng góp vào; nếu Giáo Hội công nhân rằng
việc xác định quan điểm đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn bộ
sứ vụ truyền bá rao giảng Tin mừng, thì đồng thời Giáo Hội cũng nhận thấy mình
có bổn phận phải hình thành một nền đạo đức lao động khả dĩ giúp mọi người nhờ
đó tiến gần đến với Chúa, là Đấng Tạo thành, Đấng cứu chuộc, tham dự vào chương
trình cứu rỗi loài người và thế gian, đi sâu vào được đời sống thân hữu với Đức
Kitô bằng cách nhờ đức tin sống động thông phần với ba sứ vụ Linh mục, Tiên tri
và Vương giả của Ngài, đúng như công đồng Vaticanô II đã giáo huấn chúng ta bằng
những từ ngữ tuyệt vời.
25. Lao động xét trên phương diện là sự tham dự vào công việc
của Đấng Tạo thành.
Công đồng Vaticanô II
dạy rằng: “Đối với các tín hữu, chắc chắn
sinh hoạt cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, hoặc nỗ lực vĩ đại của con
người vất vả qua các thế kỷ nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống, tự nó, vốn phù
hợp với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, con người được tao dựng giống hình ảnh
Thiên Chúa, nên đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa
đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện, và khi nhìn nhận
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng mọi loài, họ qui hướng chính bản thân mình cũng như
vũ trụ về Ngài. Như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn
vinh khắp địa cầu (GS, 34).
Qua những lời Thiên
Chúa mạc khải, ta thấy ghi khắc sâu xa chân lý căn bản sau đây: Con người, được
tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, tham dự vào công việc của Đấng Tạo thành
bằng lao động của mình, và hiểu theo một ý nghĩa nào đó, cũng như tùy theo khả
năng của mình, họ tiếp tục phát triển và bổ túc công cuộc tạo thành bằng cách
luôn luôn tiến xa hơn nữa vào công cuộc khám phá những tài nguyên và những giá
trị tiềm tàng trong toàn bộ thế giới đã được tạo dựng.
Chúng ta tìm thấy chân
lý đó ngay từ những dòng đầu tiên của Kinh thánh, trong sách Sáng thế: Ở đây,
công cuộc tạo thành được trình bày dưới hình tức một “công việc” của Thiên Chúa làm trong “sáu ngày” (St 2,2; Xh 20,8; Đnl 5,12-14), và kết thúc bằng việc “nghỉ ngơi” vào ngày thứ bảy (St 2,3).
Ngoài ra cuốn sách cuối cùng của bộ kinh thánh cũng vang lên những lời biểu lộ
sự tôn trọng công cuộc của Thiên Chúa khi Ngài “làm công việc” tạo dựng. Quả vậy sách khải huyền viết: “Lạy Thiên
Chúa toàn năng, công cuộc của ngài vĩ đại và lạ lùng” (Kh 15,3). Lời tung hô
này như một tiếng vang làm vọng lại lời tung hô chép trong sách sáng thế khi
việc miêu tả công cuộc tạo dựng của mỗi ngày đều được kết thúc bằng câu: “Và Thiên Chúa thấy rằng mọi sự đều tốt lành”
(St 1,4.10.12.18.21.15.31).
Việc diễn tả công cuộc
tạo dựng chúng ta được đọc trong đoạn thứ nhất của sách Sáng thế, có thể coi
như bản “tin mừng đầu tiên nói về lao
động”. Quả vậy, đoạn văn này chứng tỏ lao động quý trọng ở điểm nào; đoạn
văn này dạy rằng: con người phải dùng sự lao động của mình để bắt chước Thiên
Chúa là Đấng tạo thành mình, vì con người mang trong mình - và chỉ có con người
mới làm được như thế - một yếu tố riêng biệt làm cho họ nên giống ngài. Con
nười phải bắt chước Thiên Chúa khi làm việc cũng như khi nghỉ ngơi, vì chính
thiên chúa đã muốn trình bày công cuộc tạo dựng của ngài dưới hình thức lao
động và nghỉ ngơi. Đúng như Đức Kitô đã nói: “Cha thầy luôn luôn hành động...” (Ga 5,17), công việc của Thiên
Chúa trên trần gian vẫn luôn luôn tiếp diễn; với quyền năng tạo dựng của ngài,
Thiên Chúa hành động bằng cách trợ giúp trần gian hiện hữu sau khi ngài bởi
không mà dựng nên cho có; với quyền năng cứu độ của ngài, Thiên Chúa hành động
trong tâm hồn con người, những tạo vật mà ngay từ nguyên thủy, Ngài đã dự tính
cho được” nghỉ ngơi” (Dt 4,1.9-10),
hợp nhất với ngài “trong nhà của Cha” (Ga
14,2). Chính vì thế nên vấn đề lao động của con người không những chỉ nghỉ ngơi
mỗi ” ngày thứ bảy” (Đnl 5,12-14; Xh
10,8), mà ngoài ra không chỉ đòi phải vận dụng sức lực của con người trong hành
động bên ngoài, mà còn phải tạo ra được một tâm trạng bên trong khi con người
trở nên đúng với ý muốn của thiên chúa hơn, họ có thể chuẩn bị cho một sự “nghỉ
ngơi” mà Thiên Chúa dành cho các tôi tớ, bạn hữu Ngài (Mt 15,21).
Như Thánh Công Đồng đã
dạy: “Những hoạt động thường nhật nhất
của con người phải biểu lộ được ý thức rằng: lao động của họ là việc tham dự
vào công cuộc của Thiên Chúa. Bởi vì trong khi lao động để nuôi sống mình và
gia đình, đồng thời cũng để phục vụ cho xã hội, tất cả mọi người nam, nữ đều
phải nhận thức được rằng: “Lao động của họ là việc tiếp diễn công việc của Đấng
tạo Thành, là việc phục vụ cho anh em đồng loại, là sự đóng góp của cá nhân vào
việc thực hiện chương trình kế hoạch của Thiên Chúa đối với lịch sử”
(Vat.II GS. 34).
Vì thế nền đạo đức
Kitô giáo này về lao động phải trở thành một gia sản chung cho mọi người. Đặc
biệt trong thời đại hiện nay nền đạo đức lao động này chứng tỏ mức độ trưởng
thành cần thiết giữa lúc tình hình căng thẳng và trí khôn, tâm hồn mọi người
băn khoăn lo âu. “Người Kitô hữu không
những không coi các công trình do con người dùng tài năng và sức lực riêng để
thực hiện các chống đối quyền năng của Thiên Chúa không coi thụ tạo có lý trí
như một địch thủ của Tạo hóa, mà còn xác tín rằng các thắng lợi của nhân loại
là dấu hiệu biểu dương Thiên Chúa cao cả và là kết quả ý định khôn lường của
Ngài. Tuy nhiên, quyền lực con người càng gia tăng, trách nhiệm cá nhân hay tập
thể lại càng nới rộng. Do đó, chúng ta thấy sứ điệp Kitô giáo không làm cho con
người quên công cuộc xây dựng thế giới hoặc khiến họ không còn thiết tha đến
lợi ích của đồng loại, trái lại, còn làm cho họ cảm thấy đó là một nhiệm vụ cấp
bách hơn (Vat.II, GS, 34).
Chính ý thức được tham
gia vào công cuộc tạo dựng bằng lao động của mình trở thành động lực sâu xa
nhất thúc đẩy con người lao động trong các lĩnh vực. Hiến chế Lumen Gentium đã viết: Chính vì thế, tín hữu phải nhận biết bản
tính sâu xa của những giá trị của chúng, là ca tụng Thiên Chúa; đồng thời phải
giúp nhau sống đời sống thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm
nhuần Thần khí của Chúa Kitô và đạt tới cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong
công lý, bác ái và hòa bình...nhờ khả năng chuyên môn trong những việc trần
thế, nhờ các hoạt động của họ, các hoạt động được ân sủng Đức Kitô siêu nhiên
hóa, giáo dân hãy đem toàn lực hợp tác để nhờ lao động của con người, kỹ thuật
và văn hóa nhân loại khai thác những của cải được tạo dựng...theo ý định của
Đấng Tạo Hóa và sự soi sáng của Ngôi Lời Ngài (LG, 36).
26. Đức Kitô, con người của lao động
Con người dùng lao
động để tham gia vào chính công cuộc của Thiên Chúa, Đấng tạo thành mình. Đó là
một chân lý đã được Chúa Giêsu làm nổi bật cách đặc biệt, Đức Giêsu Kitô mà
những thính giả đầu tiên của Ngài ở Nazarét đã phải ngạc nhiên và bảo nhau: “Tại sao ông này lại được như vậy? Bởi đâu
ông ta được khôn ngoan như thế ?... chớ thì ông ta chẳng phải là người thợ mộc
hay sao?” (Mc 6,2-3). Quả vậy, Chúa Giêsu đã rao giảng và nhất là đã đem
thực hành “TIN
MỪNG”
được uỷ thác cho Ngài, thực hành những lời của Đấng Khôn Ngoan vĩnh cửu. Vì lý
do đó, đây quả thật là “TIN MỪNG CỦA LAO ĐỘNG”, vì người rao giảng Tin Mừng ấy chính là một
người lao động, một người thợ như ông Giuse quê thành Nazarét (Mt 13,55). Mặc
dầu qua những lời Chúa đã rao giảng, chúng ta không thấy câu nào nói thẳng lệnh
phải lao động - mà trái lại, có một lần, chúng ta còn thấy Chúa cấm không được
quá lo lắng làm ăn mưu sống (Mt 6,25-34) - nhưng cả cuộc đời của Chúa là một
chứng ngôn hùng biện không ai chối cãi được: Ngài thuộc về “thế giới lao động”;
Ngài ưa chuộng, tôn trọng sự lao động của con người. Hơn thế nữa, ta có thể
nói: Ngài âu yếm thiết tha lao động và các hình thức của lao động. Ngài nhận
thấy trong mỗi hình thức đó một phương cách để biểu lộ việc con người là hình
ảnh Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha.
Chính Ngài đã nói: “Cha Thầy là người trồng nho...” (Ga
15,1), và qua lời giáo huấn của Ngài, bằng nhiều phương cách, ta thấy toát lên
chân lý căn bản về vấn đề lao động, một chân lý đã được diễn tả trong tất cả
truyền thống của Cựu Ước, ngay từ sách Sáng Thế.
Trong các sách của Cựu
Ước, không thiếu gì đoạn nhắc nhở đến lao động cũng như các nghề nghiệp của con
người: Thầy thuốc (Hc 38,1-3), dược sĩ (Hc 3,4-8), thợ thuyền, nghệ nhân (Xh
31,1-5; Hc 38,27), thợ rèn (St 4,22; Is 44,12) - người ta có thể đem áp dụng
những lời trong Thánh Kinh liên quan đến lao động, vào việc làm của những người
thợ luyện thép ngày nay, người thợ gốm (Gr 18,3-4; Hc 38,29-30), người nông dân
(St 9,20; Is 5,1-2) nhà hiền triết khảo cứu Kinh thánh (Gv 12, 9 12; Hc
39,1-8), thủy thủ (Tv 107,23-30; Kn 14,2-3a), thợ nề (St 11,3; 2V 12,12-13;
22,5-6), nhạc sĩ (St 4,21), mục tử (St 4,2; 37,3; Xh 3,1; Is 16,11). Ngoài ra
người ta còn nhớ những lời tốt đẹp biểu dương lao động của người phụ nữ (Cn
31,15-27). Trong các dụ ngôn về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô luôn luôn nói
về lao động: dụ ngôn người mục tử (Ga 10,1-16), người nông dân (Mc 12,1-12),
thày thuốc (Lc 4,23), người gieo giống (Mc 4,1-9), chủ nhà (Mt 13,52), người
làm công(Mt: ; Lc 12,41-48), người quản gia (Lc 16,1-8), người đánh cá (Mt
13,47-50), người buôn bán (Mt 13,45-46) người thợ (Mt 20,1-16) . Chúa so sánh
công việc truyền giáo với công việc tay chân của thợ gặt (Mt 9,37; Ga 4,35-38);
hoặc của những ngư phủ (Mt 4,19). Chúa cũng dựa vào công việc của các thày ký
lục (Mt 13,52).
Lời giáo huấn của Đức
Kitô về lao động dựa trên mẫu gương đời sống của Ngài trong những năm sống ở
Nagiarét và còn để lại một âm vang rất mạnh mẽ trong lời giáo huấn của Thánh
Phaolô. Có thể Thánh Phaolô đã làm nghề may lều, vì Ngài đã tự hào dùng nghề
này để (Cv 18,3) vừa có thể làm việc tông đồ vừa có thể mưu sinh (Cv 20,34-35).
“Ngày đêm chúng tôi làm việc vất vả lam lũ, để không phải phiền toái đến ai
trong anh em” (2Tx 3,8). Xuất phát từ quan niệm đó, những lời giáo huấn của
Thánh Phaolô liên quan đến lao động có tính cách khuyên bảo và ra lệnh: “Đối với những người đó... chúng tôi nài
xin, căn dặn hãy âm thầm làm việc và ăn cơm của mình” (2Tx 3,12). Nhận thấy
có một số tín hữu thuộc cộng đoàn Thesssalônica “sống vô trật tự...không làm lụng gì cả” (2Tx 3,11), Thánh Phaolô
đã viết thư bảo: “Hễ ai không muốn làm
việc thì đừng có ăn” (2Tx 3,10). Trái lại trong một thư khác gởi cho Cộng
đoàn Côlôssê. thánh nhân lại khuyến khích rằng: “Dù anh em làm việc gì, thì hãy thật lòng thực thi như thể làm cho
Thiên Chúa chứ không phải làm cho loài người, vì biết rằng anh em sẽ được hưởng
phần gia tài Chúa thưởng cho” (Cl 3, 23-24).
Ta nhận thấy rõ lời
giáo huấn của vị Tông đồ dân ngoại có một tầm quan trọng đặc biệt đối với nền
luân lý và đạo đức của lao động. Nhưng lời giáo huấn đó là một bổ túc quan
trọng cho Tin mừng về lao động, một Tin mừng lớn lao tuy kín đáo mà chúng ta
tìm thấy trong đời sống của Đức Kitô, trong các dụ ngôn của Ngài, trong “Những gì Ngài đã làm và giảng dạy” (Cv
1,1).
Xuất phát từ ánh sáng
bắt nguồn mạch, Giáo Hội luôn luôn tuyên giảng một giáo lý mà ta thấy biểu lộ
dưới hình thức cận đại trong lời giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II: “Vì phát xuất từ con người nên sinh hoạt của
con người cũng quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không
những biến đổi sự vật và xã hội mà còn cải thiện chính mình. Họ học biết được
nhiều điều, phát triển tài năng cũng như thoát ra được và vượt khỏi chính mình.
Nếu được hiểu cho đúng thì sự tăng trưởng này đáng giá hơn mọi của cải có thể
thu tích được ... Vì thế tiêu chuẩn sinh hoạt của con người là mọi sinh hoạt
của con người phải phù hợp với lợi ích đích thực của nhân loại theo như ý định
và ý muốn của Thiên Chúa, và phải giúp cho con người, cá nhân cũng như tập thể,
trau dồi và thực hiện ơn gọi toàn diện của mình”. (GS, 35).
Khi đã ý thức được giá
trị lao động của con người như thế, nghĩa là khi đã có một nền đạo đức về lao
động, chúng ta có thể thấu triệt lời giáo huấn của Công đồng Vaticanô II trong
hiến chế Mục vụ liên quan đến ý nghĩa đích thực của sự tiến bộ: “Giá trị của con người hệ tại ở “cái mình
là” hơn là ở” cái mình có”. Cũng vậy,
tất cả những gì con người làm để đạt tới một mức độ công bình cao hơn, một tình
huynh đệ rộng lớn hơn, một trật tự nhân đạo hơn trong tương quan xã hội, điều
quí trọng hơn các tiến bộ khoa học kỹ thuật bởi vì các tiến bộ ấy tuy có thể
cung cấp chất liệu cho việc thăng tiến của con người, nhưng tự chúng mà thôi,
chúng không thể thực hiện được công cuộc thăng tiến ấy"( GS, 35).
Giáo lý về vấn đề tiến
bộ và vấn đề phát triển là một đề tài đứng hàng đầu trong tâm trạng hiện đại.
Giáo lý ấy chỉ có thể thấu triệt khi coi nó như là một kết quả của một nền đạo
đức lao động được thử thách, và giáo lý ấy chỉ có thể thực hiện và đem áp dụng
nếu đặt căn bản nền tảng trên một nền đạo đức như vậy. Giáo lý này, chương
trình hoạt động này ăn rễ sâu trong “TIN MỪNG VỀ LAO ĐỘNG”.
27. Lao động của con người dưới ánh sáng của thập giá và phục
sinh của Đức Kytô.
Nền đạo đức lao động
dựa trên phúc âm ăn rễ sâu trong một khía cạnh khác của lao động con người là
một trong những khích thước quan yếu nhất của nó. Bất kể lao động nào dù là tay
chân hay trí óc, đều nhất thiết nối liền với sự vất vả. Sách Sáng thế đã diễn
tả một cách hết sức sâu sắc sự việc đó khi đem so sánh, đối lập việc lao động,
từ nguyên thủy đã được chúc phúc (một sự chúc phúc tiềm tàng ngay trong mầu
nhiệm của tạo thành và liên quan đến địa vị của con người được nâng cao nên
giống hình ảnh của Thiên Chúa) với việc lao động đã bị chúc dữ do tội lỗi gây
ra. “Đất sẽ bị nguyền rủa vì ngươi!”
“Ngươi phải lam lũ vất vả cả đời mới có của nuôi thân !” (St 3,17). Sự vất
vả gắn liền với lao động này vạch ra con đường mà con người sẽ phải đi trong
cuộc đời trên trần gian và cũng báo tin việc con người sẽ phải chết. “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán ra mới có ăn
cho đến khi ngươi trở về với đất vì ngươi từ đó mà ra” (St 3,19). Như một
tiếng dội vang lại từ những lời trên đây, một trong những tác giả của sách Khôn
ngoan đã nhắc lại tư tưởng này khi viết: “Tôi
quay lại nhìn tất cả mọi việc tay tôi đã làm và công lao tôi đã phải lao nhọc
gây lên” (Gv 2, 11). Trên trần gian này không một người nào không có thể áp
dụng câu đó cho trường hợp của mình.
Ngay cả đối với vấn đề
này, có thể nói Tin mừng đã công bố lời cuối cùng trong mầu nhiệm Vượt qua của
Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta phải tìm ở đó câu trả lời cho những vấn đề này, thật
là quan trọng đối với nền đạo đức lao động của con người. Trong mầu nhiệm Vượt
qua có bao hàm vấn đề thánh giá Đức Kitô, Việc Ngài đã vâng lời cho đến chết,
sự vâng lời mà Thánh Tông đồ đã đem ra đối lập với sự bất tuân lệnh đè nặng từ
những ngày đầu tiên trong lịch sử con người trên trái đất (Rm 5,19). Cũng trong
Mầu nhiệm Vượt qua, có bao hàm cả sự việc Đức Kitô được nâng lên Đức Kitô đã đi
qua ngưỡng cửa là sự chết trên thập giá để trở lại với các môn đệ trong quyền
năng của Chúa Thánh Linh bằng việc Ngài sống lại.
Mồ hôi và vất vả lao
lung gắn liền với lao động trong tình trạng điều kiện sống hiện thời của nhân
loại, là những yếu tố khả dĩ giúp cho người Kitô hữu và tất cả những ai được
kêu gọi theo chân Đức Kitô, có thể dùng tình thương thông phần vào công cuộc mà
Đức Kitô đã đến để hoàn tất (Ga 17,4). Công cuộc cứu độ này được thực hiện qua
sự đau khổ và qua cái chết trên thập giá. Có thể nói, con người cộng tác một
cách nào đó với Con Thiên Chúa trong công cuộc cứu chuộc nhân loại bằng cách
chấp nhận sự vất vả khó nhọc trong lao động, với tinh thần hiệp nhất với Đức
Kitô chịu đóng đinh vì chúng ta. Con người chứng tỏ mình đích thực là môn đệ
Chúa Giêsu khi họ vác thánh giá hằng ngày trong sinh hoạt của riêng mình (Lc
9,23).
Đức Kitô lấy gương
sáng dạy chúng ta, khi Ngài chấp nhận chịu chết cho tất cả chúng ta là những
người tội lỗi; Ngài dạy chúng ta cũng phải vác thập giá mà xác thịt và thế gian
đặt nặng trên vai những kẻ mưu tìm hòa bình và chân lý, thế nhưng, đồng thời, “Đức Kitô được tôn vinh làm Chúa khi sống
lại và được lãnh nhận toàn quyền thống trị trên trời dưới đất, từ nay Ngài hoạt
động trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Ngài .... Ngài tinh
luyện và củng cố những ước vọng quảng đại thúc đẩy gia đình nhân loại hoán cải
cuộc sống của mình trở nên nhân đạo hơn và qui phục trời đất về cùng với mục
đích ấy (Vat.II, GS,38).
Trong lao động, người
Kitô hữu tìm gặp thấy một phần nhỏ của thánh giá Đức Kitô và vui lòng đón nhận
trong tinh thần cứu chuộc mà Đức Kitô đã có khi Ngài đón nhận vác thánh giá và
tội lỗi chúng ta. Với ánh sáng chiếu soi của Phục sinh Đức Kitô, chúng ta luôn
luôn tìm thấy trong lao động một tia sáng cho đời sống mới, một của cải lợi ích
mới; chúng ta tìm thấy như thế một lời loan báo “Có trời mới đất mới ” (2P 3,13;Kh 21,1) mà con người và thế gian
được thông hưởng nhờ những vất vả nhọc nhằn của lao động. Phải nói: Nhờ vất vả
mới được, và không bao giờ được nếu không vất vả. Một phần, điều đó xác quyết
rằng thánh giá là một chuyện cần thiết trong nền đạo đức lao động; phần khác,
trong thánh giá là sự vất vả nhọc nhằn này, xuất hiện một của cải lợi ích mới,
một của cải lợi ích khởi sự với chính lao động, một sự lao động được hiểu với
tất cả ý nghĩa sâu xa. Dưới mọi hình thức; và không có lao động thì không có
của cải lợi ích mới ấy được.
Phải chăng của cải lợi
ích mới đó, một kết quả của lao động con người, đã chính là một phần nhỏ của “đất mới” nơi công bằng ngự trị (2P
3,13). Nếu quả thực những vất vả nhọc nhằn muôn mặt của lao động con người là
một phần của thập giá Đức Kitô, thì của cải lợi ích mới có tương quan thế nào
đối với việc Chúa Kitô Phục Sinh?
Công đồng đã tìm câu
trả lời cho vấn đề này bằng cách tiếp nhận ánh sáng từ nguồn Lời Mạc Khải. “Quả thật, chúng ta biết rằng: được lời lãi
cả vào thế gian mà chính mình phải hư mất thì chả có lợi gì (Lc 9,25). Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm
suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi thân thể
của gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của
thời đại mới. Vì thế tuy phải phân biệt rõ ràng những tiến bộ trần thế với sự
bành trướng Vương quyền Đức Kitô, nhưng tiến bộ này rất quan trọng đối với Nước
Thiên Chúa” (Vat.II, GS, 39).
Với những suy nghĩ trên đây về lao động con người, chúng
tôi đã tìm cách làm nổi bật tất cả những gì xem ra cần thiết, vì lý do nhờ lao
động, không những “các hoa quả của hoạt động chúng ta” phải được gia tăng trên
trái đất, mà cả “nhân phẩm của con người”, “Sự thông cảm huynh đệ và sự tự do”
cũng phải được tăng thêm nữa (Vat.II, GS. 39). chớ gì người Kitô hữu,
những kẻ đang lắng nghe lời thiên chúa hằng sống và liên kết lao động với cầu
nguyện, chớ gì họ hiểu được địa vị mà lao động của họ giữ được trong tiến bộ
trần thế và cả trong vần đề phát triển mở mang nước Thiên Chúa, là nơi mà quyền
năng Chúa Thánh Linh và lời của phúc âm kêu gọi tất cả chúng ta hãy tiến vào.
Để kết thúc những suy
nghĩ này, tôi sung sướng ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả anh em, các chư
huynh đáng kính và anh chị em thân yêu.
Tôi đã chuẩn bị tài
liệu này để phổ biến vào ngày 15 - 5 vừa qua trong dịp kỷ niệm 90 năm ban hành
thông điệp Rerum Novarum; nhưng tôi
đã chỉ có thể duyệt lại một lần chót sau thời gian nằm bệnh viện.
Ban hành tại Castel Gandolfo , ngày 14 - 9 - 1981,
ngày lễ kính Thánh Giá,
năm thứ III triều đại
Giáo Hoàng của tôi.
+ GIOAN PHAOLÔ II
(Bản dịch trích từ
quyển Các Thông Điệp Xã Hội, chúng
tôi có chỉnh sửa lại vài từ)
nguồn:
http://ghxhcg.com/article.aspx?id=926
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét