Trang

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

23-07-2015 : THỨ NĂM TUẦN XVI MÙA THƯỜNG NIÊN

23/07/2015
Thứ Năm sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) Xh 19, 1-2. 9-11. 16-20b
"Chúa ngự xuống trên núi Sinai trước mặt toàn dân".
Trích sách Xuất Hành.
Trong ngày ấy, vào tháng thứ ba, sau khi dân Israel ra khỏi xứ Ai-cập, họ đến núi Sinai. Họ rời bỏ đất Raphiđim, đi đến hoang địa Sinai, đóng trại tại đây, và dựng nhà xếp ở miền núi. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngay bây giờ Ta đến cùng ngươi trong đám mây dày đặc, để dân chúng nghe Ta nói với ngươi và tín nhiệm ngươi mãi mãi". Vậy Môsê trình lên Chúa những lời dân chúng đã nói, và Chúa phán cùng ông rằng: "Ngươi hãy đến cùng dân chúng, thánh hoá họ hôm nay và ngày mai, chúng phải giặt áo sạch sẽ và ngày thứ ba phải sẵn sàng. Vì trong ngày thứ ba, Chúa sẽ ngự xuống trên núi Sinai trước mặt toàn dân".
Sáng sớm ngày thứ ba, có sấm chớp, và một đám mây dầy đặc bao phủ khắp núi, rồi tiếng kèn vang lên khiến dân chúng trong trại phải kinh sợ. Bấy giờ Môsê dẫn dân chúng ra ngoài trại đứng dưới chân núi nghinh đón Thiên Chúa. Cả núi Sinai đều bốc khói, vì Chúa ngự xuống trên núi trong ngọn lửa, từ trên ngọn núi, khói bốc lên như từ hoả lò, và núi rung chuyển dữ dội. Tiếng kèn thổi mạnh lên dần dần và vang dội thật xa. Môsê thân thưa, và Chúa đáp lại bằng những tiếng sấm sét.
Chúa ngự xuống trên ngọn núi Sinai, và gọi Môsê lên đỉnh núi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 13, 10-17
"Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành".
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Tại Sao Dùng Dụ Ngôn
Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không". Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: "Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe".
Ước gì chúng ta được vào số những người mà Chúa Giêsu cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 16 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Exo 19:1-2, 9-11, 16-20; Mt 13:10-17.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần biết kính trọng và chuẩn bị, để đón nhận hồng ân Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn không ngừng quan tâm, mặc khải, và thi ân cho con người. Vấn đề ở chỗ là con người có biết nhận ra và đáp trả cách xứng đáng hay không. Nếu biết nhận ra và đáp trả, con người càng ngày càng sở hữu hồng ân nhiều hơn; nếu không, ngay cả những gì con người đang sở hữu cũng từ từ biến mất. Một trong những điều nguy hiểm nhất làm con người xa cách Thiên Chúa là thái độ tự mãn: cho mình đã biết, đã có quá đủ, và không cần nhờ đến Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng một lần nữa tình yêu của Thiên Chúa, biểu lộ qua sự quan tâm và chăm sóc Ngài dành cho con người. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa muốn ông Moses chuẩn bị tâm hồn dân chúng để Ngài hiện xuống với dân Israel trên đỉnh núi Sinai. Mục đích của cuộc thần hiện là để dân chúng biết uy quyền Thiên Chúa; đồng thời củng cố địa vị cho Moses, người lãnh đạo Ngài đã chọn để đưa dân vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cắt nghĩa tại sao người dùng dụ ngôn để nói với dân chúng, vì trí óc họ chưa hiểu được những mầu nhiệm của Nước Trời như các môn đệ. Họ phải siêng năng học hỏi và cần sự trợ giúp của Thiên Chúa mới có thể hiểu được; nếu không, ngay cả những gì họ nghe Chúa Giêsu nói cũng sẽ mất.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cuộc thần hiện trên núi Sinai
1.1/ Mục đích của cuộc thần hiện: là để dân chúng nhận ra uy quyền Thiên Chúa, và để củng cố địa vị cho Moses, người lãnh đạo Thiên Chúa chọn để đưa dân vào Đất Hứa. Bổn phận của dân là phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa cũng như Moses.
(1) Phải tránh thái độ khinh thường Thiên Chúa và các ngôn sứ của Ngài: Tục ngữ Việt-nam có câu lột tả được thái độ của dân chúng đối với Thiên Chúa và với các người đại diện của Ngài: "Gần chùa gọi bụt bằng anh!" Khi con người thấy Thiên Chúa quá thương và luôn làm ơn cho mình, con người cho đó là bổn phận của Thiên Chúa. Khi con người được hiện diện trong Thánh Điện quá thường xuyên, con người tỏ dấu khinh thường bằng cách nói chuyện và chơi giỡn với nhau ngay trước mặt Thiên Chúa. Khi con người đã quá quen với nhà lãnh đạo vì đã từng ăn nhậu, chơi giỡn với nhau, họ coi nhà lãnh đạo cũng như "cá mè một lứa." Vì thế, Thiên Chúa phải tỏ uy quyền cho dân biết có một khoảng cách vô định giữa Thiên Chúa và con người; nếu Thiên Chúa không yêu thương và quan tâm tới, con người cũng chỉ là hạt cát trong sa mạc. Ngài có thể làm con người ra hư vô bất cứ lúc nào.
(2) Phải chuẩn bị tâm hồn trong sạch để ra gặp Thiên Chúa: Đức Chúa phán với ông Moses: "Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Đức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Sinai trước mắt toàn dân."
Được ra mắt Thiên Chúa, vị Chúa Tể Trời Đất, không phải là điều tầm thường; vì thế, con người cần phải chuẩn bị cả tâm hồn lẫn thể xác. Các thánh thường lấy ví dụ: nếu con người phải chuẩn bị kỹ càng thế nào khi gặp vua chúa trần gian, họ cần phải chuẩn bị kỹ càng hơn nữa khi ra mắt vị Chúa Tể Trời Đất. Thế mà có những người mặc đồ ngủ hay đồ tắm biển đi nhà thờ, miệng nhai kẹo cao su khi lên lãnh nhận Mình Thánh Chúa, để con chạy chơi giỡn trong nhà thờ như đang ở ngoài công viên. Nếu Thiên Chúa tiếp tục trừng phạt những người vô phép như trong Cựu Ước, hỏi mấy người chúng ta còn sống sót để vào diện kiến Thánh Nhan?
1.2/ Thiên Chúa tỏ uy quyền trước mặt dân chúng trên đỉnh núi Sinai: Theo truyền thống, Thiên Chúa thường tỏ mình trên các đỉnh núi: cho tiên-tri Elijah trên đỉnh núi Horeb, cho ba tông-đồ yêu dấu trên đỉnh núi Thabor. Núi Sinai là một ngọn núi rất đặc biệt vì vẻ linh thiêng của nó, lúc nào cũng có mây mù che phủ. Khách hành hương rất thích được ở trên đỉnh núi khi mặt trời mọc để nhìn thấy cảnh hùng vĩ của quang cảnh chung quanh; vì thế, họ phải bắt đầu leo khi trời vẫn còn tối.
Trình thuật Sách Xuất Hành kể: "Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Moses đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Sinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Moses nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Đức Chúa ngự xuống trên núi Sinai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Moses lên đỉnh núi, và ông đi lên."
2/ Phúc Âm: Con người cần khiêm nhường học hỏi mới có thể nhận ra Thiên Chúa.
2.1/ Dụ ngôn và mầu nhiệm: Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: "Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, lý do Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, vì họ nhìn mà không thấy, lắng nghe mà không nghe, cũng không hiểu."
+ Dụ ngôn (parabolh,): là một trình thuật hay một câu có thể dài hay ngắn. Mục đích là để dẫn chứng một sự thật qua việc so sánh hay đồng nhất. Tác giả thường dùng những gì con người đã biết để dẫn họ đến một thực tại cao hơn.
+ Mầu nhiệm (musth,rion): chúng ta thường hiểu là những gì tối nghĩa, khó hiểu, hay không thể hiểu. Người Rôma và Hy-lạp hiểu mầu nhiệm là những gì không thể hiểu với những khách bàng quang; nhưng đối với những người trong cuộc, những điều này quá rõ ràng. Lý do, người trong cuộc đã được dạy dỗ, soi sáng, và trải qua kinh nghiệm.
+ Định luật trần gian: "Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất." Thoạt nghe, một người có thể cho Thiên Chúa bất công, nhưng thực tế chứng minh đây là một định luật. Đối với những chuyên gia, vì họ càng ngày càng nghiên cứu, hội thảo, và thí nghiệm, nên kiến thức của họ ngày càng sâu hơn trong chuyên nghành của họ; nhưng nếu một người cũng học về lãnh vực đó, nhưng không có cơ hội áp dụng, họ dần dần sẽ mất luôn kiến thức mà họ đã có lúc đầu.
2.2/ Thiên Chúa tiền định? Chúa Giêsu trưng dẫn lời sấm của ngôn sứ Isaiah. Đây là lời sấm khó hiểu và nhiều người dựa vào để chứng minh Thuyết Tiền Định: Nếu Thiên Chúa đã định cho ai phải hư mất, họ sẽ không có cách nào để được cứu độ! Trước tiên, chúng ta cần hiểu truyền thống của Do-thái: không một sự việc nào xảy ra trong cuộc đời ngoài thánh ý Chúa; vì thế, việc con người cứng lòng không tin cũng nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không có ý quy trách nhiệm cho Thiên Chúa, nhưng quy trách nhiệm vào sự cứng lòng của con người. Chương 9 của Gioan khi Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh, giúp chúng ta nhận ra chân lý này: Chúa làm phép lạ chữa người mù, các kinh-sư thẩm vấn anh mù để biết ai đã chữa lành anh và cách thức chữa, họ còn thẩm vấn cha mẹ anh để có thể chắc chắn anh bị mù ... Nhưng sau cùng, họ từ chối nhận Chúa Giêsu đã làm phép lạ đó và kết tội Chúa đã vi phạm ngày Sabbath; trong khi người mù không chỉ được trông thấy, còn được nhận ra và tin vào Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn mỗi khi lắng nghe và học hỏi Lời Chúa, mỗi khi tiếp nhận Chúa vào lòng, và nhất là ra nghênh đón Thiên Chúa trong ngày cuối của đời chúng ta.
- Để hiểu những mầu nhiệm Nước Trời, chúng ta cần có thái độ khiêm nhường và bỏ thời gian để học hỏi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

23/07/15 THỨ NĂM TUẦN 16 TN 
Th. Bi-ghít-ta, nữ tu
Mt 13,10-17

Suy niệm: Thị giác và thính giác là những giác quan hết sức cần thiết và quan trọng của một con người. Có thể nói, chúng là cửa ngõ đưa con người hòa nhập vào cuộc sống chung. Không những thế, cặp mắt và đôi tai còn đem đến hạnh phúc lớn lao, khi cho con người được nhìn ngắm khuôn mặt hiền dịu của những người thân yêu, được lắng nghe những lời đầy yêu thương của bao người gần gũi. Song, là những người Kitô hữu, những người có đức tin vào Đức Ki-tô, hạnh phúc của chúng ta không dừng lại ở chỗ dùng thị giác và thính giác chỉ để nhìn ngắm những hình ảnh của con người và lắng nghe những âm thanh của nhân loại. Chúng ta thật sự hạnh phúc nhất khi cặp mắt và đôi tai của chúng ta được nhìn ngắm chính dung nhan của Chúa và được lắng nghe chính Lời của Ngài.
Mời Bạn: Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, bạn và tôi được nhìn ngắm Chúa Giê-su hiện diện trong Phép Thánh Thể và được lắng nghe Lời Ngài. Chính lúc ấy, cặp mắt và đôi tai của chúng ta thật có phúc. Ước gì chúng ta biết giữ gìn những giác quan đó khỏi những hình ảnh và âm thanh vô bổ, để chỉ hướng nhìn Chúa Giê-su và nghe Lời Chúa.
Chia sẻ: Bạn thật sự đã biết dùng cặp mắt và đôi tai của mình để chiêm ngắm Chúa Giê-su và nghe Lời Ngài hay chưa? Nếu chưa, bạn có quyết tâm nào?
Sống Lời Chúa: Dành thời gian viếng Thánh Thể và đọc Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã cho chúng con có cặp mắt và đôi tai để nhìn ngắm Chúa và nghe Lời Ngài. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những giác quan đó theo ý Chúa muốn. Amen.

Anh em thật có phúc
 Như các môn đệ xưa, các Kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc. Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.


Suy nim:
Tiền định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.
Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không” (c. 11).
Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một câu khác cũng cần được hiểu đúng: “Người đã có lại được cho thêm,
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
Vào buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.
Còn một đám đông lớn người Do thái không tin nhận Ngài.
Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Như các môn đệ xưa, các Kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.
Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG BẢY
Thông Dự Vào Ánh Sáng
Chúng ta đọc thấy trong Thư Cô-lô-sê: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng. Ngài đã giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào Vương Quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1,12-14).
Vương Quốc của Thiên Chúa là Vương Quốc của “Thánh Tử chí ái”, theo một nghĩa rất đặc biệt, bởi vì chính nhờ công cuộc của Người mà “ơn cứu chuộc” và việc “thứ tha tội lỗi” được hoàn thành. Những lời của Tông Đồ Phao-lô ám chỉ đến tội lỗi của con người. Vì thế, sự tiền định tác động hiệu năng không duy chỉ do mối quan hệ của con người với việc sáng tạo thế giới và chỗ đứng của con người trong thế giới. Một cách căn bản, sự tiền định đối với con người có liên hệ với công cuộc cứu chuộc của Chúa Con – là Đức Giê-su Kitô.
Công cuộc cứu chuộc ấy trở thành một diễn tả cụ thể sự quan phòng cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa, Cha chúng ta, cai quản mọi sự một cách đầy quan tâm, nhất là đối với những thụ tạo mà Ngài đã trao ban cho sự tự do.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23-7
Thánh nữ Birgitta, nữ tu
Xh 19, 1-2.9-11.16-20b; Mt 13, 10-17

LỜI SUY NIỆM: “Ai có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.”
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa bao trùm cả và nhân loại, Ân sủng của Ngài tuôn đổ không giới hạn cho con người không phân biệt và không loại trừ bất cứ một ai. Những ai đón nhận ân sủng và lòng nhân hậu của Ngài thì càng thêm sức mạnh và sự nâng đỡ của Ngài, để vượt thắng mọi thử thách, làm cho ngày càng dồi dào phúc lộc cho sự sống đời này lẫn đời sau. Còn những ai không đón nhận ân sủng của Ngài, thì với sức riêng của minh quá yếu đuối, trong khi đó sức cám dỗ của ma quỷ quá mạnh sẽ dễ đưa chúng ta đi vào trong bóng tối đầy đam mê ích kỷ và sự chết.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa tuôn đổ Thần Khí của Chúa trên chúng con, để chúng con nhận được ơn Khôn Ngoan giúp chúng con phân biệt điều phải và điều trái; Ơn Hiểu Biết giúp chúng con hiểu biết sâu xa những điều Chúa và Giáo hội dạy. Ơn Lo Liệu, giúp chúng con biết cách giải quyết mọi sự trong cuộc sống; Ơn Sức Mạnh để vượt qua những khó khăn trong cuộc đời; Ơn Thông Minh để nhận ra Thánh Ý Chúa; Ơn Đạo Đức để yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân; và ơn Kính Sợ để chúng con tôn kính sự công bằng quyền phép của Chúa, và sợ làm phiền lòng Ngài.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 23-07: Thánh BRIGITTA
(1303 - 1373)

Thánh Brigitta (hay là Birgitta) sinh ngày 14 tháng 6 năm 1303 tại Upland, Thụy Điển, nơi cha Ngài cai quản, Mẹ Ngài, bà Ingeborg Phinsta, là con của vị quan cai quản miền đông Goythland. Brigitta là con út trong số 7 người con.
Truyền thuyết mặc cho cuộc sinh hạ của thánh nữ nhiều biến cố siêu nhiên.
Ngay trước khi sinh ra thánh nữ, mẹ Ngài đã thoát chết cách lạ lùng trong một cuộc đắm tàu. Một linh mục được thị kiến, thấy "tiếng nói của con trẻ được mọi người nghe theo". Thực tế, Brigitta tới 3 tuổi mới nói được, nhưng lại nói rất sõi làm cho láng giềng phải kinh ngạc.
Lúc lên 7 tuổi, một buổi sáng có bà mặc áo trắng hiện đến đầu giường, tay cầm triều thiên và nói: - Brigitta, con có muốn thiên thần này không ?
Đứa trẻ đáp lời: - Dạ con muốn lắm chứ.
Và Đức trinh nữ đã đội triều thiên lên đầu Brigitta.
Buổi lên mười, Brigitta đã được nghe giảng về cuộc khổ nạn của Chúa, Thánh nữ rất cảm động. Đêm sau, Chúa Giêsu hiện ra, mình đầy thương tích bê nết máu. Chúa nói: - Con xem cha bị đối xử tàn tệ thế nào.
Đau đớn thánh nữ hỏi: - Lạy Chúa, ai làm cho Chúa bị thương tích như vậy ?
Chúa nói: - Những người khinh thường các giới luật và quên lãng tình yêu cha.
Những hình ảnh này không bao giờ phai mờ trong tâm trí Brigitta. Năm 1314 mẹ thánh nữ từ trần. Ngài sống với người dì. Năm 1316, vì vâng lời và ngược với khuynh hướng tự nhiên, thánh nữ kết hôn với Ulj Gudmarsson, 18 tuổi, nghị viên tương lai của vương quốc. Họ sinh được tám người con, 4 trai, 4 gái.
Hai người con trai chết sớm. Karl, người con trưởng nặng tinh thần thế tục, nhưng lại rất kính mến Đức Mẹ. Birger, người con gái thứ hai, lập gia đình. Nhưng sau này trở thành người cộng sự của mẹ và sẽ đem xác mẹ từ Roma về chôn cất tại Thụy Điển. Ba người con gái khác đều lập gia đình Merita và Cêcilia ở lại Thụy Điển. Còn Catarina sau khi mất chồng đã sống với mẹ (Brigitta tạ thế năm 1381 và được tuyên thánh năm 1476).
Người con trai thứ tư, Ingebord đã trở thành tu sĩ dòng Xitô.
Vua Magour vời thánh nữ vào làm cố vấn cho hoàng hậu Blanche. Ngài trở thành người quản gia thứ hai trong triều sau hoàng hậu, nhưng đã cố gắng một cách vô hiệu trong nỗ lực biến cải đời sống của hoàng hậu lẫn của nhà vua.
Sau một cơn bệnh nguy ngập và được Đức Trinh Nữ chữa lành, thánh nữ khuyên chồng rời bỏ triều đình lui về nhà riêng họ đã sống đời gia đình gần như sống trong tu viện.
Brigitta cùng chồng đi hành hương đền thờ thánh Giacôbê ở Compostella. Trên cùng về, ông Ulf lâm trọng bệnh tại tu viện Alvasta. Năm 1943, nghĩa là 28 năm sau ngày cưới, ông qua đời và Brigitta sống đời sám hối gần tu viện Xitô ở Alvasta. Khi sống tại đây thánh nữ soạn một bộ luật dòng, Ngài được kêu gọi thành lập, nhưng sinh thời Ngài không bao giờ thấy được dòng ấy thành hình.
Chính Cararina, ái nữ Ngài, sẽ hướng dẫn nhà dòng phát triển mạnh mẽ, sau khi được Đức Urbanô V châu phê năm 1370 và sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh nữ Brigitta được ơn tiên tri và thực hiện nhiều cuộc chữa trị lạ lùng cho Giáo hội và xã hội. Chúng ta biết rằng: khi đã trở thành goá phụ, thánh nữ đã sống đời khổ hạnh, ít ăn, ít ngủ và cầu nguyện không ngừng. Ngài theo đuổi một luật sống nghiêm ngặt và thực hiện đủ công trình bác ái, đến nỗi chính Ngài phải đi ăn xin. Dù vậy, Ngài không rút lui hoàn toàn vào cô đơn.
Ngài được linh ứng và cha tuyên úy của Ngài viết lại bằng tiếng La-tinh dưới tựa đề "mạc khải". Ngài cũng viết nhiều thư tín cho các Đức giáo hoàng, các Đức Hồng y, các nhà cầm quyền để vạch trần những tật xấu của họ, cũng như chỉ vẽ cách thế canh tân đời sống họ. Đối với nhà vua, Ngài chỉ trích các hà khắc và khuyên sống với địa vị của mình. Ngài còn nhờ một giám mục mang thư khuyên hai vua Anh và Pháp hòa giải với nhau. Đối với Đức giáo hoàng Clêmentê VI đang ở Avignon, Ngài xin vị cha chung trở về Roma.
Năm 1349, thánh nữ đi hành hương Roma để dự năm thánh. Nhân dịp này, Ngài xin toà thánh châu phê luật dòng, nhưng từ năm 1215 công đồng Lateranô IV đã cấm lập thêm dòng mới. Đức giáo hoàng Urbanô V lại bỏ Roma sang Avigno sau khi châu phê luật dòng của Ngài, năm 1370. Được ơn soi sáng, năm 1372, thánh Brigitta đi hành hương thánh địa để cầu nguyện cho Giáo hội.
Năm 1373, thánh nữ trở về Roma và từ trần ngày 23 tháng 7. Mười tám năm sau, Ngài được tuyên thánh, ngày 7 tháng10 năm 1391.
(daminhvn.net)


23 Tháng Bảy
Những Lọ Ðựng Muối Tiêu
Sưu tầm là một giải trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem, nhãn hiệu, lon bia, chai lọ, sách quý... và lâu lâu đem triển lãm.
Tại một nhà thờ nọ tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật sưu tầm, người ta thấy có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một ông khách nọ vừa bước vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở cửa vào, đã vội vã đi một vòng quan sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực nhớ ra cái Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc nhiều lần. Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải trở lại cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: "Gần hai trăm cái lọ muối thế kia mà không có lấy một hột muối".
Ðó là hình ảnh của cuộc đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất, nhưng lắm lúc chúng ta chỉ là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối. Muối dùng để sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm cho thức ăn được thêm đậm đà...
Trong một xã hội đang thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là muối để thanh tẩy và đem lại cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một hành động của chúng ta, nếu có chút muối của Ðức Tin, Ðức Ái sẽ mang lại cho những người xung quanh niềm vui và sức sống.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét