Trang

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

26-07-2015 : (phần II) CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN năm B

26/07/2015
Chúa Nhật 17 Quanh Năm Năm B
(phần II)

Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật XVII Thường Niên - năm B
CHÚA NHẬT XVII QUANH NĂM B
(2V 4, 42-44 ; Ep 4,1-6 ; Ga 6,1-15)
PHÉP LẠ:
SỰ ÂN CẦN CỦA THIÊN CHÚA
VÀ LÒNG TIN NƠI CON NGƯỜI
Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,
rồi phân phát cho những người ngồi đó

(Ga 6,10)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I – 2V 4,42-44
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều là một trong những phép lạ chứng minh tư cách “người của Thiên Chúa” của tiên tri Êlisê, môn đệ của tiên tri Êlia. Hai mươi chiếc bánh lúa mạch mà người ta biếu ông thực sự trở nên quý giá trong bối cảnh nạn đói kém đang hoành hành khắp trong xứ (x. 2V 4,38), nhưng Êlisê đã không giữ lại cho riêng mình, mà ra lệnh đem phân phát cho dân chúng trong sự ngạc nhiên của người đầy tớ: “Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?” Êlisê liền trấn an khi căn dặn: “Cứ dọn cho dân chúng ăn, vì Chúa phán như sau: ‘Người ta ăn rồi mà vẫn còn dư.’” Và khi vâng lệnh dọn ra cho mọi người ăn, họ nhận ra rằng Lời Chúa đã phán thực sự được ứng nghiệm. Như thế, chính sự quảng đại qua việc ân cần chăm sóc của Thiên Chúa và niềm tin tưởng nơi con người đã làm cho phép lạ xuất hiện.
2. Bài đọc II – Eph 4,1-6
Thánh Phaolô dù đang bị cầm tù nhưng lúc nào cũng băn khoăn lo lắng để làm sao cho các tín hữu Êphêsô thực sự sống hòa thuận hiệp nhất với nhau như dấu chỉ rõ nét nhất của niềm tin sống động vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy được đặt trên một nền tảng chung cho mọi tín hữu: “cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.” Và để giúp họ đạt tới mục tiêu trên, Thánh nhân đã đề nghị những phương thế thực hành cụ thể: khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng lẫn nhau.
3. Bài Phúc âm – Ga 6,1-15
Câu chuyện “bánh hóa nhiều” ở chương 6 không được Thánh Gioan trình bầy như là một phép lạ, là điều mà các Tin mừng Nhất lãm đặc biệt chú trọng. Chúa Giêsu, theo Thánh Gioan, không hề muốn người ta dừng lại ở dấu lạ “bánh hóa nhiều”, nhưng qua dấu lạ này Ngài muốn dẫn họ tới một mạc khải, hay nói các khác: một phép lạ thực sự, đó là diễn từ về Bánh Hằng Sống. Ngài không muốn họ tôn vinh Ngài chỉ vì những miếng bánh làm cho họ no nê, nhưng muốn họ nhận ra Ngài mới chính là “Tấm Bánh” được bẻ ra, không phải chỉ để nuôi dưỡng thân xác, nhưng còn để ban cho con người sự sống trường sinh.
Sự ân cần và quảng đại cho một “phép lạ” (mạc khải về Bánh Hằng sống) từ phía Chúa Giêsu đã sẵn sàng, nhưng dường như niềm tin từ phía con người thì chưa. Bởi vì ngay từ đầu đoạn Tin mừng, Thánh Gioan đã cho biết: dân chúng tấp nập đi theo Chúa Giêsu chỉ vì họ đã thấy những bệnh nhân được chữa lành. Và sau khi đã ăn no nê tùy thích, họ lại chỉ nhận ra Chúa Giêsu như là “một tiên tri phải đến trong thế gian” để được tôn vinh là vua. Tuy nhiên, sự ân cần vồn vã nhằm tôn vương Chúa Giêsu của dân chúng chỉ được Ngài đáp lại bằng một thái độ lẩn tránh để “trốn lên núi một mình.” Như thế, dấu lạ thì đã có nhưng “phép lạ” thì chưa chỉ vì thiếu vắng lòng tin nơi con người.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Lời khẳng định đầy chắc chắn của tiên tri Êlisê giúp cho người đầy tớ xác quyết rằng: Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người. Ngài luôn ở gần bên để ân cần chăm lo cho đời sống của dân Ngài. Và sự chăm lo ấy lúc nào cũng đầy tràn chan chứa. Đây không phải chỉ là một lời hứa suông cho vui, nhưng điều này đã trở thành niềm xác tín ít là cho những người đã dọn bữa theo lệnh của tiên tri Êlisê. Lời thánh vịnh “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” phải luôn là một niềm xác tín cho những ai đang muốn để đời mình cho Chúa chăm sóc giữ gìn.
2. Niềm tin nơi con người là điều kiện không thể thiếu được để phép lạ xuất hiện, và niềm tin ấy luôn đòi được thể hiện bằng một hành động cụ thể đi kèm. Theo Thánh Phaolô, đó chính là nỗ lực sống hòa thuận hiệp nhất của mỗi thành viên trong cộng đoàn tín hữu ở Êphêsô. Nỗ lực sống hòa thuận và hiệp nhất trong gia đình, trong cộng đoàn, trong mọi môi trường sống vẫn luôn là phương thế thiết thực nhất để mỗi Kitô hữu có thể diễn tả cách cụ thể niềm tin sống động của mình.
3. Nếu sự quảng đại của Thiên Chúa được diễn tả qua thái độ ân cần của Chúa Giêsu như điều kiện cần để dấu lạ “bánh hóa nhiều” được thực hiện, thì sự quảng đại ấy cũng đã được đáp lại bằng một sự quảng đại từ phía con người như là điều kiện đủ để dấu lạ có thể được thực hiện. Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá của một em bé chắc chỉ đủ một xuất ăn cho em và gia đình, nhưng chính sự hy sinh đầy quảng đại của em, qua bàn tay ân cần của Chúa Giêsu, đã làm cho “đám rất đông dân chúng… ai muốn ăn bao nhiêu tùy thích.” Thiên Chúa cũng vẫn đang đợi chờ lòng quảng đại, tuy nhỏ bé từ phía mỗi người Kitô hữu, nhưng lại là điều kiện đủ để Chúa có thể ra tay thi thố lòng quảng đại trong tư cách một Vị Mục Tử nhân lành lo lắng cho đàn chiên của mình.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc, chữa lành và dưỡng nuôi hồn xác từng người chúng ta. Cộng đoàn chúng ta hãy hết lòng cảm tạ Chúa và tha thiết dâng lời cầu nguyện.
1. Nhiều người Do Thái đã tìm đến để nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Chúng ta cùng cầu nguyện cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh luôn thuận lợi và đạt kết quả, dẫn đưa nhiều người đến với Chúa Kitô là nguồn sự sống và ơn cứu độ.
2. Chúa Giêsu hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo trên thế giới biết đặt nhu cầu của dân chúng lên hàng đầu, và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo đói và khuyết tật.
3. Chúa đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé. Xin cho mọi kitô hữu biết ý thức và luôn quảng đại cộng tác trong những dự án của Giáo hội và xã hội, nhằm làm vinh danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người.
4. “Hãy thu lấy những miếng bánh còn lại, kẻo phí đi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết trân trọng và sử dụng hiệu quả những ân huệ Chúa ban nhằm làm tăng trưởng đời sống cộng đoàn và mưu ích cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Con Chúa làm người đã biểu lộ quyền năng và tình thương bao la của Chúa dành cho nhân loại. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con biến đổi hầu xứng đáng với ơn Chúa rộng ban. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Chủ đề :
Chúa nuôi dưỡng dân Ngài

Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn
(Ga 6,1-15)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (2 V 4,42-44) : Ngôn sứ Êlisê làm cho bánh hóa ra nhiều.
- Đáp ca (Tv 144) : "Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê".
- Tin Mừng (Ga 6,1-15) : Đức Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều.

I. Dẫn vào Thánh  lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân do thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân do thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân do thái.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ này trong tâm tình sốt mến tạ ơn.

II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta lười biếng tham dự Thánh lễ.
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta rước lễ không xứng đáng.
- Xin Chúa tha thứ vì chúng ta ích kỷ không chia xẻ với anh chị em chúng ta.

III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2 V 4,42-44)
Ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hóa nên nhiều cho 100 người ăn no nê.

2. Đáp ca (Tv 144)
Tv này mô tả Thiên Chúa như một vị vua lý tưởng. Một vị Vua tốt luôn chăm lo đến đời sống của thần dân mình, nhờ đó mọi người đều có thức ăn đúng giờ và luôn no nê. "Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê".

3. Tin Mừng (Ga 6,1-15)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều theo cách tường thuật của Thánh Gioan có một số chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt :
- Phép lạ này diễn ra trong thời gian lễ Vượt Qua. Chi tiết này nhằm cho thấy thứ lương thực mà Đức Giêsu ban cho dân chúng trổi vượt thứ manna mà dân do thái được ăn trong thời gian ở sa mạc.
- Không phải dân chúng xin Đức Giêsu, cũng không phải các môn đệ can thiệp, mà chính Đức Giêsu thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm thức ăn cho họ.
- Đức Giêsu làm phép lạ này từ phần đóng góp 5 chiếc bánh và hai con cá của một em bé.
- Lương thực được phân phát qua trung gian của các tông đồ.

4. Bài đọc II (Êp 4,1-6)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêxô sống hòa thuận hiệp nhất với nhau.
- Lời kêu gọi này rất tha thiết, bởi vì lúc đó Phaolô đang ngồi tù mà vẫn phải băn khoăn lo lắng cho họ.
- Muốn hòa thuận hiệp nhất thì phải khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng nhau.
- Lý do phải hoà thuận và hiệp nhất là vì mọi người cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Lòng rộng rãi của Chúa
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự nó, phép lạ này cũng có một ý nghĩa được nhiên, nó biểu lộ tấm lòng rộng rãi của Chúa đối với loài người.
Thánh Gioan ghi lại rất nhiều chi tiết về lòng rộng rãi ấy :
- Trước đó Đức Giêsu đã chữa cho rất nhiều người bệnh tật.
- Chính Đức Giêsu ngước mắt nhìn dân chúng và Ngài biết họ đói, chính Ngài nẩy ra ý định kiến cái gì cho họ ăn.
- Chẳng những Ngài lo cho họ ăn no, mà còn thừa thải.
- Chi tiết Đức Giêsu bảo họ ngồi xuống trên thảm cỏ là một so sánh kín đáo Đức Giêsu với người mục tử nhân lành nuôi dưỡng đoàn chiên mình.
Trong Tin Mừng, đây không phải là chỗ duy nhất nói đến lòng rộng rãi của Chúa. Ở chương 6 Tin Mừng Mt, Đức Giêsu cũng bảo chúng ta đừng bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất của cuộc sống này, vì Cha trên trời đã biết chúng ta cần những thứ đó và đã lo sẵn tất cả cho chúng ta.
Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa : họ sợ thiếu, nên họ dành giật và tích trữ.
Em bé trong đoạn Tin Mừng này đã không sợ như thế nên em đã dám chia xẻ 5 chiếc bánh và hai con cá của em. Kết quả : chẳng những bản thân em mà tất cả hàng mấy ngàn người đều no nê thừa thải.
Chúa rất rộng rãi, nhưng con người lại hẹp hòi. Đó là lý do của thảm cảnh nhân loại hiện nay.

* 2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Đây là một phép lạ lớn : Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thải : đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người :
. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành xử hầu như thường xuyên của Chúa :
. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu : Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi "Con có tin không ?", và sau khi làm phép lạ, Chúa nói "Đức tin của con đã cứu con".
. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói "Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó".
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi chờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ) nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể :
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hoà lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc... và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài cố suy tính cân nhắc cẩn thận...
. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.

* 3. Phép lạ của lòng quảng đại
Một vị Linh mục kia đã giảng rằng : phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị Linh mục rất hài lòng, nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị Linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị Linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai, đại khái như "Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói". Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ : "Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi". Vị Linh mục hỏi tiếp : "Thế trong túi có gì vậy ?". Bà đáp : "Chỉ có hai chiếc bánh".
Câu trả lời khiến vị Linh mục vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.
Quảng đại phải là một nhân đức của người kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, vì hằng ngày ta gặp biết bao người và bao nhiêu dịp để thể hiện nó. Và chúng ta có thể thể hiện quảng đại bằng nhiều cách : cho đi tiền bạc, cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi công sức, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến v.v.
Và quảng đại cũng trổ sinh niềm vui. Ít khi ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi ta gặp người nào bủn xỉn mà vui. (Viết theo Flor McCarthy)

Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày "Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế".Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
*
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người "nuôi năm ngàn người ăn no". Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện : "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?" (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là"Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới". Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin : dù chỉ với "năm chiếc bánh và hai con cá". Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
*
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 5. "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn"
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa : "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn".
Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện "Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này".
Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc : trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ : Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách ? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy ? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác ? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.
Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát ; ta không thể tạ ơn Chúa đã cho ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa : "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?"

* 6. Phải biết thế nào là đói
Dưới triều vua Salomon, ở Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.
Thế rồi trong nước xảy ra nạn đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo. Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.
Việc làm của Simeon đến tai vua Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế : ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một vài quy định : thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì cả ; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả ; thứ ba, nếu nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng. Sau khi giải thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi : "Ông có đồng ý những điều kiện ấy không ?". Hắn đáp "Đồng ý". Người hầu nói : "Vậy thì ông hãy ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông".
Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn : "Hãy ngồi xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý". Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa nói "Món cá này ngon tuyệt". Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.
Tiếp đến, người hầu mang tới cho nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi : "Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng". Tên nhà giàu vội vàng đáp : "Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng". Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại : "Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn cho ông thưởng thức". Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo "Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung". Chẳng thể làm cách nào khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.
Nằm trên giường mà bụng đói cồn cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ : "Sao nhà vua mời mình dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả ?" Và hắn đã tự tìm được câu trả lời : Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor McCarthy)

* 7. Chứng từ về chia sẻ
 "Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.
 Ba năm về trước : Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết :
 Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.
 Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.
 Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.
 Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.
 Ba năm về sau : - Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.
 + Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ông Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.
 Tay phải làm tay trái chẳng biết
 + Tay phải làm tay trái chẳng biết : - Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Được biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, dân chúng xưa đói khát, cả tâm hồn lẫn thể xác, và Đức Giêsu đã rộng lòng để thỏa mãn họ cả xác hồn. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Người :

1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn sống hiệp thông với Chúa nhờ Bí tích Thánh Thể / để có thể quan tâm chia sẻ cho những người đang đói khát về tinh thần cũng như vật chất.
2. Xin cho các chính quyền trên thế giới / biết tận tâm lo thỏa mãn các nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa / và các nhu cầu tinh thần như tự do, hòa bình, văn hóa, tôn giáo / để mọi người dân sống đúng phẩm giá con người hơn.
3. Xin cho những người đang là nạn nhân của chậm tiến, đói nghèo và dốt nát / được nhiều người khá giả hơn quan tâm giúp đỡ / để sớm thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta biết giúp đỡ và chia sẻ cho nhau / noi gương cộng đồng các tín hữu đầu tiên / để không còn ai trong cộng đồng chúng ta còn dốt nát và đói nghèo.

Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu, chúng con họp nhau dâng lễ tạ ơn Chúa, vì đã quan tâm nuôi dưỡng cả xác hồn chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị...

VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta cầu xin cho có "lương thực hằng ngày", một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
- Trước Rước lễ : Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân do thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.

VII. Giải tán
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XVII Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 26 Tháng 7, 2015
Ăn và chia sẻ bánh hằng sống
Ga 6:1-15


1.  Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần

Lạy Cha chúng con ở trên trời,
Cha đã ban cho chúng con Con Yêu Dấu của Cha,
Xin hãy sai Chúa Thánh Thần của Cha đến
Để chúng con có thể ăn và thưởng thức món quà Cha ban.
Xin hãy ban cho chúng con lương thực hằng ngày và bánh nuôi thần linh,
Nguyện xin Cha khơi dậy trong chúng con lòng khao khát
Về Cha, về Lời của Cha và bữa tiệc thánh của Cha,
Nơi Cha sẽ làm chúng con no nê với sự hiện diện của Cha,
Với tình yêu và lời chào mừng của Cha,
Trong niềm hân hoan của sự hiệp thông với các anh chị em mà Cha đã ban cho chúng con hôm nay,
Để chúng con có thể chia sẻ với họ tấm bánh vật chất và tinh thần.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Cơ sở và chìa khóa của bài đọc Thánh Kinh và Phụng Vụ:
*  Đoạn Tin Mừng của chúng ta chứa đựng một đặc điểm bất thường:  nó chỉ kể lại đoạn “được đánh bóng” trong các sách Tin Mừng.  Thật ra, nó được kể lại cả thảy là sáu lần (một lần trong các sách của Luca và Gioan, hai lần trong mỗi sách của Máccô và Mátthêu).  Độc lập với bất kỳ một thẩm định lịch sử quan trọng nào về việc lặp lại bất thường này, rõ ràng là truyền thống Kitô hữu tiên khởi đã chú trọng rất nhiều đến đoạn này.
*  Nhiều cuộc thảo luận đã diễn ra liên quan đến các sự nối kết văn học với những câu chuyện Tin Mừng khác, nhưng thực sự chúng ta không thể nói chắc chắn liệu có bất kỳ những liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp nào trong số những câu chuyện Tin Mừng khác nhau hay không.  Câu chuyện tương tự nhất với Tin Mừng Gioan dường như là văn bản đầu tiên trong sách Máccô (Mc 6:30-54), nhưng sách của Gioan có lẽ có một nguồn độc lập, mà ông đã sửa chữa lại để cho nó phù hợp với bài giảng theo sau đó.
*  Như thường lệ trong sách Tin Mừng thứ tư, một bài giảng về tầm quan trọng thần học to lớn được gán ghép chặt chẽ cùng với “dấu chỉ”, mà trong trường hợp này là một phép lạ.  Ở đây, bài giảng tiếp theo bao gồm hầu như toàn bộ chương thứ sáu: đó là bài giảng về “bánh hằng sống” (6:26-59), nguồn suy niệm thần học to lớn về bí tích Thánh Thể.
*  Xuyên qua văn bản, có một số điều nói đến các hoạt động, lời nói và ý tưởng đặc trưng của Phụng Vụ Kitô Giáo, do đó có vẻ như là có một mối liên hệ chặt chẽ giữa đoạn Tin Mừng này và phần phụng vụ truyền thống của việc cử hành Thánh Thể, đặc biệt là trong quan điểm thực tế mà Tin Mừng Gioan không nhắc đến việc thành lập bí tích Thánh Thể.
*  Trong chu kỳ phụng vụ năm nay, được dựa trên Tin Mừng Máccô, một loạt các bài Phúc Âm Chúa Nhật được trích từ sách Tin Mừng Gioan được đưa vào tại điểm này.  Việc chèn vào xảy ra đúng tại nơi mà người ta dự kiến sẽ có các bài đọc về bánh hóa ra nhiều.  Sự chọn lựa của bài đọc thứ nhất là một ví dụ điển hình của việc hỗ tương giữa các phần Kinh Thánh:  chúng ta có bánh hóa ra nhiều bởi tiên tri Êlisa (2V 4:42-44).  Sự tương đương giữa các phép lạ cũng hé sáng trên khía cạnh tiên tri của con người Chúa Giêsu.  Một lần nữa, bài đọc hai (Êp 4:1-6) nhấn mạnh đến khía cạnh của đời sống Thánh Thể của Giáo Hội:  sự hiệp thông được xây dựng xung quanh Chúa Kitô và được nuôi dưỡng bởi một tấm bánh Thánh Thể.
*  Các chủ đề chính của đoạn Tin Mừng này là những người liên quan đến biểu tượng của bánh và sự chia sẻ bữa ăn, nó cũng là một chiều kích cánh chung.  Các chủ đề quan trọng khác xuất hiện trong văn bản là những người tin vào Đức Giêsu và trong cách Người giải thích về lòng tin vào Đấng Cứu Thế, ở đây được diễn tả qua Cựu Ước trong hình ảnh của ông Môisen.  
b)  Tin Mừng:
1 Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. 2 Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. 3 Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4 Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. 5 Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philípphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" 6 Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. 7 Philípphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". 8 Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng:  9"Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". 10 Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. 11 Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. 12 Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". 13 Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.  14 Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian!"
15 Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
c)  Phần phân đoạn văn bản để giúp chúng ta hiểu rõ hơn:
Ga 6:1-4:  Lời giới thiệu về thời gian, nơi chốn và phần phụng vụ.
Ga 6:5-10:  Cuộc đối thoại chuẩn bị giữa Chúa Giêsu và các môn đệ.  
Ga 6:11-13:  Bữa ăn “hóa nhiều” và quá phong phú.
Ga 6:14-15:  Phản ứng của dân chúng và của Chúa Giêsu.


3.  Giây phút thinh lặng nội tâm và ngoại tại:

Để Lời Chúa được thấm nhập vào lòng trí và tâm hồn chúng ta.

*  Mùa xuân và mùa Phục Sinh đã trôi qua.  Bầu không khí vẫn còn trong lành và điều này làm dễ dàng hơn cho người ta theo dõi và lắng nghe vị thày cả làng Nagiarét giờ đây đã nổi tiếng, dù rằng gây ra nhiều tranh cãi.
*  Khi tôi đọc đi đọc lại, tôi nghe thấy có tiếng nói, nhưng vẫn nói “những điều khá lạ tai”:  làm sao mà có thể nuôi một đám đông dân chúng lớn lao như thế này được?
*  Một vài chiếc bánh và ít con cá … nhưng chúng ta không được đánh mất chúng, trong khi chúng ta chấp nhận để chia sẻ chúng.  Hãy nhìn kìa, chúng tăng bội lên khi chúng ta phân phát chúng!
*  Cuối cùng, chúng ta thu nhặt tất cả các thứ lại:  đó là công việc rất mệt mỏi, nhưng bánh ăn thì luôn luôn quý giá, ở mọi nơi và ở mọi lúc, đặc biệt là bánh này.
*  Tôi tiếp tục cuộc hành trình của tôi với Người, không ngừng nghỉ, với một tâm trạng thư thái và hạnh phúc bởi vì những điều tuyệt vời mà tôi đã trông thấy hôm nay, nhưng cũng với một số thắc mắc mới.  Tôi tiếp tục nhìn về Người và lắng nghe lời Người, tôi để cho tâm tư mình vang vọng lại các cử chỉ của Người, vẻ mặt của Người, giọng nói và lời của Người.

4.  Lời Chúa trao ban cho chúng ta

*  “Cuốn sách các dấu lạ” của quyển Tin Mừng thứ tư:  Đoạn Tin Mừng của chúng ta trích từ một phần của quyển Tin Mừng được biết đến như là “cuốn sách của các dấu lạ” (từ 1:19 đến 12:50), nơi mà chúng ta tìm thấy những lời mô tả và nhận xét về bảy “dấu lạ” tuyệt vời của sự tự mặc khải (semeion, một phép lạ hay hành động tiêu biểu) được thực hiện bởi Chúa Giêsu trong sách Tin Mừng này.  Các bài giảng và “các dấu lạ” có tương quan chặt chẽ với nhau:  bài giảng về thần học giải thích “những dấu lạ” và trong “những dấu lạ” chúng ta tìm thấy sự trình bày xác thực về nội dung của các bài giảng trong một tiến trình sâu sắc về sự mặc khải Thiên Chúa và hậu quả sự thù địch đối với Chúa Giêsu ngày càng gia tăng.
*  Chương Sáu của sách Tin Mừng Gioan:  Trong một nỗ lực để làm rõ niên đại và các chi tiết địa lý của Chương Sáu, một số người đề nghị rằng chúng ta thay đổi vị trí của các chương Năm và Sáu.  Tuy nhiên, điều này sẽ không giải quyết được tất cả các vấn đề.  Vậy thì tốt hơn là hãy gìn giữ và tôn trọng những gì truyền thống đã truyền lại cho chúng ta, hãy nhớ rằng những vấn đề biên tập-lịch sử đã dính líu vào, để không làm “một cái gì đó quá mức căng thẳng thì dường như không có sự quan trọng to tát đối với Thánh Sử” (R. Brown).  
*  Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là biển Tibêria:  Cái hồ được gọi bằng hai tên; tên đầu tiên là tên theo truyền thống, tên thứ hai thì được nhận bởi thánh Gioan trong Tân Ước (cũng trong 21:1), có lẽ  bởi vì nó đã xuất hiện gần đây trong cuộc đời của Chúa Giêsu và do đó, được phổ biến sau cái chết của Chúa và lan rộng đặc biệt trong số những người Hy Lạp.
*  Và một số đông dân chúng đi theo Người, bởi vì họ đã thấy những phép lạ mà Người đã làm trên những người mắc bệnh:  Trước đoạn này (2:23-35) chúng ta đã gặp một tình huống tương tự của những người tin vào Chúa Giêsu, họ đã trông thấy “các dấu lạ” Người đã làm.  Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu cho thấy rõ ràng rằng Người không tán thành động cơ thúc đẩy (2:24-25; 6:5, 26).
“Các dấu lạ” trên những người mang bệnh, cụ thể là việc chữa lành mà Chúa Giêsu đã làn tại miền Galilêa được Thánh Sử Gioan kể lại, ngoại trừ việc chữa lành cho con của viên sĩ quan cận vệ cho nhà vua (4:46-54), Tuy nhiên, với những lời này, Thánh Sử đã để cho nó được hiểu rằng ông đã không kể lại hết tất cả mọi sự kiện và ông đã chọn ra một ít trong số rất nhiều mà ông có thể truyền đạt lại cho các độc giả (xem 21:25).
*  Chúa Giêsu đi lên núi, và ngồi xuống với các môn đệ của mình:  Không có cách chi biết rằng núi nào.
Cảnh Chúa Giêsu, cũng như ông Môisen, ngồi vây quanh bởi các môn đệ mình, là một chủ đề tái diễn cũng được tìm thấy trong các sách Tin Mừng khác (xem Mc 4:1; Mt 5:1; Lc 4:20).  Hành động ngồi để giảng dạy thì thật là bình thường cho các thày rabbi, nhưng Tin Mừng Gioan – trái với Máccô 5:34 – không hề đề cập đến việc Chúa Giêsu đã giảng dạy trong dịp này.
*  Bây giờ Lễ Vượt Qua, lễ của người Do Thái, đã gần kề:  Sách Tin Mừng thứ tư đã ba lần nhắc đến việc cử hành Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu trong đời sống công khai của Người.  Đây là lần thứ hai (lần đầu: 2:13; lần thứ ba: 11:15) và chúng ta được cho biết những tình huống tôn giáo và thần học của mọi việc được nói và làm trong chương 6:  “Bánh được ban xuống” bởi Thiên Chúa chẳng hạn như manna, việc đi lên núi của Chúa Giêsu, giống như ông Môisen, đi ngang qua biển nước như trong cuộc xuất hành của người Do Thái (trong cảnh sau đây: 6:16-21), bài giảng về chủ đề bánh ban xuống bởi Thiên Chúa.  Liên quan tới mối quan hệ giữa bánh manna được ban cho người Do Thái trong sa mạc và bánh hóa ra nhiều, cũng có những tương đồng nói đến trong sách Dân số chương 11 (các câu 1, 7-9, 13, 22).
Một số hành động của Chúa Giêsu (ví dụ, bẻ bánh), cũng như nhiều chủ đề thần học được đề cập trong bài giảng sau đây, là tài liệu tham khảo rõ ràng cho các hoạt động phụng vụ của bữa ăn tối đầu tiên (seder) tại lễ Vượt Qua và cho các bài đọc phụng vụ trong hội đường trong ngày lễ.
Lễ Vượt Qua là một lễ hội vào mùa xuân, thật ra, Gioan lưu ý rằng “nơi có nhiều cỏ” (Ga 6:10; xem Mt 14:19 và Mc 6:39).
*  Trông thấy có nhiều đám đông dân chúng tuôn đến với Người:  Lúc bắt đầu câu chuyện, nó có vẻ như người ta đã đi theo Chúa từ trước, trong khi ở đây Gioan dường như muốn nói rằng đám đông dân chúng đang kéo đến.  Có lẽ đây lời giới thiệu về một trong các chủ đề yêu thích của Gioan và nó nhấn mạnh rất nhiều trong chương này:  đến với Chúa Giêsu, một diễn đạt đồng nghĩa với việc hoàn toàn giữ vững đức tin (3:21; 5:40; 6:35, 37, 45 và các nơi khác).
*  Chúa Giêsu nói với Philípphê … Anrê, em ông Simon Phêrô:  Đây là hai trong số Nhóm Mười Hai trong sách Tin Mừng này dường như có một vai trò đặc biệt (xem 1:44 và 12:21-22), ở trong các sách Tin Mừng khác thì các ông vẫn còn ở trong bóng tối.  Có vẻ như rằng các ông đã được đặc biệt tôn kính ở Tiểu Á, nơi mà sách Tin Mừng của Gioan đã được viết.
*  "Chúng ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?":  câu hỏi được đặt ra cho ông Philípphê có thể được biện minh bởi vì ông đến từ miền đất đó.
Nếu chúng ta giải thích câu hỏi này trong ý nghĩa các câu hỏi tương tự trong toàn bộ sách Tin Mừng (1:48; 2:9; 4:11; 7:27-28; 8:14; 9:29-30; 19:9), thì chúng ta sẽ khám phá ra sự quan trọng Kitô học của nó:  thắc mắc về tặng phẩm từ đâu đến thì cũng như đi tìm hiểu nguồn gốc của người ban tặng, trong trường hợp này là Chúa Giêsu.  Vì vậy, câu hỏi dẫn đến việc tìm kiếm nguồn gốc Thiên Chúa của Đức Giêsu.
*  Chúa hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm:  Việc “trắc nghiệm” phản ứng của người môn đệ được cho biết bởi một động từ(peirazein) thường mang một ý nghĩa tiêu cực, của sự cám dỗ, kiểm soát hoặc lừa dối.  Tuy nhiên, vai trò của câu này là để bảo vệ người đọc khỏi bất cứ một nghi ngờ nào rằng câu hỏi của Chúa Giêsu có thể được giải thích như là sự kém hiểu biết.
*  "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút":  Số tiền tương đương với tiền lương của một người lao động trong thời gian hai trăm ngày (xem Mt 20:13; 22:2).
Máccô (6:37) đặt nó trong một cách mà chúng ta có thể nghĩ rằng một số lượng bánh như vậy sẽ đủ cho nhu cầu hiện tại, nhưng thánh Gioan muốn nhấn mạnh đến sự cao quý của việc can thiệp của Thiên Chúa và việc thiếu cân đối của nguồn nhân lực.  Lời của ông Anrê sau đây cũng có cùng một mục đích:  “…nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người?"
*  “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”:  Đánh giá bằng sự nhỏ bé gấp đôi trong văn bản Hy Lạp (paidarion), bé trai thực sự là một đứa trẻ nhỏ:  một kẻ không có địa vị xã hội.  Cùng một thuật ngữ đã được dùng trong sách Các Vua quyển 2 (2V 4:12, 14, 25; 5:20) cho những người giúp việc của Elisa, Giezi.
Các ổ bánh lúa mạch, không giống như ổ bánh làm từ lúa mì, nói riêng là thực phẩm đơn giản và rẻ tiền, được dùng bởi người nghèo khó.  Có vẻ như rằng bữa ăn dành cho một người gồm có ba ổ bánh (xem Lc 11:5).  Cá khô (opsarion, một lần nữa việc sử dụng thuật ngữ nhỏ bé gấp đôi) là thức ăn thường đi chung với bánh mì.
*  “Cứ bảo người ta ngồi xuống… số đàn ông độ năm ngàn”:  Trong thực tế, theo phong tục thời bấy giờ, Chúa Giêsu ra lệnh cho họ “nằm xuống” hoặc “trải ra”:  bữa ăn phải được ăn trong thoải mái, cũng giống như nó được quy định trong bữa ăn nghi thức của lễ Vượt Qua và như trong các bữa tiệc theo truyền thống.  Tất cả các bài tường trình trong Tin Mừng về cảnh này chỉ đề cập đến số lượng đàn ông hiện diện ở đó.
*  “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn… và cá cũng được phân phát như thế”:  Những cử chỉ và lời này của Chúa Giêsu rất gần với các nghi thức bí tích Thánh Thể,  mặc dù chúng ta không thể nói rằng việc này bắt nguồn từ việc kia.
*  “Khi Người đã tạ ơn”  là một lời chuyển ngữ của phép Thánh Thể (Eucharistein), thường được sử dụng để phân biệt với Eulogein, ban phép, động từ được dùng bởi các sách Tin Mừng Nhất Lãm ở đây; động từ thứ nhất là đặc tính của môi trường Hy Lạp, trong khi động từ thứ hai phát xuất trực tiếp từ môi trường văn hóa Do Thái.  Nếu chúng ta kể đến ngôn ngữ được sử dụng vào thời gian các sách Tin Mừng được viết, thì chúng ta không thể nói rằng có những sự khác biệt đáng kể vể nội dung giữa các lời diễn tả, mặc dù lời diễn tả của Gioan, đối với chúng ta là những người quen thuộc với ngôn ngữ phụng vụ của Kitô giáo, là một lời nhắc nhở trực tiếp đến Bí Tích Thánh Thể hơn.  Điều này đúng đến nỗi mà tác giả sách Tin Mừng thứ tư sử dụng cùng một động từ trong đoạn 11:41, nơi mà chúng ta tìm thấy một số nhắc nhở về bí tích.
Là vị chủ tế tại bàn của nghi thức lễ Vượt Qua, đích thân Chúa Giêsu bẻ bánh và trao nó thẳng đến mọi người.  Trong cùng một cách, người sẽ làm việc này tại bữa tiệc ly.  Tuy nhiên, dường như tất cả mọi việc đã tiến triển theo cách các sách Tin Mừng Nhất Lãm mô tả:  Chúa Giêsu đã trao miếng bánh được bẻ ra cho các môn đệ để các ông có thể phân phát ra.  Thực ra, đám đông quá lớn cho Chúa có thể một mình làm việc chia bánh ấy.  Sau đó, Gioan muốn tập trung toàn bộ sự chú ý của độc giả của mình vào con người của Chúa Giêsu, thật sự và là Đấng duy nhất ban “bánh bởi trời”.
Chúng ta hãy theo sát thứ tự các sự kiện:  việc bánh hóa nhiều chỉ xảy ra sau khi bẻ bánh và việc bẻ bánh chỉ xảy ra sau khi một “bé trai” can đảm cho tặng tất cả các nguồn thực phẩm hằng ngày của mình.  Những ổ bánh nhỏ bé khó nghèo được hóa ra nhiều khi mà chúng được bẻ ra!  Chúa Giêsu hóa ra nhiều những gì chúng ta nhận lãnh, một cách hơi mù quáng, để chia sẻ với Người và với những người khác.
*  “Ai muốn bao nhiêu tuỳ thích… họ đã ăn no nê”:  Đó là sự phong phú được hứa hẹn bởi các tiên tri khi thời gian của tạm biệt hoặc bữa tiệc lễ hội cánh chung đến (ví dụ, Is 25:6; 30:23; 49:9; 56:7-9; Os 11:4; Sl 37:19; 81:17; 132:15).
Như vậy, đám đông đã không sai lầm khi họ nói về Chúa Giêsu rằng "Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian":  một tiên tri Đấng làm tròn lời hứa của Thiên Chúa về việc sai đến một tiên tri “như ông Môisen” (Đnl 18:15-18) và Đấng mở ra thời đại thiên sai chuẩn bị cho một bữa tiệc hào phóng và phong phú, như đã hứa bởi các ngôn sứ khi xưa.
*  "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi":  Các môn đệ xuất hiện ở nơi xảy ra với nhiệm vụ không để cho bất kỳ một mẩu bánh quý giá nào bị lãng phí.  Trong thực tế, điều này cũng có nghĩa là “mẩu bánh hay bị hư nát” và không thể nào so sánh với “bánh bởi trời” thực sự (xem 6:24).  Lệnh đi thu thập (synagein) các mẩu bánh vụn nhắc nhớ lại quy định liên quan đến bánh manna (xem Xh 16:16 và kế tiếp).
*  Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư:  Chúng ta không thể nói một cách chắc chắn có phải số lượng những thúng được kết nối với số lượng của các môn đệ không.  Điều chắc chắn là những lời này muốn nhấn mạnh một lần nữa đến sự phong phú tuyệt vời của thức ăn từ những chiếc bánh lúa mạch nhỏ bé được làm phép bởi Chúa Giêsu.  Gioan dường như chú ý rất ít đến hai con cá được phân phát cùng với các chiếc bánh, có lẽ bởi vì bài giảng theo sau thì hoàn toàn nói về bánh.
*  Khi người ta thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm:  Động cơ mà Gioan đưa ra lý do mà phép lạ được hữu hiệu không chỉ vì lòng thương xót với đám đông dân chúng; điều này đáng lẽ phải được hiểu rõ bởi các môn đệ hiện diện tại đó, tuy nhiên, theo Máccô (6:52 và 8:14-21) thì các ông đã không hiểu được ý nghĩa những gì đã xảy ra.  Sau đó, sách Tin Mừng thứ tư cho thấy “dấu chỉ” ý nghĩa của phép lạ.
*  Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ sắp sửa đến và bắt Người tôn lên làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình:  Trái ngược với các Tác Giả Phúc Âm khác, Gioan cho biết lý do cho việc biến mất đột ngột của Chúa Giêsu sau khi làm phép lạ:  Người muốn ngăn chặn việc vai trò của Người là Đấng Cứu Thế có thể bị “thất bại” vì các biểu lộ chính trị của đám đông.  Một lần nữa Chúa Giêsu quyết định sự chọn lựa rõ ràng cho riêng mình (xem Mt 4:1-10), mà Người sẽ lặp lại hành động này cho đến phút cuối trước mặt tổng trấn Philatô (19:33-37).      
        
5.  Một vài câu hỏi để hướng dẫn việc suy gẫm và thực hành của chúng ta  

a)  Bánh được hóa ra nhiều bởi vì một ai đó “rất nhỏ bé” đã có can đảm để từ bỏ những gì dính líu đến sự sống còn của mình (dù rằng ít ỏi, nó nhỏ bé như lòng khao khát của dân Do Thái sau đời sống tại Ai Cập) chấp nhận rủi ro thất bại hoặc sự mất mặt.  “Bé trai” của câu chuyện Tin Mừng tin tưởng vào Chúa Giêsu, dù rằng Chúa Giêsu đã không hứa hẹn bất cứ điều gì trong dịp này.  Liệu tôi, liệu chúng ta có sẽ làm như vậy chăng?  
b)  Chú bé là một kẻ tầm thường, các chiếc bánh thì ít ỏi và những con cá thì càng ít hơn nữa.  Trong đôi bàn tay của Chúa Giêsu, tất cả mọi thứ trở nên tuyệt vời và xinh đẹp.  Có một sự thiếu cân đối to lớn giữa những gì chúng ta đang có và những gì Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta, nếu chúng ta đặt bản thân mình trong đôi tay của Ngài.  “Không có sự gì là bất khả thi đối với Thiên Chúa”:  không chuyển đổi những con tim chai đá nhất, không biến đổi sự dữ thành một công cụ cho việc lành…  Thiên Chúa san bằng mọi sự thiếu cân đối giữa chúng ta và Ngài.  Tận trong đáy lòng tôi, tôi có thực sự tin điều này không, ngay cả khi mọi việc dường như có vẻ mâu thuẫn không?
c)  Nguyên liệu của bánh được ban bởi Thiên Chúa chỉ cho chúng ta đến bánh chúng ta nên chia sẻ với rất nhiều người, nam cũng như nữ, là những người chúng ta cùng sống chung trên trái đất này và chung những nguồn tài nguyên mà chúng ta phí phạm không luyến tiếc, họ liều mạng cố gắng tìm cho được một lát bánh mì. Khi chúng ta cầu nguyện “xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chúng ta có ít ra nghĩ đến những kẻ không có của ăn và làm cách nào mà chúng ta có thể giúp họ chăng?
d)  Cái đói thể xác và nguyên liệu làm bánh cũng nhắc nhở chúng ta về việc “đói khát Thiên Chúa” và bữa tiệc cánh chung.  Đây là những chân lý mà chúng ta thường loại trừ ra khỏi suy nghĩ của mình bởi vì chúng ta ưa nghĩ rằng chúng quá xa vời và viễn vông đối với chúng ta.  Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn giữ chúng trong tâm trí, thì chúng sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị tương đối của rất nhiều sự kiện và vấn đề mà dường như to tát hơn cả chính chúng ta, và để sống một đời sống thanh thản hơn, chỉ bận tâm với những gì là cần thiết.  Khi trong việc cử hành bí tích Thánh Thể chúng ta nói:  “…chúng con chờ đợi trong hân hoan hy vọng”, chúng ta có thực sự sốt sắng chờ đợi cho sự trở lại vinh quang của Đấng yêu thương chúng ta và ngay cả bây giờ vẫn chăm sóc cho chúng ta không? 

6.  Chúng ta hãy cầu nguyện (Thánh Vịnh 147) 

Hãy ca tụng Thiên Chúa trong bài thánh ca với hương vị Lễ Vượt Qua dâng lên Ngài là Đấng ban phát lương thực và tất cả mọi hình thức mưu sinh cho “những kẻ bé mọn” dân riêng của Ngài và cho tất cả mọi loài thụ tạo.
Hãy ca ngợi CHÚA đi!
Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào!
Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy!
CHÚA là Đấng xây dựng lại Giêrusalem,
quy tụ dân Ísrael tản lạc về.
Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ,
những vết thương, băng bó cho lành.
Người ấn định con số các vì sao,
và đặt tên cho từng ngôi một.
Chúa chúng ta thật là cao cả,
uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường!
Kẻ thấp hèn, CHÚA nâng đỡ dậy,
bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen.
Hãy dâng CHÚA bài ca cảm tạ,
gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta.
Chúa kéo mây bao phủ che kín cả bầu trời,
Người chuẩn bị cho mưa rơi xuống trên mặt đất.
Chúa khiến mọc cỏ xanh trên những miền đồi núi,
và các loài thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Chúa cho loài gia súc có đầy đủ thức ăn,
bầy quạ non kêu đói cũng luôn được no mồi.
Vó ngựa phi, Chúa không ưa chuộng,
chẳng thích gì chân kẻ chạy nhanh,
nhưng ưa chuộng những ai kính sợ CHÚA,
và trông cậy ở tình thương của Người.
7.  Lời Nguyện Kết

Từ những ngày đầu tiên, Giáo Hội đã cử hành Bí Tích Thánh Thể như bữa ăn của Lễ Vượt Qua của Chúa nơi mà lặp lại sự kiện bánh hóa nhiều.  Do đó, lời nguyện kết hôm nay của chúng ta là lời nguyện được thừa kế từ các Kitô hữu của thế kỷ thứ nhất:

Lạy Cha chúng con, chúng con cảm tạ Cha vì sự sống và sự thông hiểu Cha đã mặc khải cho chúng con qua Đức Giêsu, Con Cha.  Chúc tụng vinh danh Cha đến muôn đời.
Như bánh được bẻ ra đã rải rác đây đó trên các đồi nương và khi được thu nhặt lại đã trở nên một, vì vậy giờ đây xin cho Giáo Hội Cha từ tận cùng trái đất được tụ tập với nhau trong Nước Cha;
Vì Cha là Đấng quyền năng và vinh hiển, qua Đức Giêsu Kitô đến muôn thuở muôn đời.
Lạy Cha chí thánh, chúng con xin tạ ơn Cha,
Vì Danh Thánh Cha, Cha đã ngự vào lòng chúng con,
Vì sự hiểu biết, đức tin, và sự bất tử
Mà Cha đã mặc khải cho chúng con qua Đức Giêsu, Con Cha.
Chúc tụng Cha Đấng Vinh Hiển muôn đời.
Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng, Cha đã tạo dựng nên vạn vật vì Danh Cha cả sáng;
Cha đã ban lương thực cho nhân loại được sinh sống, để họ có thể cảm tạ Cha;
Nhưng đối với chúng con, Cha đã ban cho chúng con lương thực thiêng liêng và sự sống đời đời qua Con Cha.
Vì tất cả những điều này, chúng con xin tạ ơn Cha, vì Cha là Đấng toàn năng.
Vinh danh Cha đến muôn thuở muôn đời.
Lạy Cha, xin nhớ đến Hội Thánh Cha,
Bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi sự dữ
Và làm cho nên toàn thiện trong tình yêu của Cha;
Thánh hóa, quy tụ lại từ bốn phương trời trong Nước Cha,
Nơi đã được Cha chuẩn bị cho.
Vì Cha là Đấng quyền năng và vinh hiển muôn đời.
Xin Cha ban ơn xuống, và xin cho đời này qua khỏi.
Chúc tụng Chúa của dòng dõi Đavít.

(Trích Giáo Huấn của Mười Hai Tông Đồ, Chương 9-10)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét