19/04/2016
Thứ Ba tuần 4 Phục Sinh
Bài Ðọc
I: Cv 11, 19-26
"Họ
cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người
phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời
Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở
Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp
nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu
tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và
thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng
tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có
đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi,
liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy
cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên
là Kitô hữu.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 86, 1-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa
(Tv 116, 1a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Chúa yêu cơ sở Ngài thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi
cư xá nhà Giacóp. Hỡi thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển
hách về ngươi. - Ðáp.
2) Ta
sẽ kể Rahab và Babel vào số người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân
Êthiôpi: những người này đã sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng:
"Riêng từng người và hết mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng
cố thành này". - Ðáp.
3)
Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra
tại đó". Và khi ca vũ, người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của
tôi đều ở nơi ngươi". - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Chúa Kitô, Ðấng tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân
loại. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 10, 22-30
"Tôi
và Cha Tôi là một".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy,
người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi
bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói:
"Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì
xin ông nói rõ cho chúng tôi biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với
các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về
Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên
Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống
đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi
tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có
thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Ta Và Cha Là Một
"Ta ban cho chúng được sự sống đời đời, Ta
ban cho những ai tin Ta có sự sống đời đời, không ai cướp được chúng khỏi tay
Ta. Ta và Cha là một" (Ga 10,28-30).
Ðây
là một thực tại cao cả nơi cuộc sống của những người tin vào Chúa, và Chúa
Giêsu muốn mạc khải cho những người Do Thái đến hỏi Chúa: "Ông để chúng
tôi phân vân đến bao giờ nữa, nếu ông là Ðức Kitô thì hãy nói trắng ra cho
chúng tôi biết" (Ga 10,24). Thánh Gioan đã đặt những lời mạc khải trên của
Chúa Giêsu về thực tại đời sống Ðức Tin của người Kitô hữu vào dịp lễ cung hiến
Ðền Thờ Giêrusalem, và như ta đã biết, cổng đền thờ là nơi các thầy thông luật Do
Thái đến để giải thích lề luật cho dân chúng, do đó Chúa Giêsu đến đây để giảng
dạy cho dân chúng. Nhưng hơn ai hết, Chúa Giêsu là một vị thầy hơn mọi vị thầy
thông luật của Israel thời đó, vì Con Thiên Chúa Lam Người đã hiện diện nơi đó
không những để giảng dạy lề luật, mà còn là Ðấng thay thế cho các bậc thầy vĩnh
viễn. Như lời Chúa đã phán: "Chúng con không có vị thầy nào khác vì Thầy
là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6).
Hơn nữa,
dịp tụ họp dân chúng nơi cổng Salomon ở đền thờ là dịp lễ cung hiến đền thờ
Giêrusalem. Lễ cung hiến đền thờ có ý nghĩa gì đối với người Do Thái? Thưa, đây
là một trong những lễ trọng của người Do Thái vì để ghi dấu đền thờ Giêrusalem
trước đó đã bị ô uế, bị xúc phạm, nay thánh hiến lại để bắt đầu trở lại sinh hoạt
tôn giáo. Lễ cung hiến đền thờ nhắc cho người dân nhớ lại sự phục hưng tôn giáo
được những sứ giả của Chúa là anh em Macabê thực hiện vào năm 146 trước Chúa
Giáng Sinh. Vào năm 170 đền thờ đã bị vua Syria làm ô uế, làm nơi dâng lễ vật
cho thần ngoại bang Hy Lạp vì thế mà đã xúc phạm đến Thiên Chúa chân thật. Giờ
đây đền thờ cung hiến được lại là để nhắc nhớ lại khung cảnh tôn giáo và địa điểm
cung thánh giảng dạy là cổng Salomon.
Như vậy,
thánh Gioan muốn nhắc lại một cách kín đáo cho các độc giả của ngài về chương
trình hay những ý định sâu xa của Chúa Giêsu, đó là lúc Chúa Giêsu muốn mạc khải
sự thật về ơn cứu rỗi, hầu khai mạc một thời đại mới, thời đại phục hưng tôn
giáo dựa trên đức tin vào Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Khi ấy
ở Giêrusalem dịp cung hiến đền thờ bấy giờ là vào mùa đông, và Chúa Giêsu đã đi
đi lại lại ở cổng đền thờ Salomon. Sau những câu nhập đề mô tả khung cảnh tôn
giáo như vậy, thánh Gioan kể tiếp thắc mắc của người Do Thái, bấy giờ người Do
Thái vây quanh Chúa Giêsu và hỏi: "Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa,
nếu ông là Ðức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết".
Thánh
Gioan thường dùng từ ngữ những người Do Thái để chỉ những kẻ không tin Chúa,
không những không tin mà còn có ý đồ xấu bắt bẻ lời Chúa và âm mưu làm hại Người.
Xem ra họ muốn tìm hiểu về Chúa nhưng thực sự là họ có ý đồ xấu, muốn nghe
chính Chúa nói mình là Con Thiên Chúa, là Ðấng Kitô để tố cáo Ngài. Nói phạm
thượng và tội phạm thượng là tội đáng bị xử tử theo luật Do Thái, họ muốn có bằng
cớ thêm để tố cáo "Ông này là người mà dám xưng mình là Con Thiên
Chúa" (Ga 5,18). Ðó là lời tố cáo sau này được nói lên khi luận xử Chúa
Giêsu trước khi đóng đinh Ngài vào Thập Giá như chúng ta đã biết.
Chúa
Giêsu đã phơi trần âm mưu của họ: "Ta đã nói với anh em rồi mà anh em
không tin, vì các anh không phải là chiên Ta" (Ga 10,25-27). Lời nói và việc
làm của Chúa mà người Do Thái thấy tận mắt tai nghe từ khi Chúa Giêsu rao giảng
cho đến lúc này đã quá đủ mạc khải Ngài là ai rồi. Nếu những kẻ nghe và nhận thấy
Chúa Giêsu có một tâm hồn sẵn sàng, đó là tâm hồn yêu thương gắn bó với người
chủ chăn. Không có thái độ nội tâm sẵn sàng thì không có thái độ đón nhận Lời
Chúa mạc khải và cũng không tin nhận Ngài. Mà nếu không tin nhận Chúa làm sao
có được sự sống đời đời, làm sao gắn bó kết hợp mật thiết với Chúa được. Còn đối
với những kẻ tin nhận Chúa thì được một lời bảo đảm vô cùng quan trọng:
"Không ai có thể cướp khỏi Cha được" (Ga 10,29-30).
Sống
tin tưởng vào Chúa là một bảo đảm chắc chắn cho những ai yêu mến Ngài. Lạy Chúa,
xin cho con luôn kết hợp với Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời. Amen.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba
Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 11:19-26; Jn 10:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ai thuộc về đoàn chiên của Thiên Chúa
nghe tiếng Chúa Giêsu.
Có những
tiếng nói hay tiếng cười đã quá quen thuộc khiến con người chẳng cần nhìn cũng
nhận ra người đang nói hay đang cười là ai. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu hiện ra với
Mary Magdala, Chúa chỉ cần gọi một tiếng ngắn ngủi: “Mary.” Bà nhận ra ngay và
kêu lên: “Lạy Thầy!” Trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người cũng thế.
Vì Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh và các đức tính của Ngài, con
người theo tính tự nhiên dễ hướng chiều về sự thật, về yêu thương và tha thứ,
và nhất là về Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người.
Các
Bài Đọc hôm nay muốn nói lên mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và con người.
Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng
của các môn đệ Chúa: Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở
lại cùng Chúa; không chỉ những người Do-thái, mà còn rất nhiều Dân Ngoại. Chính
tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu tuyên bố với các đối phương của Ngài: "Chiên của tôi thì nghe
tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Vì có bàn tay Chúa ở
với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.
1.1/ Tin
Mừng bắt đầu được loan truyền ra ngoài lãnh thổ của Do-thái: Sau cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông
Stephanô, các môn đệ phải tản mác đi đến tận miền Phoenicia, đảo Cyprius và
thành Antioch. Họ không rao giảng Lời Chúa cho ai ngoài người Do-thái. Nhưng
trong nhóm, có mấy người gốc Cyprius và Cyrene; những người này, khi đến
Antioch, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giêsu cho họ.
Điều
làm chúng ta ngạc nhiên là sự trở lại của rất nhiều người và trong nhiều trường
hợp rất ly kỳ, như sự trở lại của Phaolô, của viên Thái Giám người Ethiopia, và
của viên Đại Đội Trưởng người Roma. Trình thuật hôm nay cho chúng ta lý do
chính xác của các cuộc trở lại: "Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số
đông đã tin và trở lại cùng Chúa." Nói cách khác, những người này luôn
khao khát sự thật, khao khát được biết về Thiên Chúa, và khao khát được sống
muôn đời; nên khi họ nghe những lời các môn đệ của Chúa rao giảng Tin Mừng, họ
nhận ra ngay những khao khát của họ được đáp ứng, nên họ tuyên xưng đức tin và
chịu Phép Rửa.
1.2/
Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu: Khi Hội Thánh tại Jerusalem nghe tin nhiều
người trở lại tại Antioch, họ cử ông Barnabas đi Antioch để thành lập cộng đoàn
tại đó. "Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Barnabas mừng rỡ
và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, vì ông là người tốt, đầy ơn
Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa." Tên của
ông Barnabas có nghĩa "con của khuyên nhủ," vì ông được Chúa ban cho
có biệt về "khuyên nhủ." Điều này cho ta thấy người mục tử phải là
người sống gần gũi với Thiên Chúa, trước khi có thể dẫn dắt con người đến với
Thiên Chúa. Nếu người mục tử không nghe được tiếng Thiên Chúa, làm sao ông có
thể giảng giải cho dân và khuyên nhủ họ đến với Ngài?
Sau
đó, ông Barnabas trẩy đi Tarsus tìm ông Phaolô. Khi tìm được rồi, ông đưa ông
Phaolô đến Antioch. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng
dạy cho rất nhiều người. Sứ vụ của hai ông tại Antioch khởi sự cho sứ vụ rao giảng
Tin Mừng đặc biệt cho Dân Ngoại. Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ
được gọi là Kitô hữu. Danh xưng này có nghĩa là những người theo Đức Kitô. Để
theo Ngài, họ cần biết nghe và thực hành những gì Ngài giảng dạy, chứ không phải
chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa. Nói cách khác, họ là những môn đệ của Đức
Kitô, và có bổn phận phải họa lại cuộc đời của Ngài cho người khác thấy và tin
vào Ngài.
2/
Phúc Âm: Chiên của tôi thì
nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.
2.1/ Người
Do-thái thắc mắc về căn tính của Chúa Giêsu: "Khi ấy, ở Jerusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến
Đền Thờ. Bấy giờ là mùa Đông. Đức Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành
lang Solomon. Người Do-thái vây quanh Đức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng
trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói
công khai cho chúng tôi biết." Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ cũng là ngày lễ hội
ánh sáng (Hanukka) của người Do-thái. Họ cử hành lễ để tôn vinh ánh sáng vì
ngày trở nên ngắn và đêm tối trở nên dài hơn (tháng 12). Ánh sáng và bóng tối
có một ý nghĩa đặc biệt trong Gioan.
Tại
sao cũng những lời rao giảng của Chúa Giêsu, mà có người tin vào Ngài, và có những
người không tin vào Ngài? Thái độ cần phải khiêm nhường khi đi tìm sự thực là
điều quan trọng, vì nếu đã hãnh diện biết rồi, còn cần gì phải đi tìm nữa! Khi
người Do-thái hỏi Chúa Giêsu câu hỏi như trên, họ không có ý nhiệt thành muốn
đi tìm sự thực; nhưng coi Chúa Giêsu như lý do làm họ phải nhức đầu, và họ
không muốn thay đổi lề lối suy nghĩ của họ. Với một thái độ như thế, làm sao họ
có thể học hỏi những gì Chúa Giêsu muốn mặc khải cho họ! Lý do khác làm họ cứng
lòng vì họ muốn ở trong bóng tối (Jn 3:19-20).
2.2/ Mối
liên hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, và với con người:
(1)
Liên hệ giữa Chúa Giêsu và con người: Chúa Giêsu thẳng thắn cho họ biết lý do tại
sao họ không nghe Ngài: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin.
Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng
các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi
thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống
đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi
tay tôi." Họ không tin Chúa Giêsu không phải vì không có các lý do chắc chắn
để tin; nhưng vì họ từ chối không chịu lắng nghe và suy nghĩ những gì Chúa
Giêsu đã nói và đã làm. Họ muốn thấy dấu lạ, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu lạ. Họ
muốn nghe lời chân lý, Chúa Giêsu đã mặc khải bao nhiêu sự thật của Thiên Chúa.
Nếu những người thiện chí muốn đi tìm sự thật, họ đã nhận ra Ngài đến từ Thiên
Chúa từ lâu rồi. Nhưng họ đã nhìn và đã nghe đến độ Chúa phải dùng lời tiên tri
Isaiah mà nói: "Chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy
và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành" (Jn
12:40).
(2)
Liên hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha: Chúa nói: "Cha tôi, Đấng đã ban
chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa
Cha. Tôi và Chúa Cha là một."
Trong
Kế Hoạch Cứu Độ, con người được Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu bằng cách tạo cơ hội
để họ nghe Chúa Giêsu rao giảng; đồng thời ban Thánh Thần để họ nhận ra sự thật
và thúc đẩy họ tin vào Đức Kitô. Vì thế, cả hai: Chúa Cha và Chúa Con đều hoạt
động cho cùng một mục đích là để con người có thể tin vào Đức Kitô và được hưởng
cuộc sống muôn đời. Khi các tín hữu đã tin vào Đức Kitô, Ngài sẽ bảo vệ họ; nếu
họ trung thành nghe tiếng Ngài hướng dẫn, không một quyền lực nào có thể động đến
các tín hữu, và cuộc sống muôn đời là của họ (Jn 6:39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta có bổn phận loan truyền Lời Chúa cho mọi người và cho mọi dân tộc trên
thế giới; vì tất cả được Thiên Chúa dựng nên và có khả năng để đón nhận sự thật.
-
Chúng ta là đoàn chiên của Đức Kitô, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra tiếng
của Ngài, và theo sự hướng dẫn của Ngài, thì mới mong tránh được mọi nguy hiểm
trong cuộc đời.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
19/04/16 THỨ BA TUẦN 4 PS
Ga 10,22-30
Ga 10,22-30
Suy niệm: Trả lời cho viên sĩ quan cai ngục về nguồn gốc
của mình, cha Kôn-bê dõng dạc nói: “Tôi là một linh mục Công Giáo”. Lời tuyên
bố này được minh chứng bằng những việc bác ái ngài thực hiện trong tù, đặc biệt
bằng hành động chết thay cho một người bạn tù đáng thương. Hành vi bác ái ấy
minh chứng cha Kôn-bê thuộc về Thiên Chúa và là môn đệ Chúa Giê-su. Chúa Giê-su
luôn thể hiện nguồn gốc của mình thuộc về Chúa Cha, bằng lời giảng dạy và việc
làm. Đời sống của Ngài khiến những người đương thời nhìn nhận nơi Ngài không có
điều gì gian dối, là “người vô tội” và là “Con Thiên Chúa”. Việc của Ngài làm
chứng minh nguồn gốc của Ngài.
Mời Bạn: Là
Ki-tô hữu nghĩa là được chọn để thuộc về Đức Ki-tô, thuộc về Thiên Chúa. Trong
khuôn viên nhà thờ quen thuộc, chúng ta dễ dàng để tuyên xưng như thế. Nhưng có
những lúc rất ngại để nói mình là Ki-tô hữu, vì những việc chúng ta làm nghịch
lại với nguồn gốc và ơn gọi của mình. Bạn sẽ nói thế nào về nguồn gốc Ki-tô hữu
của bạn khi đời sống của bạn không phù hợp với đức tin bạn tuyên xưng?
Chia sẻ: Người
ta hãnh diện về tài năng, nguồn gốc của họ. Sao bạn ngại ngùng về nguồn gốc
Ki-tô hữu của bạn?
Sống Lời Chúa: Thực
hiện Lời Chúa dạy bằng hành động cụ thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh, xin
giúp con mạnh dạn sống Lời Chúa dạy, để con vui sướng khi tỏ dấu con thuộc về
Chúa.
Không ai cướp được chúng
Chúng ta làm gì để cộng tác
với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ? Hãy tin vào Giêsu và nhận ra giọng
nói của Giêsu để khỏi bị lừa
Suy
niệm:
Có
những Kitô hữu theo đạo để mong tránh sóng gió của cuộc đời.
Nhưng
đã có lần con thuyền chở Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn,
nước
tràn vào khiến thuyền gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng.
Theo
Chúa đâu phải để tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão.
Theo
Chúa đâu phải để khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Cuộc
sống của người Kitô hữu không tránh khỏi những khó khăn
mà
những người không Kitô hữu phải đối mặt mỗi ngày.
Hơn
nữa, người Kitô hữu còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Có
những cơn bão ập đến bất ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu.
Làm
chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu
không
có nghĩa là được hưởng một sự êm ả dễ chịu.
Được
ở trong ràn chiên của Chúa,
không
có nghĩa là được yên ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Đức
Giêsu đã nói đến chuyện kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà vào (c.10).
Chúng
đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn chiên (c. 10).
Khi
được dẫn đi ăn nơi đồng cỏ, chiên còn phải đối đầu với sói dữ.
“Sói
cướp lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (c. 12).
Đức
Giêsu khẳng định mình không phải là người làm thuê,
nên
khi sói đến, Ngài không bỏ chiên mà chạy.
Chiên
là điều quý giá đối với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần:
“Tôi
hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (cc. 11.15.17.18.).
Và
thực sự Ngài đã làm điều đó trên thập giá.
Rõ
ràng bảo vệ đoàn chiên là chuyện mấy chẳng dễ dàng.
Nếu
Đức Giêsu, người mục tử nhân hậu mà bất khuất,
đã
phải hy sinh mạng sống cho đoàn chiên,
thì
hẳn cuộc chiến giằng co phải rất là ác liệt.
Kẻ
thù của chiên chẳng phải là kẻ kém cỏi tầm thường.
Trong
cuộc chiến để bảo vệ chiên, còn có sự hiện diện của Cha.
Chiên
là của Cha và Cha đã giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29).
Cha
và Con cùng hợp tác để bảo vệ đoàn chiên,
không
để ai cướp chiên ra khỏi vòng tay che chở của mình (cc. 28-29).
Cha
và Con một lòng một ý trong nhiệm vụ này (c. 30).
Việc
bảo vệ chiên còn kéo dài mãi đến tận thế.
Chúng
ta làm gì để cộng tác với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ?
Hãy
tin vào Giêsu và nhận ra giọng nói của Giêsu để khỏi bị lừa.
Hãy
theo sát sự dẫn đường của Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết.
Và
hãy tin vào Chúa Cha, Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa
đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế
gian này vàng thau lẫn lộn.
Có
khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ
được vị mặn của muối,
và
sức tác động của men,
để
đem đến cho thế gian
một
linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ
sợ mình bỏ sống đạo
vì
bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng
con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những
người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì
xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của
người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
19
Tháng Tư
Trò Chơi Hòa Bình
Một
ngày kia, trên con đường đi bách bộ ngang qua một sân chơi, ông Marschak, một
nhà văn Liên Xô, dừng lại quan sát các trẻ em vừa lên sáu, lên bảy đang chơi
đùa với nhau trên sân cỏ.
Thấy
chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi: "Này các em, các em đang chơi
trò gì đó?". Bọn trẻ nhôn nhao trả lời: "Các em chơi trò đánh
nhau".
Nghe
thế, ông Marschak hơi cau mày. Rồi ra dấu cho các em đến gần, ông ôn tồn giải
thích: "Tại sao các em chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các em biết chứ, đánh
nhau hay chiến tranh có gì đẹp đẽ đâu. Các em hãy chơi trò chơi hòa bình xem
nào".
Ông
vừa dứt lời, một em bé reo lên: "Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình
một lần xem sao". Rồi cả bọn kéo nhau chạy ra sân, chụm đầu nhau bàn tán.
thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn Marschak tỏ vẻ hài lòng, mỉm cười
tiếp tục cất bước. Nhưng không được bao lâu, ông nghe có tiếng chân chạy theo.
Và chưa kịp quay lại, ông nghe một giọng trẻ em hỏi: "Ông ơi, trò chơi hòa
bình làm sao? Chúng cháu không biết".
Vâng,
làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình khi chúng chỉ thấy người lớn
"chơi trò chiến tranh". Khi chúng thấy các anh lớn lên đường thi hành
nghĩa vụ quân sự trong lúc đất nước không còn một bóng quân thù.
Làm
sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi mỗi ngày chúng thấy trên truyền
hình, trên các mặt báo hình ảnh của những người lớn bắn giết nhau, thủ tiêu
nhau, ám sát nhau.
Làm
sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi trong chính gia đình chúng thấy
anh chị, thậm chí đôi khi cả cha mẹ chúng lớn tiếng cãi vã, mắng chửi nhau. Có
khi họ dùng cả tay chân để thay lời nói. Trong thức tế, bầu khí người lớn tạo
ra để cho các trẻ em lớn lên không phải là bầu khí hòa bình.
Ðến
bao giờ thế giới của người lớn mới hiểu và thực tâm tìm phương thế giải quyết sự
mâu thuẫn: là hằng ngày thế giới của người lớn bỏ ra cả tỷ Mỹ kim cho việc
nghiên cứu và trang bị về vũ khí.
Trong
khi đó, trên thế giới có 800 triệu người sống dưới mức tối thiểu cần thiết cho
con người, nghĩa là họ đang bị đe dọa chết đói. Có 600 triệu người trên thế giới
đang bị mù chữ. Chỉ có 4 trong số 10 trẻ em được cắp sách đến trường tiểu học
trong hơn ba năm. Và cứ 10 đứa trẻ sinh ra trong cảnh cơ hàn thì 2 trẻ bị chết
trong năm đầu tiên.
Vâng,
thế giới người lớn phải bắt đầu loại bỏ chiến tranh và xây dựng hòa bình, nếu họ
muốn trẻ con cũng noi gương chơi trò chơi ấy.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét