20/04/2016
Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh
Bài Ðọc
I: Cv 12, 24 - 13, 5a
"Hãy dành Saolô và Barnaba riêng cho Ta".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, lời Chúa được lan rộng và tiến
triển. Nhưng Barnaba và Saolô, sau khi hoàn tất sứ mạng, đã rời Giêrusa-lem,
đem theo Gioan cũng gọi là Marcô.
Bấy giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri
và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành
Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông
làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng:
"Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định".
Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên
đường.
Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xêlêucia, rồi
từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao giảng lời Chúa trong
các hội đường Do-thái.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Ðáp: Chư dân,
hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc
lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để
trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được
biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công
bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy
chư dân hãy ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho
khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại và chiếu
soi chúng ta, là những kẻ Người đã cứu chuộc bằng máu của Người. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 12, 44-50
"Ta là sự sáng đã đến thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin
vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy
Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta,
người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì
không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế
gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta,
thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Bởi
vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh
cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống
đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tin Con Là Tin Cha
Anh chị em thân mến!
Lần nọ, một nhóm giáo sĩ Công giáo Trung Hoa đã nhờ
giáo sư Kinh Thánh từ Mỹ đến giúp họ khóa học về Thánh Kinh. Mở đầu cho khóa học,
vị giáo sư đề nghị nhóm giáo sĩ tìm ra bất kỳ một đoạn Tin Mừng nào mà họ cảm
thấy đánh động mình nhất. Trước sự ngạc nhiên của vị giáo sư, nhóm người ấy họ
không chọn bài giảng trên núi, hay cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hoặc biến cố Phục
Sinh của Ngài. Nhưng họ lại chọn câu chuyện rửa chân cho các môn đệ. Và cũng chẳng
phải là ngẫu nhiên mà sự chọn lựa của nhóm giáo sĩ người Trung Hoa này đã mang
một ý nghĩa thật trùng hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm
nay.
Anh chị em thân mến!
Bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm lược cách tổng quát
về những lời rao giảng công khai của Chúa. Chúa Giêsu đã nhắc đến hai điểm chính
yếu là: "Tin Ngài là tin Chúa Cha và thấy Ngài là thấy Chúa Cha".
Tin Chúa thì sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời, vì đức
tin là ánh sáng, không tin thì sống trong tối tăm. Từ chối không tin Con Người
thì tự kết án mình, mặc dù Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi. Không
ai có thể thoát ra khỏi sự xét xử cuối cùng này, và sự xét xử ấy là bởi thái độ
do con người tin nhận hay từ chối từ Thiên Chúa: "Ai nghe lời Ta mà không
tin giữ thì không phải Ta kết án kẻ đó, nhưng chính Lời Ta sẽ xét xử nó"
(Ga 12,47-48), không ai có thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ
đến trong ngày sau hết.
Trong cuộc sống, Thiên Chúa luôn kêu mời con người
trở về với Ngài sau những lần sa ngã hay lúc họ chối từ Ngài, thời giờ chúng ta
đang sống là thời giờ của lòng nhân từ thương xót Chúa. Ước gì mỗi người chúng
ta đừng lạm dụng lòng nhân từ Chúa, đừng khinh dể bỏ qua ơn soi sáng của Ngài.
Qua đoạn Phúc Âm trên, thánh sử cho thấy rõ ý Chúa muốn nói với mỗi người, đó
là Ngài muốn chúng ta lắng nghe lời Ngài và sống kết hợp với Ngài "biết giới
răn Cha Ta là sống đời đời" (Ga 12,50).
Lạy Cha là Ðấng Toàn Năng Hằng Hữu, Cha đã đặt vào
tâm hồn con người một niềm khao khát sâu xa về Cha, đến độ con người sẽ được an
bình chỉ khi nào họ đến gặp Cha. Xin Cha hãy thương làm sao để cho con người vượt
qua những thử thách, những trở ngại mà nhìn nhận những dấu chỉ về lòng nhân từ
của Cha, và có được niềm vui khi chân nhận Cha là Thiên Chúa duy nhất, Cha là Ðấng
chân thật của mọi người. Amen.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 12:24-13:5; Jn 12:44-50.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sẵn sàng vâng lời Thiên Chúa.
Có rất nhiều khác biệt giữa lời của Thiên Chúa và lời
của con người: Lời của Thiên Chúa khôn ngoan tuyệt đỉnh, không thay đổi, và
mang lại sự sống cả đời này và đời sau; trong khi lời của con người không thể
khôn ngoan bằng Lời Chúa, thay đổi, chưa chắc đã mang lại sự sống đời này, và
không thể mang sự sống đời sau.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết vâng lời
Thiên Chúa qua sự thúc đẩy của Thánh Thần và thực thi những gì Chúa Giêsu nói.
Trong Bài Đọc I, tuy Hội Thánh Antioch mới lập, nhưng họ sẵn sàng theo sự hướng
dẫn của Thánh Thần, hy sinh Barnabas, Phaolô, và Gioan Marcô, để các ông lên đường
rao giảng Tin Mừng đến các nơi chưa được nghe. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên
bố: Ngài chỉ nói những gì Ngài nghe được nơi Thiên Chúa. Vì thế, tuân giữ Lời
Ngài là tuân giữ Lời Thiên Chúa; nếu không, những Lời này sẽ trở nên quan tòa
xét xử con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Hội Thánh tại Antioch vâng lời Thiên Chúa.
1.1/ Lời Chúa tiếp tục lan tràn và phát triển đến mọi
nơi: Đây là mục đích trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa nên Ngài tạo mọi cơ
hội cho các sứ giả loan báo Tin Mừng. Vài ví dụ cho chúng ta thấy điều này: Phải
có cuộc bách hại tại Jerusalem sau khi Stephanô chịu tử đạo, các môn đệ Chúa mới
chịu tản mác đi các nơi và rao giảng Tin Mừng; trong khi các Tông-đồ ở lại
Jerusalem để củng cố Hội Thánh Trung Ương. Phó-tế Philip xuống Samaria và rao
giảng Tin Mừng cho dân ở đây. Ông cũng gieo hạt giống cho dân Ethiopia khi rao
giảng Tin Mừng và làm Phép Rửa cho viên Thái Giám. Ngài làm cho Saul, kẻ nhiệt
thành bắt bớ đạo thánh, được trở lại; và giờ đây sẵn sàng để nhiệt thành rao giảng
Tin Mừng như tường thuật hôm nay. Nơi nào Tin Mừng được rao giảng, Thiên Chúa
cũng ban cho có các ngôn sứ và thầy dạy, như trong Hội Thánh tại Antioch, có
các ông Barnabas, Simeon biệt hiệu là Đen, Lucius người Cyrene, Manaen, bạn thời
thơ ấu của tiểu vương Herode, và Phaolô.
1.2/ Giáo đoàn tại Antioch sống theo sự hướng dẫn của
Thánh Thần.
- Sứ vụ riêng cho Phaolô và Barnabas: Một hôm, đang
khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: "Hãy
dành riêng Barnaba và Phaolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy
làm." Đây là lệnh truyền không dễ làm cho Hội Thánh tại Antioch, vì hai
ông là hai cột trụ của cộng đoàn và Hội Thánh địa phương còn non nớt. Theo sự
suy nghĩ loài người: nếu mất hai ông, cộng đoàn sẽ suy xụp và không phát triển
được. Nhưng họ quyết định không sống theo sự suy nghĩ của con người; nhưng theo
niềm tin vào Thiên Chúa và sự hướng dẫn của Thánh Thần: "Bấy giờ họ ăn
chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi."
- Đây là bài học quí giá cho mọi tín hữu: Phải hy
sinh cho việc rao giảng Tin Mừng sao cho mỗi ngày một lan rộng, chứ không ích kỷ
giữ người cho mình. Hơn nữa, khi nhà lãnh đạo đương nhiệm ra đi, Thiên Chúa sẽ
gởi người khác tới, và mọi người trong Hội Thánh địa phương sẽ ý thức được vai
trò của mình và cộng tác đắc lực hơn.
- Phaolô, Barnabas, và Gioan Marcô bắt đầu thành các
cộng đoàn mới: "Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Seleucia, rồi từ
đó đáp tàu đi đảo Cyprius. Đến Salamis, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong
các hội đường người Do-thái. Có ông Gioan giúp hai ông."
2/
Phúc Âm: Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha.
2.1/ Con người phải tin và vâng lời Chúa Giêsu: Đức Giê-su lớn
tiếng nói rằng:
- "Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào
tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi." Người được sai đi có đầy đủ chức vị
và thẩm quyền như Đấng sai đi. Vì thế, tin vào sứ giả là tin vào người sai sứ
giả; từ chối sứ giả là từ chối người sai sứ giả.
- "Ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi."
Đây là lời mặc khải mới lạ. Đối với con người, Người sai đi và sứ giả là hai chủ
thể riêng biệt. Đối với Thiên Chúa, Người sai đi (Chúa Cha) và Người được sai
đi (Chúa Con) là một; vì cả hai đều là Thiên Chúa, nhưng làm các việc khác
nhau. Điều này cũng được Chúa Giêsu xác tín, khi Philip yêu cầu: "Xin Thầy
chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là chúng con mãn nguyện rồi." Chúa Giêsu
trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíp, anh chưa biết Thầy
ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con
thấy Chúa Cha!" Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở
trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng
Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình" (Jn
14:9-10).
- "Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai
tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối." Ánh sáng và bóng tối là hai
điều trái nghịch nhau: khi có ánh sáng thì không có bóng tối; và ngược lại. Người
tin vào Đức Kitô không thể ở trong bóng tối, vì Đức Kitô là ánh sáng. Điều này
không có ý nói, người nào đã tin Đức Kitô là sẽ không còn bóng tối trong mình;
nhưng nếu người tin Ngài chịu để cho ánh sáng của Ngài soi dẫn vào mọi ngóc
ngách trong tâm hồn, họ sẽ chỉ còn là ánh sáng.
- "Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ,
thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế
gian, nhưng để cứu thế gian." Câu này lặp lại những gì Chúa Giêsu đã nói
trong Jn 3:16-21. Chương 12 của Gioan là chương cuối cùng của cuộc đời công
khai rao giảng của Đức Kitô, vì từ chương 13 tới 21 dành cho các môn đệ và Cuộc
Thương khó của Ngài. Vì thế, chương 12 tóm gọn những đạo lý chính của Chúa
Giêsu.
- "Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi,
thì có quan toà xét xử người ấy - chính lời tôi đã nói sẽ là quan tòa xét xử
người ấy trong ngày sau hết." Theo Jn 3:18, con người xét xử chính mình
khi không tin vào Đức Kitô. Với những người không có cơ hội gặp Chúa Giêsu và
những người thuộc các thế hệ sau như chúng ta, Lời Chúa trở thành quan tòa xét
xử cho những ai không chịu tin vào Lời Ngài.
2.2/ Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha: "Thật vậy,
không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền
lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì." Người được sai đi phải nói những
gì người sai đi muốn nói; nếu không, họ sẽ không còn là sứ giả hay ngôn sứ của
người đã sai họ đi.
Tuy nhiên, sự vâng lời của Chúa Giêsu không có tính
cách nô lệ hay mù quáng, vì Ngài phán: "Và tôi biết: mệnh lệnh của Người
là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói
với tôi." Nói cách khác, Ngài biết Lời của Chúa Cha là sự thật, và có khả
năng giải thoát con người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn nhớ Thiên Chúa vẫn đang hoạt động
và điều khiển mọi sự trong vũ trụ. Bổn phận của chúng ta là cầu nguyện để nhận
ra và mau mắn thi hành thánh ý của Ngài.
- Chúng ta phải chịu trách nhiệm trong việc rao giảng
Tin Mừng cho mọi người, chứ không ích kỷ chỉ biết lo lắng cho mình hay cho giáo
xứ. Khi đã hiêu biết Lời Chúa rồi, chính chúng ta phải sống và làm chứng cho
Tin Mừng.
- Đừng khinh thường Lời Chúa vì những Lời này sẽ trở
thành quan tòa để phán xét chúng ta; hơn nữa, đó là những Lời mà vì yêu chúng
ta, Thiên Chúa nói với chúng ta những Lời này.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
20/04/16 THỨ TƯ TUẦN 4 PS
Ga 12,44-50
Ga 12,44-50
Suy niệm: “Phải có bóng tối hiện diện để
ánh sáng có thể bừng sáng rực rỡ” (Triết
gia F. Bacon). Luồng sáng từ trời cao chiếu sáng đêm hang đá Bê-lem, nơi Ngôi
Hai Thiên Chúa sinh hạ làm người. Đền thờ Giê-ru-sa-lem chợt bừng sáng trong
ngày Lễ Nến, ngày Con Thiên Chúa được dâng trong Đền thờ, bừng sáng trong lòng
cụ ông Si-mê-on và cụ bà An-na. Dân ngồi trong cảnh tối tăm miền Ga-li-lê chợt
nhìn thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng Đức Ki-tô xuất hiện rao giảng Tin Mừng
(Mt 4,12-17). Ánh sáng của Đấng Cứu Thế ấy tiếp tục xua tan bóng tối trong con
người Mát-thêu, từ nhân viên thu thuế tội lỗi thành tông đồ nhiệt thành, nơi
Gia-kêu hoán cải, nơi người trộm lành trên thập giá... Và chắc chắn ánh sáng ấy
đang chờ đợi bạn ngày hôm nay.
Mời Bạn: "Mỗi
người phải quyết định hoặc bước đi trong ánh sáng của lòng vị tha sáng tạo hay
trong bóng đêm của sự ích kỷ hủy diệt" (Mục sư M. King). Tin vào Đức Ki-tô là bước đi
trong ánh sáng của Ngài, ánh sáng yêu thương, lạc quan, tin tưởng. Mỗi nghĩa cử
bác ái, tha thứ, quảng đại của bạn là một tia sáng giúp thế giới này bớt tối
tăm hơn.
Sống Lời Chúa: Tôi
tập làm ánh sáng của Chúa Giê-su qua việc mỗi ngày làm một việc bác ái, một
nghĩa cử yêu thương, nói một lời an ủi, khích lệ...
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là ánh
sáng trần gian, là ánh sáng cho tâm hồn con. Xin giúp con xác tín tin theo
Chúa, thực hiện điều răn Chúa dạy, con sẽ bước đi trong ánh sáng, không còn
bóng tối nơi tâm hồn con nữa. Xin cho con cũng trở thành ánh sáng Chúa cho
người lân cận. Amen.
Không tự mình nói
Chỉ khi ở lại trong lời của Giêsu chúng ta mới gặp
được sự thật và sự thật sẽ cho chúng ta được tự do
Suy
niệm:
Tự
do là điều con người trân trọng.
Bao
người dám chết để đổi lấy một chút tự do.
Các
bạn trẻ thèm được tự do, để được là mình.
Người
ta vẫn hiểu người có tự do là người muốn làm gì thì làm,
muốn
nói gì thì nói, không bị bất cứ ràng buộc nào.
Nếu
thế thì Đức Giêsu có tự do không?
Đức
Giêsu có tự do không, khi trong bài Tin Mừng Ngài khẳng định:
“Không
phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi,
truyền
lệnh cho tôi phải nói gì, phải tuyên bố gì” (c. 49)?
“Những
gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (c.50).
Ngài
có tự do không, khi Ngài cũng chẳng tự mình làm bất cứ điều gì?
“Đấng
đã sai tôi vẫn ở với tôi, Người không để tôi cô độc,
vì
tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Bao
nhiêu lần trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu quả quyết
Ngài
không tự mình nói gì, cũng không tự mình làm gì.
Ngài
chỉ sống theo lệnh truyền của Cha (Ga 15, 10).
Lệnh
truyền này không áp đặt Ngài từ bên ngoài,
nhưng
chi phối sâu xa từ bên trong
toàn
bộ hướng đi và những chọn lựa cụ thể của cuộc sống trần thế.
Đức
Giêsu đã tự do đón lấy ý Cha, lệnh truyền của Cha.
Chính
khi hoàn toàn để Cha chi phối, mà Ngài được tự do thật sự.
Chính
khi đó Đức Giêsu trở thành sự hiện diện trong suốt của Cha.
“Ai
thấy tôi là thấy Chúa Cha, Đấng đã sai tôi” (Ga 12, 45; 14, 9).
Lời
của Ngài là lời của Cha, việc Ngài làm là việc của Cha.
Chúng
ta có thể gặp được Thiên Chúa một cách nguyên tuyền nơi Đức Giêsu,
Đấng
đã dâng hiến tất cả tự do để sống hoàn toàn tùy thuộc.
Chính
khi hoàn toàn tùy thuộc mà Ngài được hoàn toàn tự do.
Người
được sai là một với người sai mình.
“Tôi
và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30).
Hãy
đến với Giêsu Ánh Sáng và ra khỏi những bóng tối (c.46).
Hãy
nghe, đón nhận và tuân giữ lời của Giêsu (cc. 47-48).
Chỉ
khi ở lại trong lời của Giêsu chúng ta mới gặp được sự thật
và
sự thật sẽ cho chúng ta được tự do (Ga 8, 31-32).
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa,
xin
nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và
trọn cả ý muốn của con,
cùng
hết thảy những gì con có,
và
những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin
Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được
như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh
dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20
THÁNG TƯ
Sự
Sống Tiềm Tàng Với Đức Kitô Trong Thiên Chúa
“Anh
em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới” (Cl 3,1). Chúng ta mừng cuộc Phục
Sinh của Chúa. Người cất lên lời kêu gọi ấy là Tông Đồ Phao-lô. Một cách đặc biệt,
thánh nhân đã kinh nghiệm được sức mạnh của Đấng Phục Sinh: “Nếu… anh em đã được
sống lại cùng với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới…
Hãy để lòng trí mình nơi những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những
gì thuộc hạ giới… Vì sự sống của anh em được tiềm tàng với Đức Kitô trong Thiên
Chúa” (Cl 3,1-3).
Sứ điệp
Phục Sinh là một lời chứng. Những người đưa ra lời chứng là những người đã gặp
thấy ngôi mộ trống rỗng. Họ là những người đã kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa
Phục Sinh. “Điều mắt chúng tôi đã xem thấy, điều tay chúng tôi đã sờ thấy” (1Ga
1,1) – như đôi bàn tay của Tô-ma cứng lòng – “chúng tôi… công bố cho anh em”
(1Ga 1,3). “Sự sống đã được tỏ bày; chúng tôi đã thấy và làm chứng” (1Ga 1,2).
Sự sống được tỏ bày, khi mà tất cả mọi sự dường như đã chìm ngập trong bóng tối
của sự chết.
Một tảng
đá lớn đã được lăn tới lấp kín cửa mộ. Người ta đóng chặt và niêm kín. Nhưng sự
sống lại tỏ hiện! Vâng, sứ điệp Phục Sinh là một lời chứng và là một thách đố.
Đức Kitô đã đến trần gian vì chúng ta. Người đã bị đóng đanh thập giá. Nhưng
qua cái chết của Người, Người trao ban cho chúng ta sự sống. Và như vậy có
nghĩa rằng sự sống của chúng ta giờ đây được tiềm tàng với Đức Kitô trong Thiên
Chúa. (Cl 3,3)
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
20-4
Cv
12, 24-13,5; Ga 12, 44-50
Lời
suy niệm: “Đức Giêsu lên tiếng nói rằng: Ai tin
vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi. Tôi
là Ánh Sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng
tối.”
Chúa
Giêsu rất yêu thương con người trên trần gian này, Người mời gọi mỗi người hãy
tin vào Người, khi tin vào Người là tin vào Thiên Chúa, “Ai thấy Thầy là thấy
Chúa Cha” (Ga 14,9) nghe và giữ Lời Người là tin và giữ Lời Thiên Chúa. “Lúc khởi
đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên
Chúa.” (Ga 1,1) Chính con người của Người và những lời của Người là ánh sáng
soi đường dẫn đưa tất cả chúng ta quay về gặp được Thiên Chúa; không phải ngụp
lặn, tìm mò trong bóng tối nữa.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa là ánh sáng để xua đuổi bóng tối của sa-tan; dưới con mắt của
Chúa, loài người được chia thành: “con cái thế gian” và “con cái ánh sáng” (Lc
16,8). Xin cho tất cả chúng con luôn được là con cái của ánh sáng.
Mạnh
Phương
20
Tháng Tư
Hãy Thắp Lên Một Que Diêm
Một
bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng
100 ngàn người tại vận động trường Los Angeles bên Hoa Kỳ. Ðang diễn thuyết ông
bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả
đèn trong sân vận động này".
Ðèn
tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp:
"Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm
tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: Ðã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả vận
động trường vang lên những tiếng kêu: "Ðã thấy!".
Sau
khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một
hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của
nhân loại y như vậy".
Một
lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh:
"Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy
lên!". Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông
John Keller kết luận: "Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, cóthể chiến thắng
bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt
của chúng ta".
Hòa
bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không chỉ là
cuộc sống chung im tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi
khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ
nhau, đàn áp và bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.
Ngoài
ra, hòa bình không chỉ được xây dựng trong những văn phòng của các nhà lãnh đạo.
Hòa bình không chỉ được xây dựng qua những cuộc họp, qua những buổi thảo luận,
mặc cả của các nhà chính trị. Mọi người chúng ta phải trở thành những người thợ
xây dựng hòa bình. Bởi lẽ nguồn gốc của hòa bình xuất phát từ phẩm chất của các
mối liên lạc giữa người với người.
Người
biết yêu mến là người thợ xây dựng hòa bình. Kẻ biết giúp đỡ là kẻ xây đắp hòa
bình. Những ai biết tha thứ, những ai biết phục vụ tha nhân, những ai biết luôn
khước từ hận thù, bạo lực là những người thợ xây dựng hòa bình. Những ai biết
chia sớt của cải mình cho người túng thiếu hơn, những ai có lòng nhân từ, có
lòng khoan dung và thông cảm đều là những kẻ giúp cho hòa bình nảy nở giữa loài
người.
Tóm lại,
cách thức tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm cho thật nhiều những hành
động yêu thương và hảo tâm đối với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất
phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu
mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có
đủ sức mạnh để xua đuổi bóng tối của những đau khổ và sự dữ.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét