25/05/2017
Thứ Năm tuần 6 Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 18, 1-8
"Ngài cư trú
và làm việc tại nhà họ, và giảng trong hội đường".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
Phaolô rời Athêna đi Côrintô; ngài gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở
Pontô, vừa từ đất Ý-đại-lợi đến làm một với vợ là Priscilla (bởi vì vua Clauđiô
đã ra lệnh trục xuất mọi người Do-thái khỏi Roma); Phaolô đến gặp họ. Và vì
chung một nghề, nên ngài cư trú và làm việc tại nhà họ: họ làm nghề dệt bố để
làm nhà lều. Mỗi ngày Sabbat, ngài đến tranh luận tại hội đường, nêu danh Chúa
Giêsu, thuyết phục người Do-thái và Hy-lạp.
Khi Sila và Timôthêu từ
Macêđônia đến, Phaolô chỉ chuyên lo việc giảng dạy, minh chứng cho người
Do-thái biết Chúa Giêsu là Ðức Kitô. Nhưng họ công kích và lăng mạ Ngài, nên
ngài dũ áo nói với họ: "Máu các ngươi đổ trên đầu các ngươi. Phần tôi, tôi
vô can, từ đây, tôi sẽ đến với dân ngoại".
Ngài ra khỏi chỗ đó,
vào nhà một người kia tên là Titô Giustô có lòng kính sợ Chúa, nhà ông ở bên cạnh
hội đường. Bấy giờ Crispô trưởng hội đường, và cả nhà ông tin theo Chúa; nhiều
người Corintô nghe giảng, cũng tin theo và chịu phép rửa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư
dân (c. 2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng
Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người
đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn
cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại
lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa
cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! -
Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về
cùng Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16, 16-20
"Các con sẽ buồn
sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy Chúa Giêsu phán
cùng các môn đệ rằng: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một
ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha".
Bấy giờ trong các môn
đệ có mấy người hỏi nhau: "Ðiều Người nói với chúng ta: "Một ít nữa
các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy", và
"Vì Thầy về cùng Cha", như thế có ý nghĩa gì?" Họ nói: "Lời
Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói
gì?"
Chúa Giêsu nhận thấy họ
muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: "Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít
nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật,
Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng.
Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta một thách đố
và là một thực tế phải đối diện. Cuộc sống trần thế này không thể không có thử
thách và đời sống đạo không thể không có những đêm tối đức tin, và một cách nào
đó không thiếu những lần chúng ta cảm thấy cô đơn thất bại vì như vắng bóng
Chúa.
"Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh
em sẽ lại thấy Thầy".20 Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và
than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh
em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,19-20).
Đây không chỉ là lời tiên báo mà còn là một lời khẳng định thực tế cho
phận người theo Chúa Giêsu: Lời này của Chúa Giêsu vừa ám chỉ tương lai gần khi
nói đến cuộc tử nạn của Người và Người sẽ sống lại, nhưng cũng vừa ám chỉ cuộc
lữ hành đức tin của Kitô hữu chờ đợi gặp Chúa Giêsu trên cõi trời. Đồng thời
cũng nói đến thực tế của mỗi một con người trong cảm nghiệm cuộc đời, khi thơ
thới hân hoan, lúc buồn đau thất vọng.
Để đạt tới đức tin trưởng thành, mọi tín hữu cần nếm qua cái chua xót
thiếu vắng Chúa trong thời gian có thể dài hoặc ngắn: "Ít lâu nữa, anh em
sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy".
Các môn đệ Chúa Giêsu đã kinh nghiệm điều này lần đầu tiên vào giờ Tử nạn của
Người; sau đó họ đã thấy Người từ cõi chết sống lại. Điều này ứng nghiệm tỏ tường
vào ngày tận thế, khi các tín hữu khám phá ra Chúa Kitô vinh hiển mà họ đã từng
chờ đợi trong đức tin.
Không nên quá tự tin khi Chúa cho chúng ta cảm nhận được sự hiện diện của
Người, chẳng hạn khi mới theo đạo, hoặc khi chúng ta đón nhận được những ân huệ
nào đó, hay khi đời sống đạo gặp lúc thịnh vượng êm xuôi… Khi mọi sự có vẻ dễ
dàng, chúng ta đừng coi khinh những ai có vẻ không được Chúa chiều chuộng như
chúng ta. Biết đâu “ít lâu nữa” Chúa sẽ để chúng ta sống trong tăm tối. Trong
cuộc lữ hành trần thế có những lúc như phải bước đi trong đêm tối, nhưng đó lại
là một sự tinh luyện con người, để đạt tới sự trưởng thành đức tin và lòng yêu
mến Thiên Chúa. Chỉ có ai kiên trì trong đường lối Chúa mới hưởng được niềm vui
trọn vẹn khi Chúa xuất hiện.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời chúng con có những lúc hạnh phúc bình an, nhưng
cũng không thiếu những lần chúng con cảm thấy cô đơn thất bại như vắng bóng
Chúa. Xin cho chúng con luôn nhớ đến lời Chúa đã nói trong Tin Mừng hôm nay, mà
vững niềm trông cậy vào Chúa, hầu mai ngày chúng con xứng đáng sẽ lại được gặp
Chúa nhãn tiền trong nước Chúa, nơi có niềm vui trọn vẹn và vĩnh hằng. Amen
Hiền Lâm, O.Cist.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 18:1-8: Jn
16:16-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc sống
thay đổi.
Heraclitus, một triết
gia Hy-lạp đã nói: "Không ai bước xuống hai lần trong cùng một giòng
sông;" vì nước sông một người bước xuống lần trước khác với nước sông bước
xuống lần thứ hai. Cuộc đời mỗi người cũng thế, những gì xảy ra ngày hôm nay
khác với những gì đã xảy ra ngày hôm qua, và cũng khác với những gì sẽ xảy ra
ngày mai. Ngày nào đều có sự vui tươi cũng như sự khốn khó của ngày ấy. Cuộc đời
của mỗi người được dệt bằng một chuỗi những mắt xích nhỏ, là những biến cố xảy
ra mỗi ngày. Điều cần thiết là con người phải biết học hỏi từ những biến cố đã
và đang xảy ra, để biết cách đối phó với những gì sẽ xảy đến.
Các Bài Đọc hôm nay
giúp chúng ta nhận ra cách cư xử của Phaolô và sự dạy dỗ của Đức Kitô trước những
thay đổi của cuộc sống. Trong Bài Đọc I, Phaolô từ Athens, trung tâm văn hóa của
Hy-Lạp, đến Corintô sinh sống bằng nghề chế lều; mỗi ngày Sabbath, ông đều vào
hội đường để rao giảng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước những gì sẽ xảy ra
cho Ngài và cho các môn đệ. Mục đích là để giúp các ông biết cách chuẩn bị và đối
phó với những gì sắp xảy ra.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô rời Athens và rao giảng Tin Mừng tại Corintô.
1.1/ Phaolô vừa làm việc
để sinh sống vừa rao giảng Tin Mừng mỗi ngày Sabbath: Hành trình thứ hai là hành trình dài và lâu nhất trong 3
cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô. Ông gặp nhiều thành công cũng
như thất bại, được chấp nhận cũng như bị từ chối, có lúc an bình và có lúc sóng
gió. Trình thuật hôm nay tường thuật những gì xảy ra khi ông bỏ Athens đến
Corintô: "Tại đây, ông gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontus,
vừa mới từ Italy đến, cùng với vợ là Priscilla, vì hoàng đế Claudio đã ra lệnh
cho mọi người Do-thái phải rời Rôma. Ông Phaolô đến thăm hai ông bà, và vì cùng
nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề chế lều. Mỗi ngày
Sabbath, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn người
Hy-lạp." Nghề chế lều là nghề cũ của Phaolô trước khi trở lại, chúng ta ngạc
nhiên khi Phaolô trở về nghề cũ để sinh sống thay vì dùng toàn thời gian để rao
giảng Tin Mừng; nhưng điều này có thể hiểu được, vì Giáo Hội sơ khai chưa có những
trợ giúp cụ thể cho những nhà truyền giáo. Phaolô phải tự kiếm kế sinh nhai, nhất
là khi mới chân ướt chân ráo đến những thành phố mới.
1.2/ Phản ứng của dân
thành Corintô: Khi ông Silas và ông
Timothy từ Macedonia xuống, thì ông Phaolô chỉ lo giảng, long trọng làm chứng
cho người Do-thái biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Kitô.
(1) Những người từ chối
không tin: Đa số là những người Do-thái. Bởi họ chống đối và nói lộng
ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: "Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các
người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại." Mặc
dù Phaolô được trao sứ vụ đặc biệt là rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, ông vẫn
tìm dịp rao giảng Tin Mừng cho những người Do-thái, vì ông quan tâm đến phần rỗi
linh hồn của họ; nhưng không có nhiều kết quả.
(2) Phaolô quay sang
giảng cho Dân Ngoại và thu lượm nhiều kết quả: Thất vọng về sự cứng lòng
và chống đối từ người đồng hương, "Ông rời bỏ chỗ ấy đến nhà một người ngoại
tôn thờ Thiên Chúa, tên là Titius Justus, ở sát bên hội đường. Ông Crispus, trưởng
hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Corintô đã nghe ông Phaolô giảng
cũng tin theo và chịu phép rửa."
2/ Phúc Âm: Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành
niềm vui.
2.1/ Các môn đệ không thể
hiểu Chúa Giêsu biết trước mọi sự sẽ xảy ra: Khi các môn đệ nghe Chúa Giêsu tuyên bố: "Ít lâu nữa,
anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy;"
vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giêsu hỏi nhau: "Người muốn nói gì khi
bảo chúng ta: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa,
anh em sẽ lại thấy Thầy" và "Thầy đến cùng Chúa Cha?" Vậy các
ông nói: ""Ít lâu nữa" nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người
nói gì!"
Đối với chúng ta, những
người đã đọc Cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, đoạn văn
trên không có gì khó hiểu; nhưng đối với các môn đệ trước Cuộc Thương Khó, có ít
nhất ba điều các môn đệ không thể hiểu:
(1) Các ông không thể
hiểu một người biết rõ ngày chết và cách chết của mình, ngoại người tự kết liễu
đời mình, như người Do-thái nghĩ về Chúa Giêsu (Jn 8:21-22).
(2) Các ông càng không
hiểu một người biết trước mình sẽ sống lại. Truyền thống Do-thái không tin
có sự sống lại như Nhóm Sadducees, hay quan niệm sống lại chỉ có trong Ngày
Phán Xét (Jn 11:24). Các ông không ngờ Chúa sống lại chỉ ít ngày sau khi chết.
(3) Các ông cũng không
hiểu lời Chúa nói "Thầy đến cùng Chúa Cha" có nghĩa gì; vì các
ông chưa hoàn toàn tin tưởng mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa.
2.2/ Phản ứng của con người
trước Cuộc Thương Khó của Đức Kitô: Đức
Giêsu biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: "Anh em bàn luận với
nhau về lời Thầy nói: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít
lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy." Rồi Chúa Giêsu cắt nghĩa thêm cho các
ông hiểu: "Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn
thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành
niềm vui."
(1) Các môn đệ sẽ buồn
sầu và than khóc về sự đau khổ, cái chết, và sự vắng mặt của Chúa Giêsu
trong cuộc đời các ông; nhưng khi thấy Ngài sống lại và hiện đến, những nỗi lo
lắng và buồn sầu sẽ biến thành hy vọng và niềm vui. Trong cuộc sống của người
Kitô hữu cũng thế: Có những lúc họ sẽ cảm thấy việc theo Chúa đòi hỏi quá nhiều
cố gắng và hy sinh, khi bị cám dỗ về những thú vui thế trần; nhưng sẽ tới ngày
những cố gắng và hy sinh của họ sẽ đơm bông kết trái, và họ sẽ tìm thấy niềm
vui và hạnh phúc vĩnh cửu.
(2) Thế gian sẽ vui mừng: Thế
gian được hiểu ở đây là những người chống lại Thiên Chúa, kết án, và giết Người
Con Một của Ngài; một cách cụ thể là những người trong Thượng Hội Đồng. Họ tưởng
là đã tiêu diệt được người quyến dũ dân chúng và làm cho họ mất quyền lợi và thế
lực trên dân. Nhưng vui mừng của thế gian cũng chỉ tạm thời, vì sau đó sẽ là thời
kỳ than khóc. Ai chạy theo những lạc thú của thế gian cũng thế, họ chỉ có thể
vui vẻ trong một thời gian ngắn; nhưng sau đó sẽ là những mệt mỏi, chán chường.
Nỗi than khóc bất hạnh nhất của thế gian là không biết, không có, hay đánh mất
Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong cuộc sống,
chúng ta phải đương đầu với nhiều thay đổi; nhưng may mắn cho những người tín hữu
chúng ta, những gì chính yếu đã được Chúa Giêsu mặc khải qua Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa.
- Chúng ta cần học hỏi
lịch sử và Kinh Thánh để biết những điều chính yếu trong cuộc đời, và biết cách
chuẩn bị để đối phó với những thay đổi của cuộc đời.
- Mẹ Maria là mẫu
gương lý tưởng cho chúng ta nhận ra thánh ý Thiên Chúa trong những thay đổi của
cuộc sống: Mẹ luôn thinh lặng, ghi nhận mọi biến cố xảy ra, và suy niệm trong
lòng.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục, tiến sĩ HT
Ga 16,16-20
BẢO CHỨNG CỦA NIỀM VUI
“Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông
thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.” (Ga 16,16)
Suy niệm: Đức Giê-su nói với
các môn đệ lời tiên báo trên đây trong bầu khí của bữa Tiệc Ly. Chỉ “ít lâu
nữa” thôi, vì ngay sau trưa ngày hôm sau, Thầy chịu khổ nạn thập giá, chôn
trong mồ đá, các ông buồn sầu khi không còn được trông thấy Thầy mình. Các ông
đã bỏ nghề nghiệp ổn định, mái ấm gia đình đi theo Thầy, bao hy vọng, mộng ước
công danh đặt trọn nơi Thầy. Thế mà bây giờ mọi sự như sụp đổ với cái chết đau
thương của Thầy. Thế nhưng, nỗi buồn sầu ấy sẽ sớm biến thành niềm vui, một
niềm vui vỡ oà khi được gặp lại Thầy mình, Đấng Phục Sinh, hiện ra với họ. Đó
chính là kinh nghiệm đức tin đi từ nỗi buồn đến niềm vui, từ cảm nghiệm thập
giá đến vinh quang phục sinh trong cuộc sống.
Sống
Lời Chúa: Có những lúc thời gian như ngừng trôi khi
bạn ở trong tình trạng đau khổ, buồn bã, vắng bóng người thương yêu; nhưng tình
trạng đó chỉ tạm thời. Lời Chúa hôm nay mời gọi bạn luôn trung tín với Chúa, để
nỗi ưu sầu trở nên khí cụ đem lại niềm vui. Bởi vì, “Niềm vui của người Ki-tô
hữu không phải là sự thiếu vắng đi nỗi đau, mà là vượt qua nỗi đau ấy” (Louis
Evely).
Chia sẻ
kinh nghiệm của bạn về một biến cố mà Lời Chúa hôm nay là bảo chứng của niềm
vui và hy vọng?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, khi con thất
vọng, xin nhắc con nhớ rằng Chúa đã gieo niềm hy vọng trong con; lúc con buồn
đau, xin cho con nhớ lại Chúa cũng đã đau buồn trong cuộc Khổ nạn. Xin
cho con biết để Chúa đồng hành trong cuộc sống của con, để niềm vui trong con
được trọn vẹn trong Chúa.
(5 phút lời Chúa)
Nỗi buồn trở thành niềm vui (25.5.2017 – Thứ năm Tuần 6 Phục sinh)
Chúng ta phải chia sẻ cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa mỗi ngày. Nhưng rồi ngày nào đó, Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi.
Suy niệm:
Trong bầu khí của bữa
Tiệc Ly,
Thầy Giêsu nói với các
môn đệ một câu đối với họ là khó hiểu:
“Ít lâu nữa, anh em sẽ
không còn trông thấy Thầy,
rồi ít lâu nữa, anh em sẽ
lại thấy Thầy” (c. 16).
Câu này có thể dễ hiểu với
chúng ta
vì chúng ta biết rõ cái
chết trên thập giá đang chờ Thầy Giêsu.
Chỉ một thời gian ngắn
nữa thôi,
cái chết này sẽ khiến các
môn đệ không còn được thấy Thầy nữa.
Chúng ta cũng biết rằng
chỉ một thời gian ngắn sau,
Thầy Giêsu lại được phục
sinh, và đã hiện ra cho các môn đệ thấy.
Mất Thầy là một thử thách
lớn trong đời người môn đệ.
Thầy là chỗ dựa, là lý do
khiến họ chấp nhận cuộc sống bấp bênh này.
Chính Thầy đã gọi, đã kéo
họ ra khỏi gia đình và nghề nghiệp ổn định
để lang thang đó đây,
sống nhờ lòng tốt của những người nghe giảng.
Gần ba năm sống bên Thầy,
chia sẻ ngọt bùi, thành công thất bại,
tình Thầy trò gần gũi như
tình bạn hữu.
Bây giờ mất Thầy, họ sẽ
đi đâu và đi với ai?
Cái chết trên thập giá
của Thầy là đại tang của một người thân.
Nỗi đau này được nhân lên
nhiều lần
vì họ đã không dám có mặt
để lo liệu việc mai táng.
“Anh em sẽ khóc lóc và
than van… Anh em sẽ buồn phiền…” (c.20).
Khi tảng đá đã khép kín
ngôi mộ, chẳng còn thấy Thầy nữa,
khi thế gian và thủ lãnh
của nó hả hê vui sướng vì chiến thắng,
liệu các môn đệ có vượt
qua được nước mắt đau đớn này không?
“Ít lâu nữa, anh em sẽ
lại thấy Thầy… (c. 16)
và nỗi buồn của anh em sẽ
trở thành niềm vui” (c. 20).
Anh em sẽ lại thấy Thầy
lúc Thầy hiện ra gặp anh em sau phục sinh,
lúc Thầy sai Thánh Thần
đến ở với và nâng đỡ anh em,
và nhất là lúc Thầy đồng
bàn với anh em trong bữa tiệc Thiên quốc.
Khi gặp lại Thầy và nhận
ra Thầy đang sống,
thế nào anh em cũng hết
phiền muộn đắng cay.
Nỗi buồn của anh em tan
biến khi anh em biết rằng
Thầy mới là người chiến
thắng.
Đời sống người Kitô hữu
đan xen giữa vui với buồn.
Có lúc thấy mất Chúa và
mất hướng, thấy thất vọng và buồn chán.
Chúng ta phải chia sẻ
cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa mỗi ngày.
Nhưng rồi ngày nào đó,
Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi.
Niềm vui trong ta như
sống lại với bao hy vọng dâng trào.
Chỉ xin đừng bỏ đi khi
thấy Chúa vắng bóng và thất bại trong đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm
thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn
buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa
đẩy;
có những khoảng thời gian
dài,
con như mảnh đất khô khan
cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn
bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng
say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG NĂM
Giấc Mơ Xa Vời Bỗng
Thành Hiện Thực
Kể từ ngày Lễ Hiện Xuống,
cuộc giao hòa của tất cả các dân tộc trong Thiên Chúa không còn là một giấc mơ
xa xăm nữa. Cuộc giao hòa ấy đã trở thành hiện thực – và mở rộng không ngừng
theo nhịp lan rộng của Giáo Hội mang trong mình Tin Mừng cứu độ. Chúa Thánh Thần,
Đấng là Thần Khí tình yêu và hiệp nhất, hiện thực hóa mục tiêu của cuộc hiến
thân cứu chuộc của Đức Kitô – bằng cách qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
về một mối.
Khi Thánh Thần hiệp nhất
mọi người trở thành Dân Thiên Chúa, có hai điều quan trọng được ghi nhận rõ
ràng. Bằng cách dẫn đưa người ta gắn kết với Đức Kitô, Thánh Thần đem họ vào
trong mối hiệp nhất của Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô. Như vậy, Thánh Thần
giao hòa con người với nhau trong tình huynh đệ – dù giữa họ có những nét khác
biệt về địa dư và về văn hóa. Nói cách khác, Thánh Thần làm cho Giáo Hội trở
thành một nguồn hiệp nhất và hòa giải. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần hòa giải cả những
người bên ngoài Giáo Hội – bằng một cách nào đó. Ngài khơi lên trong mọi người
niềm khát vọng hiệp nhất sâu rộng hơn và Ngài thúc đẩy những cố gắng của người
ta để họ vượt qua những mối xung đột ngổn ngang vẫn còn phân rẽ thế giới.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 25 – 5
Thánh Bêđa khả
kính, linh mục tiến sĩ Hội Thánh
Thán Grêgôriô VII
giáo hoàng
Yhánh Maria
Magđalêna Pazzi, trinh nữ
Cv 18, 1-8; Ga 16,
16-20.
LỜI SUY NIỆM: “Thật Thầy bảo
thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ
lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.”
Chúa Giêsu biết rõ mọi
sự và tâm hồn của các môn đệ của Chúa, khi Chúa sẽ đi vào cuộc thương khó khổ nạn.
Nên Chúa đã báo trước: mỗi người môn đệ sẽ phải khóc lóc và lo buồn, trong lúc
đó thế gian sẽ vui mừng vì thế gian tưởng rằng đã chiến thắng và loại bỏ được
Người. Nhưng thật ra, mọi sự sẽ được trở nên vui mừng khi gặp được Người sau
khi Người phục sinh, chính Người là Đấng đã chiến thắng sự chết.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
hãy cho chúng con biết khóc lóc, lo lắng, buồn phiền khi phải xa cách Chúa vì tội
lỗi của chúng con đã phạm. Để chúng con tìm gặp lại Chúa và được vui sống trong
lòng thương xót và ân sủng của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 25-05: Thánh
BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (673 - 735)
Chính thánh Beđa kể
cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài câu thêm vào
cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên Bêđa theo từ ngữ
Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu nên người ta
thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy tuổi Ngài bị mồ
côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop săn sóc giáo dục.
Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay 703 tức là lúc 29 tuổi
Ngài được thụ phong linh mục.
Cuộc sống của Ngài
trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy bằng chính lời
Ngài: - "Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và trong khi tuân
thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại nhà thờ, tôi sung
sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách".
Đây quả là tổng hợp
chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà dòng. Chúng ta
chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi thu tập tài liệu
về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến viếng Farne Islanol
để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một lần khác, Ngài đến
York để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường học nổi tiếng ở
đó.
Dạy học, thánh Bêna tỏ
ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao ước được nổi bật.
Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình rồi truyền thông
không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về giá trị của điều
đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy nhiên chúng ta
không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết đều là kiểu mẫu
trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn thận và điều độ và
gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có thế giá. Các tác phẩm
của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về thần học của Ngài
chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy phần lớn dựa trên
các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong cách trình bày, nhưng
những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện tốt đẹp nhất để hiểu
về các giáo phụ.
Các tác phẩm về khoa học
của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các hiện tượng tự nhiên, một
phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương. Cách tính niên lịch của
Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo Tây phương chấp nhận rộng
rãi hơn cả.
Các tác phẩm về lịch sử
của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết. Cuốn "Lịch sử
Giáo hội của dân Anh" là một trong những tác phẩm quan trọng nhất về lịch
sử về thời đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê phán cách quân
bình, dựa trên những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài cũng viết một tiểu
sữ về các tu viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh Cuthbert.
Kể từ năm 679, Ngài ở
hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận thuộc đời sống tu
trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối cuốn "Lịch sử
Giáo hội" trình bày lý tưởng của Ngài: - "Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con
khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn ngoan của Chúa thì
xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan Chúa".
Đương thời, không ai
nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm một phép lạ,
không được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ nào. Mùa hè
năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh suyễn. Dầu
vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký hoàn tất cuốn
sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường bệnh. Đúng
ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.
(daminhvn.net)
25 Tháng Năm
Cái Bật Lửa
Ðể kỷ niệm một trận
chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản đãi một nhóm cựu sĩ
quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.
Tong bữa tiệc, ông
dem kho một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa đã
được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ khen ngợi.
Sau bữa ăn, mọi người
được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem thuốc lá ra mời mọi
người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi trong túi áo mà vẫn
không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở đâu không. Mọi người
chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy cái bật lửa. Lúc bấy giờ,
một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan khách nên lật túi áo của mình
ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt tất cả mọi người đều kéo tất cả
những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ có một người không chịu chấp nhận
công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về ông và ai cũng đoán chắc đây là
người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của ông tiều tụy, áo quần của ông
lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ quan để thề thốt và dứt khóat
không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài tuần lễ sau,
ông quận công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra cái bật lửa
trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên sĩ quan đã từng
chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm anh ta để xin lỗi.
Nhà của viên cựu sĩ
quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi, ông quận công
đã hỏi viên sĩ quan: "Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã khước từ không
mở túi ra cho mọi người xem?".
Anh ta mới giải
thích như sau: "Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi tàn như thế
nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài
đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên
bàn để mang về cho vợ con tôi".
Sau khi hiểu được
hoàn cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với mình, ông quận
công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một công việc xứng
đáng.
Câu chuyện đáng thương
tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống chúng ta dưới nhiều cấp độ và
hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung của câu chuyện ấy thường
giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người theo bề ngoài. Lại nữa, một
xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho chúng ta có thái độ e dè,
nghi kỵ đối với những người thân thuộc.
Là tín hữu, chúng ta
hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn người bằng nhãn
hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên kia bộ quần áo
sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao quý của chính
Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người nghèo khổ, phường thu thuế, bọn
gái điếm, những kẻ tội lỗi, những ngwòi con bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài muốn
cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con người: đó là
cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét