28/05/2017
Chúa Nhật 7 PS năm A.
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Ngày Quốc tế Truyền thông xã hội.
(phần II)
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên, năm A
CHÚA
NHẬT LỄ THĂNG THIÊN
(Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20)
TRAO
SỨ VỤ
“Vậy anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt
28,19).
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc
1:
Đoạn
sách Công vụ Tông đồ cho thấy một sự chuyển tiếp sứ mạng từ Chúa Giêsu sang cho
các tông đồ qua trung gian của Chúa Thánh Thần.
Sứ mạng
của Chúa Giêsu ở trần gian là “làm việc” và “giảng dạy” đã kết thúc khi Người
chuẩn bị về trời. Để tiếp nối sứ mạng của mình, Người đã tuyển chọn, dạy bảo
các tông đồ và căn dặn các ông hãy ở lại Giêrusalem mà chờ đợi điều Chúa Cha đã
hứa là chính Thánh Thần. Nhờ Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã tuyển chọn các tông đồ,
thì cũng nhờ Thánh Thần mà Người sai các ông ra đi làm chứng cho Người, khởi đi
từ Giêrusalem và cho đến tận cùng trái đất.
Chúa
Giêsu về trời đánh dấu sự chuyển tiếp sứ mạng từ Chúa Giêsu sang cho các tông đồ
nhờ ơn Thánh Thần. Thật vậy, một khi lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần, các
tông đồ không thể đứng “đăm đăm nhìn trời” mà nuối tiếc quá khứ, cũng không thể
chỉ lo “khôi phục vương quốc Israel”, mà phải hướng về tương lai của sứ mạng
làm “chứng nhân của Thầy”, sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh, một sứ mạng khởi
đi từ Israel mà vươn xa đến mọi nơi trên thế giới.
Như vậy,
Chúa Giêsu về trời mở ra thời kỳ của Thánh Thần, của Hội Thánh mà các tông đồ
là hạt nhân, một Hội Thánh có sứ mạng loan báo và làm chứng về Đức Kitô Phục
Sinh cho tất cả mọi người ở mọi nơi trên thế giới.
2. Bài đọc
2:
Tác
giả thư Êphêxô cầu xin Thiên Chúa ban cho các Kitô hữu ơn hiểu biết mầu nhiệm về
Thiên Chúa, về vị thế của Đức Giêsu và về chương trình cứu độ được thực hiện nhờ
Đức Giêsu Kitô.
Trước
hết, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài mà làm cho Đức Giêsu trỗi dậy từ
cõi chết và đặt Người ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời (x. Tv 110,1). Vì được
Thiên Chúa siêu tôn qua cuộc phục sinh, địa vị của Đức Giêsu trên trời vượt
trên mọi tước vị và mọi quyền lực thần thiêng. Ảnh hưởng của Người không chỉ
trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai. Như thế, Đức Kitô Phục
Sinh được Thiên Chúa tôn vinh cách trọn vẹn và viên mãn trong vị thế ngang hàng
với Thiên Chúa trên trời.
Sau nữa,
vị thế siêu tôn của Đức Giêsu trên trời là niềm hy vọng cho các Kitô hữu về
“gia nghiệp vinh quang phong phú” mà họ được Thiên Chúa hứa ban nhờ Đức Giêsu.
Thật vậy, Đức Giêsu Phục Sinh là đầu của toàn thể Hội Thánh cũng sẽ cho các chi
thể là các Kitô hữu được chia sẻ sự sống viên mãn của Người. Đức Kitô, nhờ quyền
năng Thiên Chúa mà chiến thắng sự chết và bước vào trong vinh quang phục sinh
thế nào, thì các Kitô hữu, nhờ tin vào Thiên Chúa và công trình cứu độ trong Đức
Kitô, cũng sẽ được thông phần vinh quang phục sinh thể ấy.
Tóm lại,
tác giả thư Êphêxô cầu xin Thiên Chúa mạc khải cho các tín hữu hiểu rằng vinh
quang và vị thế siêu tôn của Đức Giêsu trên trời là niềm hy vọng và là cùng
đích cho cuộc sống của các Kitô hữu đang trên đường lữ hành trần thế.
3. Bài
Tin Mừng:
Chúa
Giêsu Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ và trao cho các ông sứ mạng “làm cho muôn
dân trở thành môn đệ” nhân danh Chúa Ba Ngôi.
Chúa
Giêsu Phục Sinh xuất hiện trên núi với vẻ uy nghi thần linh đến nỗi các môn đệ
phải bái lạy Người. Người đã khai mạc Nước Trời trên núi (Mt 5,1), đã tỏ vinh
quang Mêsia trên núi (Mt 17,1-8), nay Người cũng từ trên núi mà sai các tông đồ
tiếp tục công việc Người đã khởi sự. Ngày xưa cũng từ trên núi, Chúa Giêsu đã từ
chối quyền mà Xatan hứa trao cho Người trên “tất cả các nước thế gian và vinh
hoa lợi lộc của các nước ấy” (x. Mt 4,8-10), nay từ trên núi trong diện mạo của
Đấng Phục Sinh, Người lại được trao “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).
Quyền bính của Chúa Giêsu Phục Sinh bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33; Rm 1,4;
Pl 2,5-11), nên người có tư cách trao lại cho các môn đệ sứ mạng thánh hóa muôn
dân nhân danh Thiên Chúa.
Thật
vậy, Chúa Kitô Phục Sinh sai các môn đệ ra đi tiếp nối sứ mạng của Người. Khởi
đi từ Galilê, các môn đệ được sai đến với “muôn dân”, nghĩa là không chỉ dừng lại
ở người Do Thái (x. Mt 10,5; 15,24) mà vươn xa đến mọi người trên thế giới (x.
Mt 8,11; 21,41; 22,8-10; 24,14.30). Sứ mạng “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”
bao gồm việc rao giảng, giúp họ sống theo tinh thần Tin Mừng và cử hành bí tích
thánh hóa nhân danh Chúa Ba Ngôi, đặt họ trong mối tương quan với Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đây
là một sứ mạng đầy khó khăn và thách đố đối với các thế hệ môn đệ, nên Chúa
Giêsu Phục Sinh hứa sẽ hiện diện cùng các ông luôn mãi để giúp các ông chu toàn
sứ mệnh được giao phó cho đến ngày tận thế. Là đấng Emmanuel, Chúa Giêsu Phục
Sinh không để các môn đệ cô độc trên hành trình sứ vụ, vì Người là Thiên-Chúa-ở-cùng.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/
Chúa Giêsu về trời mở ra thời kỳ của Thánh Thần, của Hội Thánh, một Hội Thánh
có sứ mạng loan báo và làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người ở
khắp nơi trên thế giới. Như thế, bản chất của Hội Thánh là loan báo và làm chứng
về Chúa Kitô Phục Sinh cho mọi người. Là một phần tử trong Hội Thánh, tôi cũng
mang lấy sứ mạng đó. Tôi đã làm gì để loan báo Tin Mừng Phục Sinh? Tôi có thể
làm gì để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh?
2/
Tác giả thư Êphêxô cầu xin Thiên Chúa ban thần khí khôn ngoan để các tín hữu hiểu
rằng vị thế siêu tôn và vinh quang của Đức Giêsu trên trời là niềm hy vọng và
là cùng đích cho cuộc sống của các Kitô hữu đang trên đường lữ hành trần thế. Đức
Kitô vinh thăng trên trời có là niềm hy vọng đích thật cho cuộc sống của tôi?
Tôi sống niềm hy vọng đó thế nào?
3/
Tác giả Mátthêu kết thúc Tin Mừng bằng cuộc hẹn gặp của Chúa Giêsu với các môn
đệ tại Galilê, nơi Người đã khởi đầu sứ vụ. Trong dáng vẻ uy nghi, Đức Kitô Phục
Sinh trao cho các môn đệ sứ mạng ra đi và “làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Là môn đệ
Chúa Giêsu, tôi có sẵn sàng ra đi giới thiệu Chúa cho “muôn dân” để họ cũng tin
và được cứu độ? Tôi có cử hành bí tích nhân danh Chúa Ba Ngôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế:
Anh chị em thân mến! Thiên Chúa đã đem Đức Giêsu Kitô về trời, đặt ngự bên hữu
Người để luôn chuyển cầu cho Hội Thánh và cho từng người chúng ta. Vậy cộng
đoàn chúng ta hãy tin tưởng dâng lời cầu nguyện:
1.
Chúa Phục Sinh đã sai các môn đệ đi giảng dạy và làm phép rửa cho muôn dân.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức thực
thi sứ mạng loan báo Tin mừng bằng một đời sống chứng tá, nên men muối giữa thế
giới hôm nay.
2.
Thiên Chúa đã khiến mọi sự quy phục dưới chân Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cùng cầu
xin cho những người còn xa lạ với Tin mừng được nghe biết và tin nhận Đức Kitô
là Đấng cứu độ trần gian, và là con đường dẫn đưa nhân loại đến nguồn mạch sự
thật và sự sống.
3.
“Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem.” Chúng ta cùng cầu xin cho
những người đang hoạt động trong lãnh vực truyền thông biết tận dụng những
phương tiện hiện đại với lương tâm ngay lành, để quảng bá tình thương và loan
truyền chân lý.
4.
Chúa nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” Chúng ta cùng cầu xin
cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa,
và siêng năng đến kín múc năng lực thiêng liêng từ các bí tích, đặc biệt là phụng
vụ Thánh Thể.
Chủ tế:
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Chúa về trời đã mở đường hướng chúng con
về quê hương đích thật. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và luôn nâng đỡ chúng
con trong nỗ lực dựng xây thế giới hôm nay, để chuẩn bị cho Nước Chúa trị đến.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
SỢI CHỈ ĐỎ LỄ THĂNG THIÊN
CHỦ ĐỀ :
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI
"Hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ"
(Mt
28,19)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Những lời dạy cuối cùng của
Đức Giêsu trước khi thăng thiên.
- Đáp ca : Chúa lên trời, tiếng hò reo dậy
đất ; Chúa lên trời, nhịp kèn sáo trổi cao.
- Bài đọc II : Thánh Phaolô giải thích ý
nghĩa việc Đức Giêsu "lên trời" : "Thiên Chúa đã tôn Đức Kitô lên"
- Tin Mừng : Đức Giêsu sai các môn đệ đi
khắp nơi loan Tin Mừng, và hứa sẽ ở cùng họ cho đến tận thế.
I. DẪN
VÀO THÁNH LỄ
Việc Đức Giêsu thăng thiên đánh dấu một
bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu
là việc của Đức Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ
trợ đắc lực của Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Đức
Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ
chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng
Chúa trao.
II. GỢI
Ý SÁM HỐI
- Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Đức
Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên
chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
- Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời
mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
- Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan
báo Tin Mừng.
III. LỜI
CHÚA
1. Bài đọc I : Cv 1,1-11
Những lời dạy cuối cùng của Đức Giêsu
trước khi thăng thiên :
- Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ
cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.
- Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa
ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.
- Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài
trên khắp thế giới.
2. Đáp ca : Tv 46
Tv này ca tụng vương quyền của Giavê
Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Tv này cho Đức Giêsu, Đấng được Thiên Chúa
tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.
3. Bài đọc II : Êp 1,17-23
Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được
ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
4. Bài Tin Mừng : Mt 28,16-20
Ý chính của bài Tin Mừng này cũng giống
bài trích sách Công vụ hôm nay : trước khi về với Chúa Cha, Đức Giêsu đã trao sứ
mạng cho các môn đệ : Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
IV. GỢI
Ý GIẢNG
1.
Thăng thiên nhưng không phải là lên trời !
Hôm nay Đức Giêsu "thăng
thiên". Xét theo nghĩa chữ, thì "thăng thiên" chính là "lên
trời". Thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế" ? Nói vậy nghĩa là Chúa vẫn còn ở với chúng ta chứ
đâu có "lên trời" !
Chúng ta phải lưu ý đến cách viết của
tác giả Mátthêu. Ngài đã dùng từ không theo sát nghĩa đen, nhưng theo nghĩa mà
người bình dân quen hiểu. Theo đó, cái gì cao thì gọi là "trời", cái
gì thấp thì gọi là "đất", tình trạng tiến khá hơn thì nói là
"lên", lùi tệ hơn thì nói là "xuống". Như thế, "thăng
thiên" hay "lên trời" không chỉ một chuyển động trong không
gian, mà chỉ một tình trạng tốt hơn trước. Ngày xưa, Đức Giêsu nhập thế thì được
diễn tả là "giáng trần" hay "xuống đất". Hôm nay Ngài trở về
tình trạng vinh quang với Chúa Cha thì diễn tả là "lên trời". Bởi vì
Đức Giêsu chỉ thay đổi tình trạng thôi cho nên dù bây giờ Ngài vinh quang,
nhưng Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài
lên "ở trên trời" và để chúng ta phải mồ côi "ở dưới đất".
Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình
trạng của Đức Giêsu. Hình dung Đức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay
đang ngồi bên phải Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng
tượng này có cụ thể đối với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người
ta nghĩ rằng Đức Giêsu đã xa cách loài người.
Chúng ta phải đi xa hơn những hình ảnh
tưởng tượng kia để đạt đến ý nghĩa đích thực của việc thăng thiên : đó là Đức
Giêsu đã lấy lại vinh quang, Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta luôn mãi, và nhờ
vinh quang, Ngài sẽ hỗ trợ đắc lực cho chúng ta.
Như thế, Lễ thăng thiên không làm cho
chúng ta cứ đăm đăm nhìn trời với lòng bùi ngùi luyến tiếc, nhưng khuyến khích
chúng ta quay về cuộc sống để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng cho khắp thế
giới, với lòng đầy hăng hái vì biết Đức Giêsu vinh quang lúc nào cũng hỗ trợ
chúng ta.
2.
Lễ thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc
Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình
trạng của Đức Giêsu. Lễ này còn đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan Tin Mừng
: Trước đây, loan Tin Mừng chủ yếu là việc của Đức Giêsu, các môn đệ theo Ngài
để tập sự. Từ nay, loan Tin Mừng là sứ mạng của các môn đệ, với sự hỗ trợ đắc lực
của Đức Giêsu vinh quang. Bởi đó, sách Công vụ ghi lời Đức Giêsu căn dặn :
"Anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê,
Samaria và cho đến tận cùng trái đất" ; sách Tin Mừng Mátthêu cũng ghi lời
Chúa bảo : "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… để muôn dân trở thành môn đệ của Thầy".
3.
Sự hiện diện hằng cửu
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc họp mặt
lần chót của Đấng phục sinh với các môn đệ ở trần thế. Đây là cuộc gặp gỡ thân
mật nhưng mở ra những viễn tượng vô cùng rộng lớn… Ngay trong giờ phút chia tay
đã bắt đầu một sự hiện diện mới, sự hiện diện hằng cửu của Đấng Phục sinh :
"Thầy ở với chúng con hằng ngày cho đến tận thế".
Chúa ra đi nhưng Ngài không trở thành
"cố nhân", người xưa, người của quá vãng. Ngài không để chúng ta côi
cút. Ngài vẫn hiện diện (tuy cách hiện diện có khác), bởi vì Ngài là Emmanuel,
Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đã qua rồi cái thời Ngài hiện diện hữu hình. Bây giờ
đến thời của lòng tin, của sự tập luyện. Chúng ta tập nhận ra Chúa trong anh em
ta, trong các biến cố đời thường.
Ngài vắng mặt, nhưng vẫn tiếp tục hiện
diện qua Chúa Thánh Thần, Đấng An ủi : "Thầy ra đi là tốt cho anh em, bởi
nếu Thầy không ra đi thì Đấng An ủi sẽ không đến".
Chúa còn hiện diện với chúng ta trong bí
tích bẻ bánh, như ngày xưa Ngài hiện diện giữa hai môn đồ ở làng Emmau.
Chúa còn hiện diện trong các cộng đoàn,
"nơi có hai ba người họp mặt cầu nguyện". Chúa hiện diện ở bất cứ nơi
nào có chia sẻ, bất cứ nơi nào người ta thương mến giúp đỡ nhau. Chúa hiện diện
tại bất cứ nơi nào con người được giải phóng khỏi bất công, khỏi bạo lực, khỏi
nghèo đói.
Trong cuộc chia tay, Chúa đã trao cho
các môn đệ sứ mệnh làm lan truyền sự hiện diện của Ngài nơi tất cả các dân tộc.
Sự hiện diện được thể hiện khi ta tuân giữ giới luật yêu thương, mệnh lệnh tình
yêu : "Các con hãy yêu nhau, như Thầy yêu thương các con" (Trích báo
Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh ’98, trang 178-179).
4.
Lời cuối của Đức Giêsu ở trần thế
a/ Thông thường, những lời cuối cùng của
một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng
mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường
coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần
thực hiện cho bằng được.
Trước khi về trời, vĩnh viễn xa rời các
tông đồ, Đức Kitô đã trăn trối : Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô
muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là : hãy tiếp tục sứ mạng
loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên
thế giới.
b/ Cần phải hiểu rõ nội dung Tin Mừng mới
có thể loan báo Tin Mừng được
Chúng ta thường nói rằng mình phải loan
báo Tin Mừng cho mọi người, nhưng rất nhiều khi chúng ta lại biết một cách rất
mơ hồ, hoặc không biết cho đúng và cho đầy đủ nội dung mà chúng ta phải loan
báo. Để rồi cuối cùng chúng ta chẳng loan báo gì, hay loan báo một thứ Tin Mừng
méo mó.
Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng
là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn,
là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những
bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật
đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người
chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những
người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng
cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v…
Kết quả của những việc đó có thể là
chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan
năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống
gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v… Tất nhiên khi làm được
những việc ấy công lao của chúng ta rất lớn. Nhưng loan báo Tin Mừng có phải là
chỉ làm như vậy không ? Tất cả những người này họ đã biết Tin Mừng là gì chưa ?
đã cảm nghiệm được Tin mà họ nghe là một tin đáng mừng, làm cho đời sống họ hạnh
phúc lên chưa ?
Tất cả những điều đó là những điều nên
làm, cần làm, nhưng chưa phải là nội dung của việc loan báo Tin Mừng. Muốn loan
báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải
cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời
sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc mù
mà lại dắt mù, và kết quả là cả hai sẽ lăn cù xuống hố (Mt 15,14 ; Lc 6,39).
Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy
Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống
mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời
sống người khác, thì có khác gì cho đi cái mình chẳng có ? Như thế thì người nhận
sẽ nhận được gì ?
Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về
Tin Mừng, chia sẻ Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc
làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết
phục.
c/ Loan báo Tin Mừng
Một trong những sứ mạng của Đức Kitô tại
trần thế này là loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa Cha, làm sao để mọi người nhận
biết và yêu mến Thiên Chúa Cha, để nhờ đó được sự sống đời đời hay hạnh phúc
vĩnh cửu : Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và
chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô (Gioan 17,3).
Và Thiên Chúa Cha đó chính là Tình Yêu
(xem 1 Gioan 4,8), Ngài yêu thương chúng ta vô bờ bến : Chính Chúa Cha yêu mến
anh em (Gioan 16,27) ; Chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu
thương Con (Gioan 17,23).
Và Thiên Chúa Cha đó ở ngay trong nội
tâm mỗi người chúng ta, chúng ta có thể gặp gỡ Ngài bất kỳ lúc nào chúng ta muốn
: Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần
Thiên Chúa ngự trong anh em sao ?... Đền thờ ấy chính là anh em (1 Cr 3,16-17 ;
x. 1 Cr 6,19 ; 2 Cr 6,16 ; Ep 2,20-22). Thiên Chúa đó lại là một Thiên Chúa quyền
năng, có thể làm cho ta tất cả những gì Ngài muốn. Do đó, ta có thể yên tâm
hoàn toàn khi phó thác tất cả mọi sự trong tay Ngài, Đấng vừa yêu thương ta, vừa
quyền phép vô biên.
Nội dung Tin Mừng đối với chúng ta còn
là sự nhập thể, là đời sống, là giáo huấn, là cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức
Kitô, Con Một của Thiên Chúa Cha nữa. Đức Kitô cũng là người yêu thương chúng
ta như Thiên Chúa Cha đã yêu ta : Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình
còn ở thế gian, và yêu thương họ đến cùng (Gioan 13,1). Yêu đến cùng là yêu đến
nỗi sẵn sàng hiến mạng sống mình một cách đau khổ và nhục nhã nhất (x. Gioan
15,13). (Nguyễn Chính Kết)
5.
Chuyện minh họa
a/ Không đến nỗi nào đâu !
Có một chuyện kể rằng khi Đức Giêsu về
trời, Tổng lãnh Thiên thần Gabriel ngạc nhiên vì Ngài trở về sớm quá. Gabriel
biết rằng công việc Chúa Cha giao cho Đức Giêsu rất nhiều, không thể kết thúc
trong thời gian chỉ có 3 năm như thế. Bởi vậy Tổng lãnh Thiên Thần hỏi :
- Sao Chúa về sớm vậy ?
- Ờ, Ta cũng muốn ở dưới đó lâu hơn.
Nhưng mà họ đã đóng đinh Ta.
- Đóng đinh Chúa ư ? Vậy là Chúa thất bại
rồi !
- Không hẳn vậy. Trước đó Ta đã kịp lập
một nhóm tín hữu. Từ nay về sau, họ sẽ tiếp tục công việc của Ta.
- Nhưng nếu họ cũng thất bại nữa thì chắc
là tiêu tùng luôn rồi !
- Không đến nỗi vậy đâu, vì một đàng Ta
đã hứa sẽ ở cùng họ cho đến ngày tận thế, và đàng khác Ta còn phái Thánh Thần đến
giúp họ nữa.
- À ra thế. Chắc là sẽ không thất bại nữa.
b/ Mặt trước
Một đêm, cô bé đi bên cha dưới bầu trời đầy sao. Nhìn lên, em nói với
cha : "Ba ơi, con đang nghĩ rằng nếu như mặt sau của thiên đàng mà còn đẹp
thế kia, thì mặt trước phải đẹp biết chừng nào !"
c/ Đường về
Một tù trưởng đã khéo léo lãnh đạo bộ lạc trong nhiều năm. Cuối cùng,
ông chuẩn bị cái chết của mình cách rất bình thản. Người ta hỏi : "Sao ông
bình thản vậy ? Đau khổ và cái chết có gì vui đâu ?" Ông đáp :
"Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ này, rồi xuôi dòng Missisipi,
nhưng mùa xuân về, nó lại về đây như là về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ
trên kia, mùa ông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến,
nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa
Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ,
không người hướng dẫn ? Vì Thánh Linh đã đặt vào lòng chúng con đường trở về.
Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và
con đường trở về. Tôi đang chuẩn bị cho đường về của tôi. Vậy làm sao tôi lại
không vui chứ ?"
V. LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Hôm nay Đức Kitô lên trời ngự bên hữu
Chúa Cha để mở đường cho người kitô hữu bước vào thiên quốc. Chúng ta hãy hoan
hỉ tung hô Người và dâng lời cầu nguyện.
1. Hội Thánh có sứ mạng thực hiện lệnh
truyền của Đức Giêsu / là rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc trên khắp hoàn cầu
/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi nước mọi dân / được nghe biết Tin Mừng cứu
độ / để muôn người tin yêu và vâng phục Chúa.
2. Hiện nay / chỉ một phần ba nhân loại
tin vào Chúa / do đó trách nhiệm giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận
biết Chúa / là bổn phận quan trọng nhất của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho các tín hữu / biết ý thức sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình.
3. Người kitô hữu có thể rao giảng ở mọi
nơi mọi lúc / bằng chính đời sống bác ái yêu thương / và tận tuỵ phục vụ của
mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu luôn sống gương mẫu / để có thể
đem Chúa đến cho tha nhân.
4. Đức tin không làm việc là đức tin chết
/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm
tin sống động của mình trong cuộc sống thường ngày / bằng những việc làm cụ thể
/ chứ không chỉ bằng những lời nói suông.
CT : Lạy Chúa Giêsu, khi đã lãnh bí tích
Thánh Tẩy và Thêm sức, tất cả chúng con đều là những người được sai đi. Xin
Chúa cho chúng con luôn sống trọn vẹn ơn gọi thừa sai của mình. Chúa hằng sống…
VI.
TRONG THÁNH LỄ
- Kinh Tiền Tụng riêng cho lễ Thăng
Thiên
- Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu phục
sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ
Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp rước
Chúa Giêsu vào lòng. Hãy xin Ngài thêm sức giúp chúng ta chu toàn sứ mạng Ngài
trối lại cho chúng ta tiếp nối. "Đây Chiên Thiên Chúa…"
VII. GIẢI
TÁN
Hôm nay Đức Giêsu lặp lại với anh chị em
lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa : "Anh em hãy đi đến với muôn
dân…", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Lễ Chúa
Thăng Thiên (A)
Chúa Nhật,
28 Tháng 5, 2017
Hãy
đi khắp thế giới
Sứ vụ
phổ quát
Mt 28:16-20
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí
Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các
môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng
của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra
được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là
sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống
lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng
để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất
là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ
Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng
cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch
của tình anh em, công lý và hòa bình.
Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải
cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài
Đọc
a)
Chìa khóa để hướng dẫn bài đọc:
Đoạn văn này ghi lại những lời sau cùng
của Chúa Giêsu theo Phúc Âm của Mátthêu.
Đây giống như một di chúc, ước muốn cuối cùng của Người gửi cho cộng
đoàn, đó là điều quan trọng hơn hết trong tâm trí của Người. Trong bài đọc, chúng ta cố gắng chú ý đến những
điều sau đây: Chúa Giêsu nhấn mạnh đến
điều gì nhất trong những lời cuối của Người?
b)
Phân đoạn chương 28 để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 28:16 – Địa điểm: trở về Galilêa
Mt 28:17 – Việc hiện ra của Chúa Giêsu
và phản ứng của các môn đệ
Mt 28:18-20a – Những lời hướng dẫn cuối
cùng của Chúa Giêsu
Mt 28:20b – Lời hứa trọng đại, căn
nguyên của mọi hy vọng.
c)
Phúc Âm:
16:
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu chỉ trước.
17:
Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi.
18-20a:
Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được
ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy
muôn dân; làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần, giảng dạy
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.
20b:
Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.”
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời
sống chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý:
a)
Điều gì đã đánh động và đụng chạm vào tâm hồn bạn nhất?
b)
Hãy nhận biết các chi tiết về thứ tự thời gian và nơi chốn trong đoạn
Tin Mừng này.
c)
Các môn đệ phản ứng ra sao? Nội
dung những Lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ là gì?
d)
Câu “mọi quyền năng trên trời dưới đất” đã được ban cho Chúa Giêsu có
nghĩa là gì?
e)
“Để trở thành một môn đệ” của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì?
f)
Trong bối cảnh này, phép rửa tội “nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”
có ý nghĩa như thế nào?
g)
Những chữ “Thầy ở cùng các con mọi ngày, cho đến tận thế” nhắc nhở chúng
ta điều gì trong Cựu Ước?
5.
Chìa khóa của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong
bài Tin Mừng.
a)
Bối cảnh của Tin Mừng Mátthêu
* Tin Mừng
Mátthêu, viết vào khoảng năm 85, được viết cho một cộng đoàn người Do Thái cải
đạo sống tại Syria-Palestine. Họ đang trải
qua một cuộc khủng hoảng căn tính sâu đậm về quá khứ của họ. Khi họ chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế
đang được mong đợi, họ vẫ tiếp tục đi đến các hội đường và tuân giữ lề luật và
các truyền thống của cha ông họ để lại.
Hơn thế nữa, họ đã có mối quan hệ thân thích gần gũi với những người Biệt
Phái, và sau cuộc nổi dậy của người Do Thái tại Palestine chống lại đế quốc La
Mã (từ năm 65 đến năm 72), họ và những người Biệt Phái là hai nhóm duy nhất đã
sống sót dưới cuộc đàn áp của người La Mã.
*
Từ những năm trong thập niên 80, những người Do Thái anh em, Biệt Phái
và Kitô hữu, những kẻ sống sót duy nhất, đã bắt đầu chống lại nhau để làm những
kẻ thừa kế của các lời hứa trong Cựu Ước.
Mỗi nhóm đều nhận mình là kẻ thừa kế.
Dần dà, sự căng thẳng đã tăng dần trong bọn họ và họ đã bắt đầu tuyệt
giao với nhau. Các người Kitô hữu không
còn có thể tham dự tại hội đường và đã bị cắt đứt khỏi quá khứ của họ. Mỗi nhóm bắt đầu tập hợp lại: những người Biệt Phái đến hội đường, các Kitô
hữu đến nhà thờ. Điều này đã làm tăng
thêm vấn đề bản sắc của cộng đoàn Kitô hữu gốc Do Thái vì nó đưa ra những vấn nạn
nghiêm trọng cần có giải pháp cấp bách.
“Ai là người hưởng thừa kế những lời hứa của Cựu Ước, những người đi đến
hội đường hay những người đi đến nhà thờ?
Thiên Chúa ở về phe nào? Ai thực
sự là dân riêng của Thiên Chúa?”
*
Giờ đây, Mátthêu viết Tin Mừng của mình để giúp đỡ các cộng đoàn vượt
qua cuộc khủng hoảng của họ. Trước hết,
Tin Mừng của ông là một Tin Mừng mặc khải cho thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu
Thế đích thực, một ông Môisen mới, tột đỉnh của toàn bộ lịch sử Cựu Ước và những
lời hứa trong đó. Đó cũng là Tin Mừng của
sự an ủi cho những ai bị hắt hủi và ngược đãi bởi những người anh em Do Thái của
họ. Mátthêu muốn an ủi và giúp họ vượt
qua khỏi nỗi tổn thương của sự chia lìa.
Đó là Tin Mừng của việc thực thi mới bởi vì nó cho thấy con đường để đạt
được một nền công lý mới, cao cả hơn công lý của những người Biệt Phái. Đó là Tin Mừng của sự cởi mở và cho thấy rằng
Tin Mừng của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang lại không thể bị che dấu, nhưng phải
được đặt trên ngọn nến để nó có thể soi sáng đời sống cho tất cả mọi dân tộc.
b)
Lời bình giải về đoạn Tin Mừng theo Mátthêu 28:16-20
*
Mt 28:16: Trở về Galilêa: Galilêa là nơi bắt đầu mọi sự (Mt 4:12). Ở đó các môn đệ lần đầu tiên đã được nghe thấy
ơn gọi (Mt 4:15) và cũng nơi đó, Chúa Giêsu đã hứa sẽ đoàn tụ lại với các ông
sau khi phục sinh (Mt 26:31). Trong Phúc
Âm Luca, Chúa Giêsu cấm các ông không được rời khỏi Giêrusalem (Cv 1:4). Trong Phúc Âm Mátthêu, họ được lệnh phải rời
khỏi Giêrusalem và trở lại Galilêa (Mt 28:7, 10). Mỗi nhà truyền giáo theo cách riêng của mình
để trình bày con người của Đức Giêsu và các kế hoạch của Người. Đối với Luca, sau sự phục sinh của Chúa
Giêsu, việc công bố Tin Mừng đã bắt đầu ở Giêrusalem để cho đến tận cùng trái đất
(Cv 1:8). Đối với Mátthêu, việc công bố
khởi đầu tại Galilêa của dân ngoại (Mt 4:15) để biểu hiện trước việc chuyển đổi
từ dân Do Thái cho tới dân ngoại.
Các môn đệ đã phải đi đến ngọn núi mà
Chúa Giêsu đã chỉ trước cho họ. Núi này
nhắc nhở chúng ta về núi Sinai, nơi mà Giao Ước đầu tiên đã xảy ra và là nơi
ông Môisen đã lãnh những tấm bia Lề Luật của Thiên Chúa (Xh 19-24;
34:1-35). Nó cũng nhắc nhở chúng ta về
núi của Thiên Chúa, nơi mà tiên tri Êlia đã ẩn cư để đi tìm lại ý nghĩa sứ vụ của
ông (1V 19:1-18). Nó cũng nhắc nhở chúng
ta về ngọn núi Chúa Biến Hình, nơi các ông Môisen và Êlia, đó là, Lề Luật và
các ngôn sứ, hiện ra với Chúa Giêsu, do đó xác nhận rằng Người là Đấng Cứu Thế
đã được hứa (Mt 17:1-8).
*
Mt 28:17: Một số người đã hoài nghi: Các Kitô hữu đầu tiên đã gặp khó khăn lớn
trong việc tin vào sự phục sinh. Các
Thánh Sử nhấn mạnh khi nói rằng họ nghi ngờ rất nhiều và đã không tin vào sự sống
lại của Chúa Giêsu (Mc 16:11, 13, 14; Lc 24:11, 21, 25, 36, 41; Ga 20:25). Niềm tin vào sự phục sinh là một tiến trình
chậm chạp và khó khăn, nhưng được kết thúc bởi sự đoan chắc nhất của các Kitô hữu
(1 Cr 15:3-24).
*
Mt 28:18: Mọi quyền năng trên trời
dưới đất đã được ban cho Thầy: Hình thức
bị động của động từ cho thấy rằng Chúa Giêsu đã nhận được quyền năng của Người
từ Chúa Cha. Quyền bính này là gì? Trong sách Khải Huyền, Chiên Con (Chúa Giêsu
Phục Sinh) đã nhận từ tay của Thiên Chúa cuốn sách với bảy con dấu (Kh 5:7) và
đã trở thành Chúa của lịch sử, Người là Đấng chịu trách nhiệm thực thi các
chương trình của Thiên Chúa như đã mô tả trong quyển sách được niêm phong, và
được tôn sùng bởi mọi loài thụ tạo như thế (Kh 12:11-14). Bằng vào quyền bính và quyền năng của mình,
Người chiến thắng con Mãng xà, quyền lực của sự dữ (Kh 12:1-9). Và bắt giữ con thú dữ và tiên tri giả, các biểu
tượng của Đế Quốc La Mã (Kh 19:20).
Trong Kinh Tin Kính của Thánh Lễ chúng ta tuyên xưng rằng Đức Giêsu lên
trời và ngự bên hữu Chúa Cha, như thế Người sẽ lại đến để phán xét kẻ sống và kẻ
chết.
*
Mt 28:19-20a: Những lời cuối cùng
của Chúa Giêsu: ba mệnh lệnh truyền cho
các môn đệ: Được ủy thác với quyền bính
tối cao, Chúa Giêsu truyền lại ba mệnh lệnh cho các môn đệ và cho tất cả chúng
ta: (i)
Đi giảng dạy cho muôn dân; (ii) làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần; (iii) giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các
con.
i)
Đi giảng dạy cho muôn dân: Là một
người môn đệ không giống như một học trò.
Người môn đệ được ở trong một mối quan hệ với vị tôn sư. Người học trò ở trong một mối tương quan với
người dạy học. Người môn đệ sống với vị
tôn sư 24 giờ một ngày; người học trò nhận lãnh bài học từ thày giáo trong vài
tiếng đồng hồ rồi sau đó trở về nhà. Người
môn đệ bao hàm ý một cộng đoàn. Người học
trò bao hàm sự hiện diện trong một lớp học cho các bài học. Vị trí của người môn đệ thời ấy được đánh dấu
bằng sự biểu lộ đi theo vị tôn sư. Trong
Luật dòng Cát Minh, chúng ta đọc thấy: Sống
trong sự tùng phục Chúa Giêsu Kitô. Đối
với những Kitô hữu tiên khởi, đi theo Chúa Giêsu mang ý nghĩa ba việc liên kết
sau:
-
Noi theo gương Thầy: Chúa Giêsu
là mẫu mực để noi theo và để được lặp lại trong đời sống của người môn đệ (Ga
13:13-15). Sống với nhau mỗi ngày có
nghĩa là một cuộc họp liên tục. Trong
Trường của Chúa Giêsu chỉ có một môn học được dạy: Vương Quốc Nước Trời! Vương Quốc này có thể được nhìn thấy trong đời
sống và sự thực hành của Chúa Giêsu.
-
Chia sẻ số phận của Thầy: Những
ai đi theo Chúa Giêsu, đã phải tự cam kết “một lòng gắn bó với Người trong mọi
thử thách cám dỗ” (Lc 22:28), trong lúc bị bách hại (Ga 15:20; Mt 10:24-25) và
phải sẵn sàng vác thập giá và chết với Người (Mk 8:34-35; Ga11:36).
-
Sống trong đời sống của Chúa Giêsu:
Sau khi Phục Sinh, một khía cạnh thứ ba đã được thêm vào: “Bây giờ tôi sống không phải là tôi sống mà
là Đức Kitô sống trong tôi”. Các Kitô hữu
tiên khởi đã cố xác định căn tính của mình với Chúa Giêsu. Đây là khía cạnh mầu nhiệm trong việc đi theo
Đức Giêsu, là hoa trái sự tác động của Chúa Thánh Thần.
ii)
Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần: Ba Ngôi Thiên Chúa là sự khởi đầu, sự kết
thúc và đường đi. Những ai chịu phép rửa
nhân danh Chúa Cha, được mặc khải trong Chúa Giêsu, cam kết sống với nhau như
anh chị em trong tình huynh đệ. Và nếu
Thiên Chúa là Cha, thì tất cả chúng ta đều là anh chị em. Những ai chịu phép rửa nhân danh Chúa Con,
Chúa Giêsu, cam kết noi gương Đức Giêsu và đi theo Người ngay cả trên thập giá
để sống lại với Người. Và quyền năng mà
Chúa Giêsu nhận lãnh từ Chúa Cha là một quyền năng sáng tạo đã chinh phục sự chết. Những ai chịu phép rửa nhân danh Chúa Thánh
Thần, được trao ban bởi Chúa Giêsu trong ngày lễ Ngũ Tuần, cam kết sống trong
tình anh em và theo gương Đức Giêsu, đặt mình dưới sự hướng dẫn bởi Chúa Thánh
Thần sống động ở giữa cộng đoàn.
iii)
Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Thầy: Đối với chúng ta là những Kitô hữu, Chúa
Giêsu là Lề Luật Mới của Thiên Chúa, được công bố từ ở trên núi cao. Đức Giêsu là Đấng được chọn bởi Chúa Cha như
một ông Môisen mới, những lời của Người là lề luật cho chúng ta. “Hãy nghe lời Người” (Mt 17:15).
Chúa Thánh Thần được Người sai đến sẽ nhắc nhở chúng ta về mọi điều Chúa
đã dạy chúng ta (Ga 14:26; 16:13). Việc
tuân giữ Lề Luật mới của tình yêu được quân bình bởi sự hiện diện như món quà tặng
của Chúa Giêsu ở chúng ta, cho đến tận thế.
*
Mt 28:20b: Thầy ở cùng các con mọi
ngày, cho đến tận thế: Khi Môisen được
sai đi đến để giải thoát dân chúng khỏi đất Ai Cập, ông đã nhận được một sự cam
kết từ Thiên Chúa, lời cam kết duy nhất ban cho sự đoan chắc hoàn toàn: “Hãy đi, Ta sẽ ở với ngươi!” (Xh 3:12). Đó cũng là lời đoan chắc được hứa với các
ngôn sứ và các người khác được sai đến bởi Thiên Chúa để thực hiện một sứ vụ
quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa (Gr 1:8; Tl 6:16). Đức Trinh Nữ Maria cũng đã nhận được cùng lời
cam kết như thế khi sứ thần nói với Bà:
“Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1:28).
Con người của Chúa Giêsu là sự biểu hiện sống thực của lời cam kết này,
bởi vì tên Người là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1:23). Người sẽ ở cùng với các môn đệ của Người, với
tất cả chúng ta, cho đến tận thế. Ở đây
chúng ta thấy quyền bính của Chúa Giêsu.
Người kiểm soát lịch sử và thời gian.
Người là Đấng trước hết và là sau cùng (Kh 1:17). Trước Người, không có gì hiện hữu và sau Người,
không có gì tồn tại. Lời cam kết này
nâng đỡ muôn dân, nuôi dưỡng đức tin của họ, duy trì hy vọng và tạo ra tình yêu
và ân sủng cho họ.
c)
Điểm nổi bật Lời của Chúa Giêsu:
Sứ vụ chung của cộng đoàn.
Ông Abraham được gọi là nguồn mạch của mọi
sự chúc phúc không những chỉ cho các con cháu dòng dõi ông, mà còn cho tất cả mọi
gia tộc trên mặt đất (St 12:3). Dân tộc
bị coi là nô lệ không những chỉ phục hồi được chi tộc của nhà Giacóp, mà còn
làm ánh sáng cho muôn dân (Is 49:6; 42:6).
Ngôn sứ Amốt nói rằng Thiên Chúa đã không chỉ giải thoát dân tộc Do thái
khỏi đất Ai-cập, mà cũng giải thoát dân Phi-li-tinh khỏi Cáp-tor và dân A-ramai
khỏi xứ Kia (Am 9:7). Lúc ấy, Thiên Chúa
chăm sóc và quan tâm đến dân Do thái, cũng như dân Phi-li-tinh và dân A-ramia
là những kẻ thù lớn nhất của dân tộc Do Thái!
Tiên tri Êlia đã nghĩ rằng ông là người duy nhất có lòng nhiệt thành với
Thiên Chúa (1V 19:10-14), nhưng ông đã được bảo cho biết rằng ngoài ông ra còn
có bảy ngàn người khác nữa! (1V 19:18)
Tiên tri Giôna muốn Đấng Gia-Vê chỉ là Thiên Chúa của dân Israel, mà đã
phải thú nhận rằng Ngài là Thiên Chúa của tất cả muôn dân, thậm chí của cả dân
thành Ninivê, những kẻ thù địch cay đắng của dân Israel (Gn 4:1-11). Trong Tân Ước, môn đệ Gioan đã muốn Chúa
Giêsu chỉ là của riêng nhóm nhỏ, cho riêng cộng đoàn, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh
sửa ông và nói rằng: ai không chống lại
chúng ta là ủng hộ chúng ta! (Mc 9:38-40).
Vào cuối
thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, những khó khăn và bách hại có lẽ đã khiến
cho các cộng đoàn Kitô hữu mất đi động lực sứ vụ và sống khép kín, như thể họ
là những kẻ duy nhất nhiệt thành với các giá trị Nước Trời. Nhưng Tin Mừng của thánh Mátthêu, trung thành
với truyền thống lâu đời về việc mở ra cho tất cả các dân, nói với các cộng
đoàn rằng họ không thể sống cho riêng mình.
Họ không thể tự cho mình độc quyền công việc của Thiên Chúa trên thế
gian. Thiên Chúa không là sở hữu riêng của
cộng đoàn; mà đúng hơn cộng đoàn là sở hữu riêng của Thiên Chúa (Xh 19:5). Ở giữa nhân loại mà công cuộc đấu tranh chống
lại bách hại và áp bức, cộng đoàn phải là muối là men (Mt 5:13; 13:33). Họ phải công bố lớn tiếng khắp cả thế gian,
trong muôn dân, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Thiên Chúa đang hiện diện ở giữa chúng ta, với
cũng chính Thiên Chúa, trong thời kỳ Lưu Đày khi xưa, đã hứa là sẽ giải thoát
cho những ai kêu cầu đến Ngài! (Xh 3:7-12).
Đây là sứ vụ của chúng ta. Nếu muối
này mất đi vị mặn của nó, thì nó còn được dùng vào việc gì nữa? “Nếu dùng nó để bón ruộng hay trộn phân đều
không thích hợp” (Lc 14:35)
6.
Thánh Vịnh 150
Lời ca tụng của toàn thế giới
Allêluia!
Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa,
Ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh,
Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ,
Ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và,
Ca tụng Người, họa tiếng cầm tiếng sắt.
Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu trống đưa,
Ca tụng Người, theo cung đàn nhịp sáo.
Ca tụng Chúa đi, với chũm chọe vang rền,
Ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi.
Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng Chúa đi
nào!
Allêluia!
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ
Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc
làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con,
được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà
còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng
sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến
muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét