Trang

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2025

VĂN KIỆN MỚI CỦA ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ: CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON THIÊN CHÚA, ĐẤNG CỨU RỖI, ĐỂ KỶ NIỆM 1.700 NĂM [325 - 2025] CÔNG ĐỒNG NICEA - CHƯƠNG MỘT

 

Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc tế: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi, để Kỷ niệm 1,700 năm [325-2025] Công đồng Nicée

CHƯƠNG MỘT


 

Vũ Văn An  13/Apr/2025

 

Chương một: Kinh Tin Kính cho ơn cứu rỗi: Vinh tụng ca và thần học của tín điều Nicée

7. Cử hành Công đồng Nicée nhân kỷ niệm 1,700 năm thành lập trước hết là để thán phục trước Kinh Tin Kính mà Công đồng đã để lại cho chúng ta và trước vẻ đẹp của hồng phúc được ban tặng trong Chúa Giêsu Kitô, giống như ảnh tượng bằng lời nói. Do đó, chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu về Nicée bằng cách xem xét Kinh Tin Kính này để làm nổi bật sự bao la phi thường của đức tin Ba Ngôi, của Kitô học và của cứu thế học mà nó thể hiện, cũng như những hàm ý nhân học và giáo hội học của nó, trước khi kết thúc bằng phạm vi đại kết của nó. Có thể nói, đây là một hành động của thần học Vinh tụng ca. Bài viết này không nhằm mục đích nghiên cứu sâu sắc từng chủ đề của đức tin Kitô giáo tập trung trong Kinh Tin Kính – một nhiệm vụ ít hữu ích và trong mọi trường hợp là không thể thực hiện được trong khuôn khổ của việc làm này– nhưng nhằm làm nổi bật sự phong phú của các tuyên bố và chân lý được Kinh Tin Kính Nicée đưa ra ở bình diện tín lý, đặc biệt là những tuyên bố và chân lý mang lại thách thức và hiệu quả lớn nhất cho giai đoạn lịch sử này của Giáo hội và thế giới, ngay tại thời điểm chúng ta kỷ niệm ngày thành lập Công đồng Nicée.

1. Nắm bắt được sự bao la của ba Ngôi vị thần linh cứu rỗi chúng ta: “Thiên Chúa là Tình yêu”, vô hạn

8. Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople được xây dựng xung quanh lời khẳng định về đức tin Ba Ngôi:

Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Chúng tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành... Chúng tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con: Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy... [10].

1.1 Sự vĩ đại của thiên chức làm cha của Chúa Cha, nền tảng của sự vĩ đại của Chúa Con và Chúa Thánh Thần

9. Điểm khởi đầu của đức tin Nicée là sự khẳng định về sự hiệp nhất của Thiên Chúa. Kitô giáo về cơ bản là một tôn giáo độc thần, tiếp nối sự mặc khải được ban cho Israel. Tuy nhiên, Kinh Tin Kính này không đặt ra "Thiên Chúa" thuần túy và đơn giản, và càng không phải là bản chất thần thiêng duy nhất, mà đúng hơn là Ngôi vị thần thiêng đầu tiên là Chúa Cha. Là “Đấng sáng tạo trời đất” (x. St 1:1; Nkm 9:6; Kh 10:6), Người là Cha của muôn vật[11]. Hơn nữa, Chúa Kitô mặc khải về mối quan hệ cha con nội tại chưa từng có của Thiên Chúa, nền tảng cho mối quan hệ cha con ngoại tại của Người. Nếu Chúa Kitô là Chúa Con, một cách độc nhất, điều này ngụ ý rằng có một sự sinh sản trong Thiên Chúa: Thiên Chúa Cha ban tặng tất cả những gì Người có và tất cả những gì Người là. Thiên Chúa không phải là một nguyên lý nghèo nàn và ích kỷ: Người là sine invidia [không ghen tỵ] [12]. Quyền làm cha, giống như quyền năng toàn năng của Người, chính là khả năng hiến dâng trọn vẹn bản thân mình. Sự hiến tặng của người cha này không chỉ là một khía cạnh trong số những khía cạnh khác, mà còn định nghĩa về Chúa Cha, Đấng hoàn toàn là cha[13]. Thiên Chúa luôn là Cha và không bao giờ là một Thiên Chúa “đơn độc”[14]. Mối quan hệ cha con với Thiên Chúa duy nhất này là khía cạnh đầu tiên của đức tin Kitô giáo, khơi dậy sự ngạc nhiên và sự bao la của đức tin này phải được cử hành bằng cách tái khám phá Nicée 1700 năm sau. Do đó, vấn đề ở đây là khám phá những hàm ý để hiểu được mầu nhiệm Ba Ngôi.

10. Đức tin vào Chúa Cha chứng thực sự sung mãn vô biên của Thiên Chúa. Điều đầu tiên không chỉ đơn thuần là một định nghĩa về Thiên Chúa, mà trước hết là một lời ca ngợi vốn là một phần của truyền thống Vinh tụng ca trong phụng vụ Do Thái và các phụng vụ Kitô giáo đầu tiên[15]. Thiên Chúa "toàn năng" (pantokratōr) nhắc lại nhiều cách diễn đạt khác nhau trong Cựu Ước, chẳng hạn như "Chúa Sabaoth", được nhắc đến trong Tân Ước trong bối cảnh các nghi lễ trên thiên đàng (Khải Huyền 4:8; 11:17; 15:3; 16:14; 19:6).

11. Sự mặc khải trong Chúa Kitô về thiên chức làm Cha của Thiên Chúa cũng biểu lộ sự bao la của Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nếu Thiên Chúa Cha ban tặng mọi sự, ngoại trừ quyền làm cha, điều này có nghĩa là Chúa Con và Chúa Thánh Thần hoàn toàn bình đẳng với Chúa Cha về thiên tính. Trong Kinh Tin Kính, Chúa Con là “một”, Người là “Chúa” (Kyrios, dịch chữ Tétragramme [Kết từ tứ tự YHWH] trong Bản Bẩy Mươi), “Con Thiên Chúa”, “Đấng duy nhất được sinh ra” (ho monogenēs) trong sự thân mật của Chúa Cha, “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”, “ánh sáng bởi ánh sáng”, “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, đồng bản thể (homoousios) với Chúa Cha. Ví dụ, chúng ta hãy lưu ý: trong Tin mừng thứ tư, Chúa Con nhiều lần được gọi là theos [Thiên Chúa]: Ga 1:1; 5.18; 20.28. Chúa Con được sinh ra “trước muôn đời”, điều này có nghĩa trong Kinh Tin Kính là Người đồng hằng hữu với Chúa Cha (x. Ga 1:1). Điều này nhằm vào các chủ trương của Arius theo đó "đã có một thời điểm khi [Chúa Con] không hiện hữu”, “trước khi được sinh ra, Người đã không hiện hữu” và “Người đã trở thành từ những gì không hiện hữu”[16], hoặc một lần nữa “Chúa Con đến từ hư vô”, theo “ý muốn và sự sắp đặt” của Chúa Cha”[17]. Đây là lý do tại sao Chúa Con có thể được tuyên xưng là “Đấng nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (x. 1 Cr 8:6; Ga 1:3). Thiên Chúa vĩ đại đến nỗi Chúa Cha có thể tạo ra một Đấng khác ngang hàng với Người về mặt thần tính. Thiên Chúa vượt quá mọi điều chúng ta có thể hình dung và tưởng tượng, bởi vì Sự hiệp nhất của Người mang tính đa nguyên thực sự mà không phá vỡ Sự hiệp nhất.

12. Chúa Cha cũng trao mọi sự cho Chúa Thánh Thần, được định nghĩa bằng những thuật ngữ cụ thể dành riêng cho thần tính: “Thánh Thần”, “Thánh” và “Chúa” (một lần nữa gợi lên Tétragramme). Cũng như Chúa Cha là Đấng sáng tạo và Chúa Con là Ngôi Lời mà qua đó Chúa Cha tạo dựng nên muôn vật, Chúa Thánh Thần được tuyên xưng là “Đấng ban sự sống”. Cũng như Chúa Con được sinh ra từ Chúa Cha, thì Chúa Thánh Thần cũng “xuất phát từ Chúa Cha”. Những tuyên bố về Chúa Thánh Thần cố ý nhắc lại điều khoản về Chúa Con.[18] Vì thế, Chúa Thánh Thần có thể và phải được tôn thờ cùng với Chúa Cha và Chúa Con – để xác nhận tính chất Vinh tụng ca của Kinh Tin Kính.

13. Điều cốt yếu là phải giữ cả thần tính của Chúa Thánh Thần là “ngôi thứ ba” trong Thiên Chúa và mối liên hệ của Người với Chúa Cha cũng như với Chúa Con. Thật vậy, ngay cả ngày nay vẫn còn khó khăn khi xem Người như một Ngôi vị thần thiêng hoàn toàn riêng biệt chứ không phải là một sức mạnh thần thiêng đơn thuần hay thậm chí là sức mạnh vũ trụ. Đôi khi chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha và Chúa Con, bỏ qua Chúa Thánh Thần, không giống như lời cầu nguyện của Giáo hội luôn hướng về Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận ra tầm quan trọng hoàn toàn hợp pháp trong Bí tích Thánh Thể, trong Đức Trinh Nữ Maria hoặc trong Giáo hội – mà không cần đo lường xem những điều sau này quý giá như thế nào chính vì chúng được Chúa Thánh Thần làm cho sống động[19]. Ngược lại, những người khác sẽ dành một vị trí trung tâm, thậm chí là độc quyền cho Chúa Thánh Thần, đến mức đẩy Chúa Cha và Chúa Con ra phía sau, điều này, một cách nghịch lý, tương đương với một hình thức giản lược về Thần khí học, vì Người là Thánh Thần của Chúa Cha và Thánh Thần của Chúa Con (Ga 4:6; Rm 8:9). Sự vĩ đại vô biên của Chúa Thánh Thần được thể hiện trong đức tin Nicée là sự bảo vệ chống lại những chủ nghĩa giản lược này.

14. Như vậy, từ nguồn mạch sung mãn của tình phụ tử Thiên Chúa, tuôn trào sự sung mãn vô biên của Thiên Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần, semper major [luôn luôn lớn lao hơn]. Bây giờ sự viên mãn của Chúa Cha ngụ ý một taxis (một trật tự) trong cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha là nguồn gốc của mọi thần tính[20]. Ngôi thứ hai thực sự là Thiên Chúa và ánh sáng, nhưng Người là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”, “ánh sáng bởi ánh sáng”. Trong khi được tuyên xưng là ngang hàng về mặt thần tính với Chúa Con và Chúa Cha, Chúa Thánh Thần được biểu lộ theo cách hoàn toàn khác biệt so với hai Đấng kia. Chúng ta vừa thấy (xem § 12 ở trên) rằng Người được trình bày với những đặc điểm thần thiêng và phải được tôn thờ cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Tuy nhiên, sự khác biệt trong cách diễn đạt là đáng chú ý: những gì được nói về Chúa Cha và Chúa Con "là một" hoặc về Chúa Con "đồng bản thể" thì không được nhắc lại khi nói về Chúa Thánh Thần. Không làm mất đi bất cứ điều gì trong thiên tính của Người, cách đề cập đến Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính nhấn mạnh đến sự khác biệt ngôi vị của Người. Vì vậy, bản chất riêng của Chúa Thánh Thần làm nổi bật tính độc nhất của mỗi ngôi vị thần linh. Theo một cách nào đó, trong Thiên Chúa, “hypostase” hay “ngôi vị” là một thuật ngữ tương tự, theo nghĩa là mỗi một trong ba “tên” thần thánh đều là một ngôi vị trọn vẹn, nhưng theo một cách độc đáo riêng. Tính độc đáo này cũng cho thấy rằng sự bình đẳng một mặt, còn sự khác biệt và trật tự mặt khác không mâu thuẫn với nhau. Đây cũng là hoa trái của tình phụ tử vô bờ bến của Chúa Cha. Tiếp nhận Công đồng Nicée có nghĩa là tiếp nhận sự phong phú của tình phụ tử thần thiêng, thiết lập sự bình đẳng nhưng cũng có sự khác biệt và tính duy nhất.

1.2 Suy gẫm về cách sử dụng biểu thức homoousios

15. Một trong những đóng góp cốt lõi của Công đồng Nicée là định nghĩa về thiên tính của Chúa Con theo nghĩa đồng bản thể: Chúa Con "đồng bản thể" (homoousios) với Chúa Cha, "được sinh ra bởi Chúa Cha", "nghĩa là, từ bản thể của Chúa Cha".[21] Việc sinh ra Chúa Con là điều gì đó khác với sự sáng tạo, bởi vì đó là sự thông truyền về một bản thể của Chúa Cha. Người Con không chỉ là Thiên Chúa trọn vẹn như Chúa Cha, mà còn có bản thể giống hệt về mặt số lượng [numérique] với bản thể của Người, vì không có sự phân chia trong một Thiên Chúa[22]. Chúng ta hãy nhắc lại: Chúa Cha ban mọi sự cho Chúa Con, theo luận lý của một cuộc sống thần linh, là tình yêu agape và luôn vượt quá những gì trí óc con người có thể hình dung.

16. Lần đầu tiên, các thuật ngữ không phải Kinh thánh được sử dụng trong một bản văn chính thức và mang tính chuẩn mực của Giáo hội – chúng ta sẽ quay lại vấn đề này trong chương thứ ba và thứ tư. Ý định của các Nghị phụ Công đồng không phải là đưa ra sự mới lạ vào đức tin tông truyền, nhưng là bảo vệ đức tin đó bằng cách giải thích sự sinh sản trong Thiên Chúa thực sự là gì. Đây là lý do tại sao trong Kinh Tin Kính 325, homoousios được giới thiệu bằng cụm từ “nghĩa là”: thuật ngữ bản thể học của Hy Lạp phục vụ cho các cách diễn đạt kinh thánh truyền thống[23]. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ thuyết Ngộ đạo và bị lên án bởi công đồng khu vực Antiochee (264-269), đã gây ra nhiều tranh cãi trong những thập niên sau Nicée. Nhưng từ những năm 360 trở đi, số lượng thành viên tăng lên cho đến khi được phê chuẩn hoàn toàn và hòa bình tại Constantinople (năm 381). Vai trò của nó trong việc giải thích và bảo vệ đức tin sau đó được công nhận, cũng như khả năng sáng tạo của lý trí, triết học và văn hóa con người trong việc chào đón Mặc khải. Như đã nói trong Kinh Thánh, điều này nhấn mạnh rằng Mặc Khải ngụ ý một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, một cuộc đối thoại được thực hiện ở cả hai phía bằng lời nói của con người, có vị trí, có giới hạn và do đó luôn phải được diễn giải. Sự sống thần thiêng không chỉ tự mặc khải như vô cùng dồi dào, mà chính hình thức Mặc khải, có khả năng diễn đạt bằng lời nói của con người, và sớm được dịch sang mọi ngôn ngữ, được tự biểu lộ ở đây semper major [luon ớn lao hơn].

17. Tuy nhiên, câu nói này không phải là câu duy nhất được dùng trong kinh Tin Kính để diễn tả thiên tính cứu rỗi của Chúa Con. Nó được chèn vào giữa một loạt các thuật ngữ có nguồn gốc từ kinh thánh và phụng vụ: “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa[24]” và “ánh sáng bởi ánh sáng”. Không một thuật ngữ nào có thể diễn tả hết được sự sung mãn vô tận của Mặc Khải. Đức tin cần sự diễn đạt bằng các biểu thức Kinh thánh, triết học và phụng vụ, các khái niệm, hình ảnh và danh xưng thần linh (Cha, Con, Thánh Thần) để diễn đạt theo cách công bằng và trọn vẹn nhất. Các phương thức diễn đạt của các Giáo hội và cộng đồng giáo hội khác nhau có thể hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình tái khám phá này, vì một số nhấn mạnh nhiều hơn vào phương thức này hoặc phương thức kia: do đó, truyền thống phương Đông nhấn mạnh đến sự hiểu biết về Chúa Kitô là "ánh sáng bởi ánh sáng[25]". Sự đa dạng của vốn từ vựng chắc chắn góp phần làm cho đức tin được diễn đạt ở đó dễ hiểu hơn trong các nền văn hóa khác nhau và theo cách hiểu của mỗi con người.

1.3 Sự thống nhất của lịch sử cứu rỗi

18. Để hiểu đầy đủ ý nghĩa của Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople, cần phải hiểu tính thống nhất của khuôn khổ lịch sử cứu rỗi, điều này hình thành nên lời tuyên xưng đức tin. Thật vậy, việc quy công cuộc sáng tạo hay "món quà sự sống" cho ba ngôi vị nhấn mạnh đến sự thống nhất giữa trật tự sáng tạo và trật tự cứu rỗi. Sự thần linh hóa bắt đầu bằng hành động sáng tạo, lịch sử cứu rỗi bắt đầu bằng sự sáng tạo. Chống lại thuyết Marcion và các hình thức khác nhau của thuyết Ngộ đạo, phải cho rằng chính Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu rỗi, và chính thực tại được sáng tạo, tốt lành vì được Thiên Chúa mong muốn, được phục hồi trong sự cứu chuộc. Vì thế, ân sủng không tạo ra sự gián đoạn nhưng mang đến sự viên mãn, vì ân sủng đã hoạt động trong công trình sáng tạo được giao phó cho nó.

19. Tương tự như vậy, nhiệm cục cứu rỗi được thực hiện trong Chúa Kitô chỉ được trình bày theo đúng ý nghĩa đích thực và trọn vẹn của nó nếu sự trung thành của nó đối với mặc khải được ban cho dân Israel được nhấn mạnh, nếu không thì đức tin được diễn tả tại Nicée sẽ mất đi tính chính đáng và tính trọn vẹn của chiều kích lịch sử của nó. Rõ ràng, chiều kích Ba Ngôi và Kitô học của đức tin Nicée không được truyền thống giáo sĩ Do Thái chấp nhận nhưng theo quan điểm Kitô giáo, nó được hiểu theo cách thiết yếu là một sự mới lạ nhưng được khắc ghi trong tính liên tục với sự mặc khải được giao phó cho dân Chúa chọn. Học thuyết về Chúa Ba Ngôi chắc chắn không có mục đích là tương đối hóa, nhưng là đào sâu đức tin vào Thiên Chúa duy nhất của Israel[26]. Chúng tôi đã chỉ ra rằng những ám chỉ về "một" Thiên Chúa và "Đấng sáng tạo trời đất" gợi lại Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa mặc khải mình là Đấng sáng tạo vì tình yêu, bước vào các mối quan hệ vì tình yêu và kêu gọi được yêu lại. Thiên Chúa gọi Abraham là “bạn” của Người, “người Người yêu” (Is 41:8; 2 Sb 20:7; Gc 2:23), và Người nói chuyện với Moses “mặt đối mặt, như người này nói chuyện với người kia” (Xh 33:11). Tương tự như vậy, sự lựa chọn homoousios được thực hiện chính là để bảo vệ bản chất độc thần của đức tin Kitô giáo: trong Chúa, không có thực tại nào khác ngoài thực tại thần thiêng. Chúa Con và Chúa Thánh Thần không ai khác chính là Thiên Chúa chứ không phải là đấng trung gian giữa Thiên Chúa và thế gian hay chỉ là những tạo vật. Hơn nữa, sự mặc khải được ban cho dân Israel chứng minh rằng Chúa là Đấng Duy Nhất cam kết, tận hiến và giao tiếp với lịch sử loài người. Kitô giáo hiểu rằng Nhập thể là sự viên mãn chưa từng có của cách thực hiện (nhiệm cục) của Thiên Chúa Israel, Đấng ngự xuống và ngự giữa dân Người, được thực hiện trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa với một nhân loại duy nhất, Chúa Giêsu[27].

20. Hơn nữa, sự phát triển của đức tin Ba Ngôi được diễn đạt tại Nicée không phải là không có bối cảnh Do Thái. Kinh Tin Kính được cấu trúc bằng cách lặp lại ba lần: “Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha… và một Chúa Giêsu Kitô… và một Chúa Thánh Thần.” Thật vậy, đức tin Ba Ngôi mới ra đời của những thế kỷ đầu tiên phát triển sự hiệp nhất của các danh thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, từ đức tin độc thần của Israel được diễn tả vào đầu Sh’ma Israel, “Chúa, Thiên Chúa chúng ta là một” (Đnl 6:4), bằng cách lặp lại lời cầu nguyện trung tâm này của Do Thái giáo, mở rộng thuộc tính về sự hiệp nhất-duy nhất của Thiên Chúa duy nhất cho Chúa Con: “Tôi tin kính một Thiên Chúa... và một Chúa...”. Điều này đã đúng trong các phác thảo về cách diễn đạt đức tin Ba Ngôi cụ thể trong Tân Ước: “Đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, từ Người mà mọi vật được tạo thành, và chúng ta hiện hữu nhờ Người; và một Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà muôn vật hiện hữu, và chúng ta hiện hữu nhờ Người” (1 Cô-rinh-tô 8:6, chúng tôi nhấn mạnh). Những ngôi vị này, “hai ngôi” [binitaire], cùng tồn tại với các công thức “ba ngôi” [trinitaire]: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí,... Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:4-6 chúng tôi nhấn mạnh; cũng xem 1 Cr 12:4-6). Rõ ràng, nội dung sẽ nhanh chóng phát triển theo các quan niệm không thể được chấp nhận bởi giáo sĩ Do Thái, nhưng chính từ những viên đá chờ đợi này và từ bên trong các cấu trúc phụng vụ Do Thái mà đức tin Kitô giáo phát triển. Hơn nữa, cần phải nhấn mạnh đến sự phong phú đa diện của thuyết độc thần của Israel được tiết lộ qua Kinh thánh Do Thái và các tác phẩm của thời kỳ Đền thờ thứ hai [28]. Có ý tưởng về sự giàu có vô cùng nơi Thiên Chúa mà không mâu thuẫn với tính duy nhất và sự thống nhất của Người. Điều này được chứng minh trong sự đa dạng của các hình tượng của Thiên Chúa, như chiều kích "hai ngôi", theo một nghĩa nào đó, mà một số chuyên gia nhận thấy trong tính hai mặt giữa "Đấng Lão thành" và người "giống như con người" (Đn 7,9-14) [29]. Sự giàu có này vẫn được biểu lộ trong các hình tượng khác nhau của Thiên Chúa trong hành động của Người trong thế giới: Thiên thần của Chúa, Ngôi lời (dābār), Thánh thần (rûaḥ) và Khôn ngoan (ḥākmâ)[30]. Một số nhà chú giải đương thời cũng cho rằng có một giai đoạn nhị nguyên đầu tiên trong lời tuyên xưng đức tin của Kitô giáo, giai đoạn này tự nhiên ghi lại lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Chúa Giêsu thành Nadarét là Kyrios được tôn vinh sau khi chết, với một cấp bậc thần linh thực sự, trong sự liên tục của thuyết độc thần được thể hiện trong Kinh thánh[31]. Vì vậy, mặc dù không nhất thiết phải phóng chiếu đức tin Ba Ngôi ngược lại Cựu Ước, nhưng vẫn có thể nhận thấy giữa Cựu Ước và Tân Ước một quá trình phát triển, mặc dù không theo tuyến tính, một hình thức tập hợp những thực tại khác nhau này thành hai hình tượng: Chúa Con-Ngôi Lời và Chúa Thánh Thần. Khi tiến đến việc người ta coi lời khẳng định về hai ngôi vị thần linh khác như sự liên hợp bên ngoài với một Thiên Chúa duy nhất, người ta đã bỏ qua việc thừa nhận ý tưởng của Kitô giáo về khả năng sinh sản nội tại của Chúa Cha trong bản thể duy nhất và không thể phân chia của ba ngôi vị đồng vĩnh hằng.

2. Nắm bắt sự bao la của Chúa Kitô Cứu Thế và hành động cứu rỗi của Người

21. Trọng tâm của điều thứ hai trong Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople là lời tuyên xưng về sự nhập thể và hành động cứu chuộc của Chúa Con. Sau khi tuyên xưng thiên tính của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta cũng tuyên xưng rằng:

[Chúng tôi tin vào một Chúa Giêsu Kitô]. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng

2.1 Nhìn thấy Chúa Kitô trong tất cả sự vĩ đại của Người

22. Công đồng Nicée cho phép chúng ta “nhìn thấy Chúa Kitô trong tất cả sự vĩ đại của Người[33]”. Hai chiều kích khiến Người trở thành trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người được đánh dấu bằng việc đề cập đến hai tác nhân của sự nhập thể: "Người nhập thể bởi Chúa Thánh Thần và Đức Trinh Nữ Maria." Người là Thiên Chúa trọn vẹn, là Đấng đến từ Đức Trinh Nữ bởi quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa; Người là người trọn vẹn, được sinh ra từ người phụ nữ. Người là homoousios đối với Chúa Cha nhưng cũng đối với chúng ta, theo tuyên bố kép sau này của Chalcédoine [34] – biết rằng thuật ngữ homoousios không thể có một đơn nghĩa khi nói đến mối liên hệ giữa Chúa Con nhập thể với Chúa Cha hoặc với các hữu thể nhân bản. Ngôi Lời đã trở nên xác phàm chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng duy nhất và không thể thay đổi, đảm nhận một nhân tính độc nhất và hữu hạn. Chính vì Chúa Giêsu đích thân đồng nhất (về mặt ngôi vị) với Chúa Con vĩnh cửu nên Người có thể, bằng cách chịu cái chết của con người theo cách bi thảm, duy trì mối quan hệ sống động với Chúa Cha và biến sự xa cách Thiên Chúa, tội lỗi và sự chết (x. Rm 6:23), thành sự tiếp cận với Thiên Chúa (x. 1 Cr 15:54-56; Ga 14:6b). Chính bởi vì Chúa Giêsu là một con người thật – “giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi” (Hr 4:15) – nên Người có thể gánh lấy tội lỗi của chúng ta và chết. Sự đồng bản thể kép này có nghĩa là chỉ có Chúa Kitô mới có thể cứu rỗi. Chỉ có Người mới có thể mang lại sự cứu rỗi. Chỉ có Người mới là sự hiệp thông của con người với Chúa Cha[35]. Chỉ một mình Người là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại trong mọi thời đại. Không có con người nào có thể đứng trước hay đứng sau Người. Sự hiệp thông hoàn hảo chưa từng có giữa Thiên Chúa và con người đã được hiện thực hóa nơi Chúa Kitô, vượt xa mọi hình thức hiện thực mà con người có thể tưởng tượng được.

23. Chúng ta sẽ không che giấu những khó khăn hiện tại trong việc tin vào thiên tính trọn vẹn và nhân tính trọn vẹn của Chúa Kitô. Trong suốt lịch sử của Kitô giáo, và cho đến tận ngày nay, vẫn luôn có sự phản kháng thực sự đối với việc công nhận toàn bộ thiên tính của Chúa Kitô. Chúa Giêsu có thể dễ dàng được coi là một bậc thầy tâm linh khai sáng hoặc là một đấng mê-xi-a chính trị rao giảng công lý, trong khi đó, trong nhân tính của mình, Người sống mối quan hệ vĩnh cửu với Chúa Cha. Nhưng cũng có khó khăn lớn trong việc thừa nhận toàn bộ nhân tính của Chúa Kitô, Đấng có thể trải qua sự mệt mỏi (Ga 4:6), cảm giác buồn bã và bị bỏ rơi (Ga 11:35; Gethsemane) và thậm chí tức giận (Ga 2:14-17) và Đấng, một cách mầu nhiệm nhưng thực sự, đã không biết một số điều nhất định (“chỉ có Chúa Cha biết giờ nào…”, Mt 24:36). Người Con vĩnh cửu đã chọn sống trọn vẹn con người của mình nhân danh sự vô hạn của bản chất thần linh, vốn vẫn tồn tại trong sự hữu hạn của bản chất con người và thông qua bản chất đó.

24. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng ngay cả khi phần Kinh Tin Kính dành cho ngôi thứ hai được phát triển nhất thì quan điểm về Chúa Kitô trong đức tin Nicée vẫn nhất thiết là quan điểm về Chúa Ba Ngôi. Đức Kitô là Đấng semper major chính vì bất cứ nơi nào Người ở, luôn luôn có Đấng cao cả hơn Người: Chúa Cha vẫn là Chúa Cha, là “Đấng Thánh của Israel.” Chắc chắn, “ai đã thấy [Chúa Kitô] là đã thấy Chúa Cha” (Ga 14:9), nhưng, như Chúa Giêsu nói, “Chúa Cha lớn hơn [Người]” (Ga 14:28). Bản thân Arius đã thấy rõ điều này khi ông trích dẫn Tin mừng: “Chỉ có một Đấng tốt lành” (Mt 19:17)[36]. Hơn nữa, không thể hiểu được Chúa Kitô nếu không có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: trước khi được thụ thai là Thiên Chúa-Con Người và là Chú Rể, Người được trình bày trong Tân Ước như Con của Chúa Cha và được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần. Tương tự như vậy, Người không cứu rỗi con người nếu không có Chúa Cha là nguồn gốc và cùng đích của mọi sự – vì điều sau chính là sự kết hợp con thảo với Chúa Cha. Người không cứu rỗi con người nếu không có Chúa Thánh Thần, Đấng khiến chúng ta kêu lên “Abba, Cha ơi” (Rm 8:15) và hành động nội tâm của Người cho phép con người được biến đổi và tích cực bước vào chuyển động dẫn con người đến với Chúa Cha.

2.2 Sự bao la của hành động cứu rỗi: tính nhất quán lịch sử của nó

25. Sự vĩ đại của Đấng Cứu Thế cũng được bày tỏ trong sự viên mãn vô cùng của nhiệm cục cứu rỗi. Công đồng Nicée trình bày tính hiện thực của công trình cứu chuộc. Trong Chúa Kitô, Thiên Chúa cứu rỗi chúng ta bằng cách bước vào lịch sử. Người không sai một thiên thần hay một anh hùng loài người, nhưng đích thân Người đi vào lịch sử loài người, được sinh ra bởi một người phụ nữ, Đức Maria, trong dân Do Thái (“sinh ra bởi một người phụ nữ, sinh ra dưới luật pháp”, Gl 4:4), và chết trong một giai đoạn lịch sử chính xác, “dưới thời quan Phongxiô Philatô” (x. 1 Tm 6:13; xem thêm Công vụ 3:13)[37]. Nếu chính Thiên Chúa đã bước vào lịch sử, thì nhiệm cục cứu rỗi chính là nơi Người mặc khải: trong lịch sử, Chúa Kitô đích thực mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, và ban cho chúng ta sự tiếp cận trọn vẹn với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, vì Thiên Chúa bước vào lịch sử, nên đó không chỉ là một giáo lý cần đưa vào thực hành, như trong thuyết Marcion hay thuyết Ngộ đạo "nhân danh dối trá", mà là một hành động hiệu quả của Thiên Chúa. Nhiệm cục sẽ là nơi diễn ra công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa. Chúng ta tuyên xưng rằng một biến cố lịch sử đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình của toàn thể nhân loại. Chúng ta tuyên xưng rằng Chân lý siêu việt đã khắc ghi vào lịch sử và hoạt động trong lịch sử. Đây là lý do tại sao sứ điệp của Chúa Giêsu không thể tách rời khỏi con người của Người: Người là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6) đối với tất cả mọi người chứ không phải là một thầy dạy sự khôn ngoan.

26. Mặc dù nhấn mạnh vào lịch sử, Kinh Tin Kính không đề cập rõ ràng hoặc gợi lên nhiều về nội dung của Cựu Ước, cũng như không đặc biệt nhắc đến sự lựa chọn và lịch sử của Israel. Rõ ràng, Kinh Tin Kính không có ý định mang tính bao hàm đầy đủ. Tuy nhiên, điều đáng nhấn mạnh là sự im lặng này không hề có nghĩa là sự vô hiệu của việc tuyển chọn dân của giao ước cũ [38]. Những gì Kinh thánh Do Thái mặc khải không chỉ là sự chuẩn bị mà còn là lịch sử cứu rỗi, lịch sử này sẽ tiếp tục và được hoàn thành trong Chúa Kitô: "Giáo hội Chúa Kitô nhìn nhận rằng khởi đầu (initia) của đức tin và sự tuyển chọn của mình đã được tìm thấy, theo mầu nhiệm cứu rỗi thần thiêng, trong các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ"[39]. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là “Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Y-sa-ác và Gia-cóp,” Người là “Thiên Chúa của Israel.” Hơn nữa, Kinh Tin Kính nhấn mạnh một cách kín đáo tính liên tục giữa dân Do Thái và dân của giao ước mới bằng cách đề cập đến "trinh nữ Maria", đặt Đấng Mê-xi-a vào trong khuôn khổ của một gia đình Do Thái và gia phả Do Thái, và cũng nhắc lại bản văn Cựu Ước (Is 7:14 Bản Bẩy Mươi). Điều này thu hẹp khoảng cách giữa những lời hứa trong Cựu Ước và Tân Ước, cũng như cách diễn đạt "Người đã sống lại vào ngày thứ ba theo lời Kinh Thánh" trong phần còn lại của điều khoản, trong đó "Kinh Thánh" có nghĩa là Cựu Ước (x. 1 Cô-rinh-tô 15:4). Tính liên tục giữa Cựu Ước và Tân Ước lại được tìm thấy khi điều khoản về Chúa Thánh Thần nêu rằng Người "đã phán qua các tiên tri", có lẽ đại diện cho một lưu ý chống lại phe Marcion.[40] Trong mọi trường hợp, để hiểu đầy đủ, Kinh Tin Kính này sinh ra từ phụng vụ sẽ có ý nghĩa trọn vẹn khi được công bố trong phụng vụ và được diễn đạt bằng cách đọc toàn bộ Kinh thánh, Cựu Ước và Tân Ước. Điều này đặt đức tin Kitô giáo vào khuôn khổ của nhiệm cục cứu rỗi vốn bao gồm cả dân tộc được chọn và lịch sử của họ về mặt bản chất và cấu trúc.

2.3 Sự cao cả của hành động cứu rỗi: Mầu nhiệm Vượt Qua

27. Chủ nghĩa hiện thực và chiều kích Ba Ngôi của ơn cứu rỗi trong Chúa Kitô đạt đến đỉnh cao trong Mầu nhiệm Vượt qua. Chúa Con, ánh sáng của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, đã nhập thể, chịu đau khổ, chịu chết, xuống âm phủ và sống lại. Đây lại là một diễn biến chưa từng có. Khó khăn của Arius không chỉ liên quan đến sự hiệp nhất của Thiên Chúa, không tương thích với sự sinh ra Chúa Con, mà còn liên quan đến sự hiểu biết về thiên tính của Người, không tương thích với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Nhưng chính trong Chúa Kitô và chỉ trong Chúa Kitô, chúng ta mới hiểu được những gì Thiên Chúa có thể làm nơi chính Người, vượt xa mọi giới hạn hiểu biết trước đây của chúng ta. Đó là việc nghiêm túc đón nhận tiếng kêu của Chúa Giêsu như tiếng kêu của Con Thiên Chúa, được diễn tả bằng mồ hôi máu và nỗi sợ hãi: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này lìa khỏi Con!” (Mt 26,39b). Bản thân chữ homoousios giúp chúng ta nhận ra sự kenosis [tự hủy] chưa từng nghe thấy của Nhập thể: chỉ có sự khẳng định của Chúa Con là “đồng bản thể” với Chúa Cha mới cho phép chúng ta nhận ra tính triệt để và chiều sâu của điều mà chính Người Con này đã chấp thuận khi đảm nhận thân phận con người. Theo một nghĩa nào đó, người ta có thể nói rằng Chúa Con, semper major, thực sự trở nên nhỏ bé, và rằng Thiên Chúa Tối Cao đã xuống tận cùng trong Chúa Giêsu Kitô (x. Pl 2:5-11). Bây giờ, ngay cả khi chỉ có Chúa Kitô được sinh ra, chịu đau khổ và chết, chúng ta mới có thể nói rằng “unus de Trinitate passus est [một trong Ba Ngôi đã chịu thống khổ][41]”. Toàn thể Ba Ngôi đều tham gia, mỗi ngôi vị theo một cách riêng, vào cuộc khổ nạn cứu rỗi của Chúa Kitô. Vì vậy, Cuộc Khổ Nạn cho chúng ta thấy ý nghĩa thực sự thần thiêng của “quyền năng vô biên”. Quyền năng vô biên của Thiên Chúa Ba Ngôi đồng nhất với sự tự hiến và tình yêu. Do đó, Đấng Cứu Chuộc bị đóng đinh không phải là sự che giấu, mà là sự mặc khải về quyền năng vô biên của Chúa Cha.

28. Sự trọn vẹn của hành động cứu chuộc của Chúa Kitô chỉ được biểu lộ trọn vẹn qua sự phục sinh của Người, sự hoàn thành của ơn cứu rỗi, trong đó mọi khía cạnh của công trình sáng tạo mới đều được xác nhận. Sự phục sinh chứng tỏ thiên tính trọn vẹn của Chúa Kitô, Đấng duy nhất có khả năng vượt qua và chiến thắng cái chết, nhưng cũng chứng tỏ nhân tính của Người, vì chính nhân tính đó, về mặt số lượng giống hệt với nhân tính của Người khi Người còn sống trên trần thế, đã được biến đổi và tôn vinh. Đây không phải là một biểu tượng hay ẩn dụ: Chúa Kitô phục sinh trong nhân tính và trong thân xác của Người. Sự phục sinh vượt qua lịch sử nhưng xảy ra ở trung tâm lịch sử loài người và của con người này là Chúa Giêsu. Hơn nữa, nó mang tính Ba Ngôi sâu sắc: Chúa Cha là nguồn mạch, Chúa Thánh Thần là hơi thở ban sự sống và Chúa Kitô vinh quang sống – luôn luôn trong nhân tính của Người – trong vinh quang thần linh và trong sự hiệp thông bất biến với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy lưu ý rằng chính sự phục sinh của Chúa Kitô, “là trưởng tử từ cõi chết sống lại” (Cl 1:18; x. Rm 8:29), đã mặc khải sự sinh ra đời đời của Chúa Con, “là trưởng tử của mọi loài thụ tạo” (Cl 1:15). Vì vậy, tình phụ tử thần thiêng không phải là sự phát triển chủ yếu của các mô hình con người, ngay cả khi chúng được diễn đạt bằng những từ ngữ mang dấu ấn văn hóa của con người, nhưng chúng là những thực tại sui generis [biệt loại] của sự sống thần thiêng.

29. Kinh Tin Kính nhấn mạnh rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô sẽ tiếp tục cho đến tận thế, khi Chúa Kitô “sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết; và vương quốc của Người sẽ vô tận”. Với sự phục sinh, chiến thắng chắc chắn sẽ đạt được, nhưng chiến thắng đó phải được hiện thực hóa trọn vẹn trong Ngày Quang Lâm. Niềm hy vọng của Kitô giáo là trọn vẹn: nó không chỉ dựa trên tính một lần [ephapax] của Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, hay trên hồng phúc ân sủng hiện tại, mà còn dựa trên sự sắp đếncủa việc Chúa Kitô và Vương quốc của Người sẽ trở lại trong vinh quang. Hãy lưu ý: khía cạnh này của đức tin Nicée được hiểu rõ hơn và có sức mạnh lớn hơn nếu nó cũng được đọc trong bối cảnh trong đó Giáo hội sẵn sàng lắng nghe Cựu Ước và đức tin của người Do Thái ngày nay. Sự trông đợi thực sự Đấng Mê-xi-a của dân Israel làm nổi bật sự trọn vẹn của những lời hứa có tính mê-xi-a về hòa bình trên khắp trái đất và công lý cho tất cả mọi người, trong một thế giới hoàn toàn đổi mới (Is 2:4; 61:1-2; Mk 4:1-3), nơi các Kitô hữu đang chờ đợi Ngày Quang Lâm. Điều này có thể và phải đánh thức niềm hy vọng của Kitô giáo về sự trở lại của Đấng Phục sinh, vì chỉ khi đó công trình cứu chuộc của Người mới có thể hiển thị một cách đầy đủ[42].

3. Nắm bắt được sự bao la của ơn cứu rỗi được ban cho con người và sự bao la của ơn gọi nhân bản của chúng ta

30. Việc cử hành Công đồng Nicée không chỉ là việc thán phục trước sự viên mãn vô biên của Thiên Chúa và của Chúa Kitô Cứu Thế, mà còn là sự vĩ đại vô biên của ơn phúc được ban cho con người và ơn gọi nhân bản được mặc khải trong đó. Sự mầu nhiệm của Thiên Chúa trong sự bao la của nó chính là sự mặc khải chân lý về con người, con người cũng semper major. Mục đích ở đây là phát triển những hệ luận cứu thế học và nhân học của những khẳng định về Chúa Ba Ngôi và Chúa Kitô trong Kinh Tin Kính Nicée, nhưng cũng lưu ý đến lời dạy ở cuối điều khoản thứ ba về Chúa Thánh Thần, trình bày đức tin vào Giáo hội và vào sự cứu rỗi:

[Chúng tôi tin] tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền. Chúng tôi tuyên xưng có một Phép Rửa để tha tội. Chúng tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen

3.1 Sự vĩ đại của ơn cứu rỗi: Bước vào sự sống của Thiên Chúa

31. Vì Chúa Kitô cứu chúng ta, đức tin Nicée tuyên xưng “sự tha thứ tội lỗi” và “sự sống lại của người chết”. Kinh Tin Kính đề cập đến tội lỗi vì chúng ta cần biết mình được giải thoát khỏi điều ác nào. Tội lỗi, theo nghĩa thần học chặt chẽ, không chỉ là thói hư tật xấu hay lỗi lầm xúc phạm đến ý định của Đấng Tạo Dựng nơi tạo vật (x. Rm 2:14-15), mà còn là sự rạn nứt cố ý với Thiên Chúa trong mối quan hệ đối thần với Người. Theo nghĩa đầy đủ này, tội nhân nhận thức được tội lỗi của mình dưới ánh sáng tình yêu thương xót của Thiên Chúa: tội lỗi phải được “phát hiện” bởi chính công trình của ân sủng để có thể hoán cải tâm hồn[43]. Vì vậy, việc mặc khải tội lỗi là bước đầu tiên của sự cứu chuộc và phải được xưng thú như vậy.

32. Với lời tuyên bố quá mức [exorbitant] về sự phục sinh của người chết, đức tin Nicée tuyên xưng rằng ơn cứu rỗi là trọn vẹn và đầy đủ. Con người được giải thoát khỏi mọi điều ác, kể cả “kẻ thù cuối cùng” phải bị Chúa Kitô tiêu diệt để mọi sự có thể quy phục Thiên Chúa (x. 1 Cr 15:25-26). Đức tin vào sự phục sinh không chỉ bao hàm sự sống còn của linh hồn mà còn là chiến thắng trước cái chết [44]. Hơn nữa, con người không chỉ được cứu rỗi theo linh hồn mà còn trong chính thể xác mình. Không có gì cấu thành nên bản sắc và nhân tính của con người nằm ngoài sự sáng tạo mới mà Chúa Kitô đề xuất. Cuối cùng, ơn phúc này sẽ được sở hữu mãi mãi, vì nó mở ra trong “cuộc sống của thế giới mai sau”, eschăton [cánh chung] được thực hiện trọn vẹn. Từ lễ Phục sinh, không tội lỗi nào có sức mạnh tách tội nhân khỏi Thiên Chúa – ít nhất là nếu họ nắm lấy bàn tay của Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh, Đấng đã vươn tới vực thẳm để hiến mình cho con chiên lạc: “Cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay quyền lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, quyền năng trên trời hay dưới đất, hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào khác, sẽ không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Chúa Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).

33. Vì Chúa Kitô như Thiên Chúa thật cứu chúng ta, nên sự phục sinh có nghĩa là chúng ta bước vào sự sống thần linh, vừa là sự nhân bản hóa vừa là sự thần thánh hóa, như lời bình luận của Chúa Giêsu về Thánh vịnh 81:6 trong Gioan 10:14 làm chứng: "Các ngươi đều là các bậc thần thánh."[45] Và vì Người cứu chúng ta trong tư cách Chúa Con, được sinh ra bởi Chúa Cha, nên sự thần thánh hóa này là sự làm con nuôi và trở nên giống Chúa Kitô; đó là việc bước vào tình yêu của Chúa Cha qua Chúa Thánh Thần. Chúng ta được yêu thương và tái sinh bởi cùng một tình yêu mà Chúa Cha đã yêu thương và sinh ra Chúa Con từ đời đời. Đây là hệ luận cứu rỗi của thiên chức làm cha của Thiên Chúa được tuyên xưng bởi Công đồng Nicée. Cuối cùng, vì Chúa Kitô, như Chúa Con, cứu chúng ta, với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nên mối quan hệ con cái này thực sự là sự đắm mình vào mối quan hệ Ba Ngôi. Đây là lý do tại sao Kinh Tin Kính ra đời từ lời tuyên xưng đức tin về phép rửa tội Ba Ngôi và tại sao phép rửa tội được thực hiện “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Sự bao la của ơn phúc được mặc khải như thế được hiện thực hóa trong mầu nhiệm Thăng Thiên của Chúa Kitô: “Người lên trời”, biểu lộ rằng chính Chúa Kitô là “thiên đàng của chúng ta”[46]. Người Con cao cả sẽ gửi ơn phúc Thiên Chúa đã hứa, là Thánh Thần của Lễ Ngũ Tuần. Không quan điểm hạn hẹp nào về sự cứu rỗi thực sự là của Kitô giáo nữa.

3.2 Sự bao la của ơn gọi con người hướng tới Tình yêu Thiên Chúa

34. Tất cả những điều trên chắc chắn sẽ có hậu quả đối với quan điểm của Kitô giáo về con người. Điều này cũng được mặc khải trong sự vĩ đại vô biên của ơn gọi của họ, như homo semper major (con người luôn lớn lao hơn). Kinh Tin Kính Nicée không chứa một điều khoản nhân học theo nghĩa chặt chẽ, nhưng con người, trong ơn gọi trở thành con cái thần thiêng trong Chúa Giêsu, có thể được mô tả như là đối tượng của đức tin. Theo Kinh Thánh, danh tính thực sự của họ được mặc khải qua mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm cứu rỗi như một mầu nhiệm theo nghĩa chặt chẽ, tương tự như mầu nhiệm Thiên Chúa và Chúa Kitô, mặc dù những mầu nhiệm này vượt trội hơn họ một cách không thể so sánh được.

35. Mầu nhiệm lớn lao này trước hết liên quan đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Chúa Kitô. Mặc khải về tư cách làm cha của Thiên Chúa cũng chính là sự mặc khải về mầu nhiệm tư cách làm cha không hơn không kém: "Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, từ Người mà mọi tư cách làm cha trên trời dưới đất được nêu danh" (Ep 3:14). Việc mặc khải, đặc biệt trong sách Gioan, về Người Con Một, là sự biểu lộ của tình phụ tử theo đúng nghĩa, bắt nguồn về phương diện hữu thể học từ Lần Sinh Đầu tiên và là một phần của chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Dưới hình thức đảo ngược mối quan hệ hiểu biết, chính tư cách làm cha và làm con Ba Ngôi soi sáng và thanh lọc tư cách làm cha, làm mẹ, làm con và làm anh em của hữu thể nhân bản, vốn nằm trong bối cảnh văn hóa và bị đánh dấu bởi tội lỗi. Trước hết, tình phụ tử thần thiêng cho thấy tư cách con cái là đặc tính sâu xa nhất của hữu thể nhân bản: con người là ơn phúc mà Thiên Chúa Cha ban cho chính họ và con người được kêu gọi đón nhận chính họ từ Thiên Chúa và trong Người, đón nhận những người khác và thế giới tạo vật bao quanh họ để ngày càng trở nên chính họ hơn. Vì lý do này, căn tính và ơn gọi của họ được mặc khải một cách đặc biệt trong Chúa Kitô, Người Con nhập thể, “con người hoàn hảo”, Đấng “trong chính sự mặc khải về mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Người, đã tỏ lộ trọn vẹn con người cho chính họ và khám phá cho họ sự cao cả của ơn gọi của họ”[47]. Mặt khác, con người cũng được kêu gọi tham gia vào mầu nhiệm làm cha, bằng cách trở thành cha, mẹ về mặt xác thịt và tinh thần. Giống tình phụ tử thần thiêng, tình phụ tử và tình mẫu tử nhân bản hàm ý sự trao tặng bản thân, sự bình đẳng hoàn toàn giữa cha mẹ và con cái, giữa người cho và người nhận, nhưng cũng có sự khác biệt và sự sắp xếp (taxis) giữa họ. Cuối cùng, không có ngành nhân chủng học Kitô giáo thực sự nào mà không liên quan đến thần khí học. Chỉ có Chúa Thánh Thần “ban sự sống” mới có thể nhân bản hóa con người một cách trọn vẹn, làm cho con người trở thành con trai và con gái, cha và mẹ. Tương tự như vậy, chúng ta chắc chắn có thể nói về một hình thức đồng nhiệm xuy (co-spiration) của Chúa Thánh Thần, hay ơn linh hứng chung[48], bởi vì những hành động và lời nói hiệu quả nhất của chúng ta là như vậy trong mức độ hợp tác mà chúng mang lại cho Chúa Thánh Thần, Đấng thông qua chúng an ủi, nâng đỡ và hướng dẫn. Vì vậy, sự thật và ý nghĩa của tư cách làm cha, làm con và khả năng sinh sản của con người phải được mặc khải, vì chúng không chỉ là thực tại tự nhiên hay văn hóa mà còn là sự tham gia vào cách thức hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng không thể được hiểu sâu sắc nếu không có Mặc khải và tương tự như vậy, không thể được thực hiện nếu không có ân sủng. Đây là một tin tốt lành nữa chúng ta có thể khám phá lại ngày hôm nay từ Nicée.

36. Theo một nghĩa nào đó, chính homoousios có thể có ý nghĩa nhân học. Một con người đã ban phép tiếp cận với Thiên Chúa. Tất nhiên, Chúa Kitô nói theo cách độc đáo và đúng đắn: "Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha" (Ga 14:9), vì mầu nhiệm hiệp nhất ngôi vị. Tuy nhiên, sự kết hợp độc đáo này trong Người phù hợp với mầu nhiệm con người “được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa” (St 1:27). Theo nghĩa này, và quả thực như thế, mỗi con người phản ảnh Thiên Chúa, làm cho mọi người biết đến và giúp mọi người tiếp cận với Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã diễn tả nghịch lý này bằng cách nhấn mạnh một mặt rằng "để biết con người, con người đích thực, con người toàn diện, người ta phải biết Thiên Chúa", nhưng mặt khác cũng nhấn mạnh rằng "để biết Thiên Chúa, người ta phải biết con người[49]. "Những lời này phải được hiểu theo nghĩa mạnh: không chỉ mỗi con người cho chúng ta hình ảnh của Thiên Chúa, mà không thể biết Thiên Chúa nếu không đi qua con người. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy ở trên (§ 22), Giáo hội sẽ sử dụng thuật ngữ homoousios để diễn tả tính đồng nhất về bản chất của Chúa Kitô như con người đích thực, "sinh ra từ một người phụ nữ" (Gl 4:4), Đức Trinh Nữ Maria, với tất cả mọi người[50]. Hai mặt của “đồng bản thể” kép này của Chúa Con nhập thể củng cố lẫn nhau để xây dựng tình huynh đệ của toàn thể nhân loại một cách sâu sắc và hữu hiệu. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta là anh chị em của Chúa Kitô theo sự thống nhất của cùng một bản chất con người: “Vì thế, Người phải trở nên giống anh em mình trong mọi sự” (Hr 2:17; x. 2:11-12). Chính mối dây liên kết trong nhân tính này cho phép Chúa Kitô, đồng bản thể với Chúa Cha, đưa chúng ta vào trong tình Con của Người với Chúa Cha, và làm cho chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, thành anh chị em của Người và do đó, trở thành anh chị em của nhau theo một ý nghĩa mới, triệt để và không thể phá hủy.

37. Mầu nhiệm của con người trong phẩm giá vĩ đại của họ cũng được làm sáng tỏ bởi chiều kích cánh chung của Kinh Tin Kính Nicée. Niềm tin vào "sự phục sinh của kẻ chết", còn được gọi là "sự phục sinh của xác thịt[51]", khẳng định vẻ đẹp của thân xác và vẻ đẹp của những gì được trải nghiệm trên thế giới thông qua thân xác, bất chấp sự mong manh và hạn chế của con người. Nó khẳng định giá trị của thân thể bản vị cụ thể này sẽ được phục sinh, biến đổi, nhưng vẫn giữ nguyên về mặt số lượng[52]. Do đó, nó đưa ra một yêu cầu về mặt đạo đức: nếu những hành động yêu thương đích thực được thực hiện trong và bởi cơ thể trong cuộc sống này theo một cách nào đó là những bước đầu tiên của cuộc sống phục sinh, thì sự tôn trọng đối với cơ thể bao hàm việc sống ngay thẳng và trong sạch với mọi thứ chạm vào nó. Chúng ta hãy lưu ý rằng các học thuyết về Chúa Kitô không thừa nhận nhân tính trọn vẹn của Chúa Kitô có nguy cơ dẫn đến quan niệm về sự cứu rỗi như một sự thoát ly khỏi thân xác và thế gian, thay vì là sự nhân bản hóa trọn vẹn con người. Thế mà, sự neo giữ này vào thế giới và thân thể, được tạo ra tốt đẹp và hoàn thành bởi sự sáng tạo mới, là một trong những dấu ấn của Kitô giáo. Ở đây chúng ta tìm thấy mối liên hệ sâu sắc giữa sáng tạo và cứu rỗi: mọi đặc điểm nhân bản nơi Chúa Giêsu, được nhận từ Đức Maria, mẹ Người, đều là tin mừng và mời gọi mọi hữu thể nhân bản xem xét điều gì làm cho nhân tính cụ thể của họ trở thành tin mừng.

38. Hơn nữa, niềm hy vọng về sự phục sinh, cũng như niềm hy vọng về "cuộc sống vĩnh cửu của thế giới mai sau", chứng thực giá trị to lớn của mỗi cá nhân, không được kêu gọi để biến mất vào hư vô hay vào mọi thứ, nhưng là vào mối quan hệ vĩnh cửu với Thiên Chúa, Đấng đã chọn mỗi người trước khi tạo dựng thế giới (x. Ê-phê-sô 1:4). Việc tuyển chọn Abraham, Isaac và Jacob cùng giao ước không thể hủy bỏ với dân Israel đã cho thấy giao ước mà Thiên Chúa muốn thiết lập với mọi quốc gia và mọi con người trong lòng trung thành không thể phá vỡ. Tương tự như vậy, sự nhập thể của Chúa Con vĩnh cửu trong một con người đơn nhất xác nhận, thiết lập và hoàn thành phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, là anh chị em của Chúa Giêsu Kitô.

39. Thế giới ngày nay của chúng ta có nhu cầu to lớn là tái khám phá những khía cạnh của mầu nhiệm con người, những khía cạnh trình bày con người trong sự vĩ đại của họ, mà không bỏ qua sự khốn khổ của con người: "Con người vượt trội hơn con người vô cùng", Blaise Pascal đã nói[53]. Niềm tin Kitô giáo này thách thức mọi hình thức giản lược về mặt nhân học. Niềm tin vào quyền làm cha, làm mẹ và nguồn cảm hứng phong phú ("thần khí") của con người đặt nền tảng và hướng dẫn mọi quan niệm đích thực về quyền tự chủ, tự do và sự sáng tạo của con người. Những điều này bắt nguồn từ Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà đối với các Ngài, toàn năng, khôn ngoan và tình yêu đều chỉ là một trong việc tự hiến chính mình. Ngược lại, việc mất niềm tin vào sự phục sinh và cuộc sống vĩnh hằng sẽ trở thành sự từ chối trao vị trí đích thực cho thân xác và giá trị thánh thiêng của mỗi cá nhân trong sự độc đáo và siêu việt của họ. Thế mà, Đấng Tạo Dựng đã mặc khải cho chúng ta các ý định của Người: “Chúa dựng nên con người kém các thần một chút, đội cho họ vinh quang và danh dự” (Tv 8:6).

3.3 Vẻ đẹp của ơn phúc Giáo hội và phép rửa tội

40. Các sợi chỉ khác nhau đã được dệt cho đến nay được gắn kết với nhau trong những lời khẳng định về giáo hội học và bí tích của Kinh Tin Kính. Đức tin Nicée cũng có nghĩa là tin vào Giáo hội "duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền" và vào phép rửa tội "để được tha tội". Giáo hội và phép rửa tội cũng được cử hành như những ơn phúc semper majora. Bởi vì chúng xác nhận và biểu lộ sự viên mãn vô cùng của tất cả những gì được nêu trong phần còn lại của Kinh Tin Kính, chúng là đối tượng nghịch lý của đức tin: vấn đề là nhận ra trong chúng nhiều hơn những gì được nhìn thấy. Giáo hội là mộtvượt lên trên những chia rẽ hữu hình, thánh thiện vượt lên trên tội lỗi của các thành viên và những sai lầm do các cấu trúc định chế của Giáo hội gây ra, Công Giáo và tông truyền vượt lên trên bản sắc hoặc sự thu mình về văn hóa và sự hỗn loạn về giáo lý và đạo đức liên tục làm Giáo hội chao đảo. Theo nghĩa này, vấn đề ở đây là phải tránh cả "chủ nghĩa nhất tính [monophysisme]" về giáo hội học lẫn "chủ nghĩa Arius": chủ nghĩa trước đánh giá thấp, thậm chí che giấu chiều kích nhân bản của Giáo hội, trong khi chủ nghĩa sau bỏ qua chiều kích thiêng liêng của Giáo hội để ủng hộ một tầm nhìn thuần túy về mặt xã hội học và chức năng. Tương tự như vậy, trong đức tin, phép rửa tội được hiểu là nguồn sống mới và sự thanh tẩy khỏi tội lỗi vượt ra ngoài những gì có thể nhìn thấy trong cuộc sống không hoàn hảo và đôi khi xa cách Thiên Chúa của chính những người đã chịu phép rửa tội. Nó mở ra và nâng cao phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người bằng cách làm cho họ nên giống Chúa Kitô, tư tế, tiên tri và vua.

41. “Tin” vào Giáo hội và “tuyên xưng” một phép rửa tội duy nhất là nhận được một ơn phúc đức tin cho phép chúng ta nhận ra sự hiện diện tích cực và thánh hóa của Chúa Thánh Thần ngay tại trung tâm chiều kích con người và mỏng manh của họ. Chúa Thánh Thần làm cho Giáo hội trở nên duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền, đồng thời ban hiệu lực cho phép rửa tội. “Tin” vào Giáo hội và phép rửa tội cũng là nhận thức trong đó và qua đó hành động cứu rỗi của Chúa Kitô. Như Chúa Kitô là bí tích cơ bản của Thiên Chúa, là sự hiện diện thực sự và tích cực của Người trong biểu tượng thực sự của nhân tính Người thế nào, thì Giáo hội cũng là "bí tích cứu rỗi phổ quát như vậy"[54]. Cuối cùng, “tin” vào Giáo hội và phép rửa tội là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi ở đó. Giáo hội là semper major, vì Giáo hội tìm thấy nguồn gốc và nền tảng của mình nơi Thiên Chúa Ba Ngôi và trong Giáo hội có Chúa Cha, Chúa Con nhập thể và Chúa Thánh Thần. Trong đó đức tin Nicée được công bố và cử hành – thông qua phép rửa tội và các bí tích khác: “Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con với Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội thánh thiện[55]”.

42. Ở ngã ba đường giữa cứu thế học và nhân học, việc tin vào Giáo hội và tuyên xưng một phép rửa tội duy nhất xác nhận và mở ra sự bao la của ơn cứu rỗi và mầu nhiệm của con người. Sự cứu rỗi không chỉ là một diễn trình cá nhân, mà là một diễn trình cộng đồng và siêu nhiên, nhận được thông qua sự hợp tác của những người khác là người lân cận của chúng ta, và tạo ra hoa trái thiêng liêng cho những người khác cũng là những người lân cận của chúng ta[56]. Điều này làm sáng tỏ bản chất của con người không phải là một đơn tử biệt lập mà là một thực thể xã hội, được lồng vào vào một gia đình, một quốc gia, một cộng đồng đức tin và vào toàn thể nhân loại[57]. Do đó, đức tin vào Giáo hội và phép rửa tội hàm ý rằng ơn cứu chuộc được ghi khắc trong những hành động và cấu trúc hữu hình, gắn liền với chiều kích thân xác của cá nhân và thân thể xã hội, diễn ra trong lịch sử. Đây là nơi Chúa Thánh Thần ban sự sống và truyền cảm hứng, hoạt động trong giới hạn của họ và vượt ra ngoài để tiếp cận mọi con người. Về cơ bản, bằng cách làm chứng cho sự kết hợp giữa cá nhân và toàn thể, giữa tính xác thịt và sự ghi khắc trong lịch sử, Giáo hội là một phần trong công trình của Chúa Kitô, Đấng “biểu lộ trọn vẹn con người với chính họ”[58]. Theo một cách đặc biệt, như một "bí tích hiệp nhất[59]", Giáo hội được tuyên xưng bởi đức tin Nicée là dấu chỉ và công cụ của sự hiệp nhất của tất cả các khía cạnh này của con người và của toàn thể nhân loại: tầm nhìn Kitô giáo về con người phá vỡ sự hẹp hòi của mọi chủ nghĩa giản lược vốn từ chối cộng đồng vì lợi ích của cá nhân, hoặc cá nhân vì lợi ích của tập thể, và không hướng tới sự hiệp nhất.

4. Cùng nhau cử hành sự bao la của ơn cứu rỗi: tầm quan trọng đại kết của đức tin Nicée và hy vọng về một ngày chung để cử hành lễ Phục sinh

43. Đức tin Nicée, với vẻ đẹp và sự vĩ đại của nó, là đức tin chung của mọi Ki-tô hữu. Mọi người đều thống nhất trong việc tuyên xưng Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople, mặc dù không phải tất cả đều trao cho Công đồng này và các quyết định của nó một địa vị giống hệt nhau. Do đó, năm 2025 là cơ hội vô giá để nhấn mạnh rằng những điểm chung của chúng ta mạnh mẽ hơn nhiều, về mặt số lượng và chất lượng, so với những điểm chia rẽ chúng ta: chúng ta cùng nhau tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, vào Chúa Kitô, là con người thật và là Thiên Chúa thật, vào sự cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô, theo Kinh thánh đọc trong Giáo Hội và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi cùng nhau tin vào Giáo hội, phép rửa tội, sự sống lại của người chết và cuộc sống vĩnh hằng. Công đồng Nicée được các Giáo hội Đông phương đặc biệt tôn kính, không chỉ là một công đồng trong số những công đồng khác hoặc là công đồng đầu tiên trong một loạt công đồng, mà là Công đồng tiêu biểu nhất, công bố lời tuyên xưng đức tin của "318 Giáo phụ Chính thống giáo".

44. Vì vậy, năm 2025 là cơ hội để tất cả mọi Kitô hữu cùng nhau cử hành đức tin này và Công đồng đã giúp cho đức tin này có thể được phát biểu. Chủ nghĩa đại kết thần học đúng đắn khi tập trung sự chú ý và nỗ lực vào những nút thắt chưa được giải quyết trong những khác biệt của chúng ta, nhưng chắc chắn cũng hiệu quả không kém, nếu không muốn nói là hiệu quả hơn, khi cùng nhau cử hành, hướng tới việc tái lập sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả các Kitô hữu, để thế giới có thể tin. Chúng ta đã nhấn mạnh cách mà sự nhấn mạnh của các truyền thống Kitô giáo khác nhau cho phép chúng ta làm nổi bật sự phong phú của bản văn Kinh Tin Kính (xem § 17 ở trên). Việc cử hành chung Công đồng Nicée có thể là một hành trình đại kết giúp làm giàu lẫn nhau, qua đó mang lại sự hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm, sự hiệp thông lớn hơn giữa các truyền thống giáo hội và sự gắn bó chặt chẽ hơn với lời tuyên xưng chung về đức tin Kitô giáo.

45. Một trong những đích nhắm của Nicée là thiết lập một ngày chung cho lễ Phục sinh để thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội trên toàn Oikoumenē. Thật không may là cho đến ngày nay vẫn chưa có ngày chung nào được nhất trí. Sự khác biệt về quan điểm giữa các Ki-tô hữu về ngày lễ quan trọng nhất trong lịch của họ gây ra tổn hại về mục vụ trong cộng đồng, thậm chí chia rẽ gia đình, và gây ra tai tiếng cho những người không phải là Ki-tô hữu, do đó ảnh hưởng đến chứng tá Tin mừng. Đây là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomêô và các nhà lãnh đạo Giáo hội khác đã nhiều lần kêu gọi thiết lập một ngày chung để cử hành lễ Phục sinh. Nay, vào năm 2025, lễ Phục sinh Đông Phương và Tây Phương trùng vào một ngày. Đây há không phải là cơ hội quan phòng để tiếp tục cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, "lễ của các lễ" (Kinh Sáng Byzantine của Lễ Phục Sinh), trong sự hiệp thông của tất cả các cộng đồng Kitô giáo hay sao? Có một số đề xuất khá thực tiễn về một ngày không chia tách. Về vấn đề này, Giáo Hội Công Giáo vẫn cởi mở đối thoại và tìm kiếm giải pháp đại kết. Ngay trong phần phụ lục của Hiến chế Sacrosanctum Concilium, Công đồng Vatican II đã không phản đối việc đưa ra một lịch mới và nhấn mạnh rằng điều này phải được thực hiện "với sự đồng ý của những người mà đối với họ vấn đề này quan trọng, đặc biệt là những anh em đã tách khỏi sự hiệp thông với Tòa thánh[60]." Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng mà thế giới phương Đông dành cho các yếu tố được thiết lập trong thời hậu Nicée để xác định ngày lễ Phục sinh: Lễ Phục sinh phải được cử hành "vào Chúa Nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn tiếp theo hoặc trùng với ngày xuân phân[61]". Chúa Nhật gợi lên sự phục sinh của Chúa Kitô vào ngày đầu tiên của tuần, trong khi trăng tròn sau xuân phân gợi nhớ đến nguồn gốc Do Thái của lễ hội, ngày 14 tháng Nissan, nhưng cũng gợi nhớ đến chiều kích vũ trụ của sự phục sinh, vì xuân phân gợi lên khoảnh khắc khi độ dài của ngày vượt quá đêm và khi thiên nhiên trở lại với cuộc sống sau mùa đông.

46. Chúng ta cần lưu ý rằng trong khuôn khổ Công đồng Nicée, Giáo hội đã quyết định tách mình ra khỏi ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Lập luận cho rằng Công đồng muốn tách mình khỏi Do Thái giáo đã được đưa ra, dựa trên các lá thư của Hoàng đế Constantin như được Eusèbe báo cáo, trong đó nêu rõ những lý do chống Do Thái để chọn ngày lễ Phục sinh không liên quan đến ngày 14 tháng Nissan[62]. Tuy nhiên, cần phải phân biệt động cơ được cho là của Hoàng đế với động cơ của các Nghị phụ Công đồng. Dù sao, không có điều nào trong các điều luật của Công đồng thể hiện sự bác bỏ cách làm việc của người Do Thái. Đối với Giáo hội, tầm quan trọng của sự thống nhất trong lịch và việc lựa chọn Chúa Nhật để bày tỏ đức tin vào sự phục sinh không thể bị bỏ qua. Hôm nay, khi Giáo hội kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Nicée, đây một lần nữa là những đích nhắm của việc suy gẫm về ngày lễ Phục sinh. Ngoài vấn đề về lịch, chúng ta nên luôn nhấn mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa Lễ Phục Sinh và Lễ Pesaḥ trong thần học, trong các bài giảng lễ cũng như trong giáo lý, để đạt được sự hiểu biết rộng hơn và sâu hơn về ý nghĩa của Lễ Phục Sinh.

47. Trong lễ vọng Phục sinh và trong mọi nghi thức rửa tội, Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople được công bố dưới hình thức trang trọng nhất, đó là đối đáp. Lời tuyên xưng đức tin này, là nền tảng của đời sống Kitô hữu cá nhân và đời sống của Giáo hội, sẽ tìm thấy tất cả sức mạnh của nó nếu nó bắt nguồn từ sự mặc khải được ban cho “các anh cả” và “các cha của chúng ta trong đức tin[63]” và được sống trong sự hiệp thông hữu hình của tất cả các môn đệ của Chúa Kitô.

Kỳ tới: Chương Hai

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét