Trang

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

07-06-2016 : (phần II) LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA năm B

07/06/2015
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
CHÚA NHẬT X MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM B
LỄ TRỌNG
KÍNH MÌNH VÀ MÁU THÁNH
CHÚA KITÔ
Xh 24,3-8; Dt 9,11-15;
Mc 14,12-16.22-26
GIAO ƯỚC MỚI
TRONG MÁU CHÚA KITÔ
“Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta
khỏi những việc đưa tới sự chết”

(Dt 9,14)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Xh 24,3-8
Sách Xuất Hành là quyển thứ hai trong bộ Ngũ Thư, tức 5 quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh (Sáng Thế - Xuất Hành - Lê-vi - Dân Số và Đệ Nhị Luật). Về nội dung, sách Xuất Hành ghi lại hai cột mốc quan trọng trong lịch sử cứu độ: Cuộc Xuất Hành của dân Israel khỏi Ai-cập (chương 1-18), và việc Thiên Chúa thiết lập Giao Ước với họ tại Núi Sinai (chương 19-40). Đây là hai sự kiện nền tảng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về chương trình của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại. Có thể nói được, phần lớn các sách còn lại của Kinh Thánh phản ánh sự tương tác, giải thích, ứng dụng, hay kiện toàn chương trình cứu độ của Thiên Chúa như đã được Người mặc khải trong sách Xuất Hành.
Xh 24,3-8 như thế thuộc về phần II của sách Xuất Hành, vốn tập trung vào việc trình bày Giao Ước Thiên Chúa ký kết với Dân Người tại Núi Sinai. Thật vậy, sách Xuất Hành cho chúng ta biết: Dân Israel đến Núi Sinai vào tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập (x. Xh 19,1-2). Đa số các học giả Thánh Kinh đồng ý với nhau rằng Núi Sinai còn có tên gọi khác là Núi Horeb, là “Núi của Đức Chúa”, nơi Thiên Chúa đã hiện ra với ông Môisen và trao cho ông sứ mạng dẫn dắt Dân Người ra khỏi Ai-cập (x. Xh 3-4). Khi trao sứ mạng cho ông Môisen, Thiên Chúa cho ông một bảo chứng: “Đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: ‘Khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này’” (Xh 3,12). Việc dân Israel đến được Núi Sinai là dấu chỉ cho thấy bảo chứng này đã thành hiện thực.
Tại Núi Sinai, Thiên Chúa đã ban Mười Điều Răn cho dân Israel (x. Xh 20,1-22), diễn tả những bổn phận chính yếu của họ với Thiên Chúa (x. Xh 20,1-11) và giữa họ với nhau (x. Xh 20,12-17). Thiên Chúa cũng ban cho dân Israel Bộ Luật Giao Ước, vốn bàn đến nhiều vấn đề về tôn giáo, hình sự, xã hội và kinh tế (x. Xh 20,22 – 23,19). Đặt ngay sau Mười Điều Răn, Bộ Luật Giao Ước đóng chức năng cụ thể hóa cách thức dân Israel tuân giữ Mười Điều Răn trong đời sống thường nhật của họ.
Khi Mười Điều Răn và Bộ Luật Giao Ước đã được ban cho dân Israel, sách Xuất Hành ghi lại nghi thức Ký Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân Người. Qua trung gian là ông Môisen, dân Israel nghe biết Luật Chúa, họ đã mau mắn thề hứa: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 24,3); còn nữa “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 23,7). Tuy nhiên, câu chuyện về việc dân Israel thờ con bê vàng cho thấy mọi chuyện không dễ dàng như dân đã tưởng. Họ đã không tuân giữ những gì Chúa đã truyền, đặt tương quan Giao Ước giữa Thiên Chúa với họ vào tình trạng có nguy cơ đổ vỡ hoàn toàn (x. Xh 32,1-35).
Trong nghi thức Ký Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân Người có một chi tiết đáng lưu ý: Nửa số máu được ông Môisen rảy trên bàn thờ trước khi ông đọc Sách Luật Giao Ước cho họ nghe (x. Xh 24,6-7); nửa số máu còn lại được ông Môisen rảy trên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã thiết lập với anh em dựa trên những lời này” (Xh 24,8). Vốn là biểu tượng của sự sống, máu của vật được sát tế hàm ý: nếu dân Israel tuân giữ Giao Ước mà họ ký kết với Thiên Chúa thì họ sẽ được sống; ngược lại, nếu họ bất tuân Luật Chúa, họ sẽ phải chết.
2. Bài đọc 2: Dt 9,11-15
Thư gửi tín hữu Do-thái có nét đặc trưng là trình bày dung mạo tuyệt vời của Đức Giêsu Kitô ngang qua những hình ảnh của Cựu Ước. Qua đó, tác giả lá thư muốn nêu bật sự trổi vượt của Đức Giêsu Kitô so với các vị ngôn sứ, các thiên thần, ông Môisen, các thượng tế, v.v.
Thư gửi tín hữu Do-thái nêu bật điểm này: Chúa Giêsu Kitô là Vị Thượng Tế Mới. Với của lễ hiến tế là chính Máu Người đổ ra, Đức Giêsu Kitô đã thiết lập Giao Ước Mới vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Khi đọc Dt 9,11-15, chúng ta được mời gọi dừng lại, suy nghĩ và cầu nguyện với ở những điểm thiết yếu sau đây:
1. Đức Kitô đã “vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (c12).
2. “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Người đã tự hiến tế như lễ vật toàn vẹn dâng lên Thiên Chúa” (c14).
3. “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (c14).
Ba điểm trên đây nhấn mạnh đến hai điều: sự siêu việt của Chúa Giêsu Kitô, vị Thượng Tế Mới so với các vị thượng tế thời Cựu Ước và sự trổi vượt của hi lễ Chúa Giêsu Kitô so với hi lễ của [các] vị thượng tế thời Cựu Ước. Chúa Giêsu Kitô siêu vượt vì “Người chỉ vào [cung thánh] một lần thôi” so với [các] vị thượng tế thời Cựu Ước vào nơi cực thánh mỗi năm một lần. Vị thượng tế thời Cựu Ước “đem theo máu [chiên, bò] để dâng làm của lễ đền tội cho chính mình và cho dân”, còn Chúa Giêsu Kitô dùng chính Máu Mình làm hi lễ. Hiệu quả của việc hiến tế trong thời Cựu Ước là làm của lễ đền tội cho chính vị thượng tế và cho dân; còn việc Chúa Giêsu Kitô tự hiến mình mang lại sự sống mới cho nhân loại, và làm cho chúng ta biết cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp.
3. Bài Tin Mừng: Mc 14,12-16.22-26
Sách Tin Mừng theo thánh Marcô có nét đặc trưng riêng là không trình bày cho chúng ta biết về thời thơ ấu của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta bắt gặp một Đức Giêsu “đã trưởng thành” ngay từ đầu sách Tin Mừng này. Về mặt nội dung, 10 chương đầu của Sách Tin Mừng này ghi lại một cách cô đọng 3 năm Chúa Giêsu thi hành sứ vụ công khai của mình, trong khi 7 chương còn lại (chương 11-16) chính yếu ghi lại những tuần cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Người.  
Mc 14,12-16.22-26 thuộc về phần II của Sách, ghi lại việc chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người (cc12-16), cũng như việc Người thiết lập bí tích Thánh Thể (cc22-26). Bữa tiệc Vượt Qua gợi nhớ đến chương 12 sách Xuất Hành. Tại đó, Thiên Chúa đã truyền cho dân Israel cử hành Đại Lễ này hằng năm cho đến muôn đời (x. Xh 12,14), để mừng kính Đức Chúa, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Israel tại Ai-cập khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà của dân Israel thoát nạn (x. Xh 12,27).
Một số nét chính được nêu lên khi cử hành lễ Vượt Qua tại Ai-cập ở Xh 12:
1. Mồng mười tháng thứ nhất, mỗi nhà phải chuẩn bị một con chiên (x. c3). Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi (x. c5).
2. Con chiên được nhốt cho đến ngày mười bốn tháng đó, rồi được sát tế vào lúc xế chiều (x. c6).
3. Máu chiên được bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt sẽ ăn ngay trong đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng (x. cc7-8).
4. Khi ăn: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Phải ăn vội vã (x. c11).
5. Đêm ấy, khi thấy máu [bôi trên khung cửa], Đức Chúa sẽ vượt qua, nhà ấy không bị tai ương tiêu diệt khi Người giáng họa trên đất Ai-cập (x. cc12-14).
Khi dùng bữa Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ trước khi Người bước vào Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Người đã biến bánh thành Mình Người và rượu thành Máu Người, “Máu Giao Ước, đổ ra vì nhiều người” (x. Mc 14,22.24). Liên hệ đến Mình Thánh Chúa Kitô, thánh Luca có thêm chi tiết [in nghiêng]: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). 1Cr 11,24 cũng trình bày sự kiện tương tự như Lc. Liên hệ đến Máu Thánh Chúa Kitô, thánh Mátthêu có thêm chi tiết [in nghiêng]: “Máu Giao Ước, đổ ra cho nhiều người được tha tội” (x. Mt 26,28). 1Cr 11, 25 có thêm chi tiết: “mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”. Những chi tiết xuất hiện thêm ở các bản văn của Mt, Lc, đặc biệt của 1Cr, đóng một vai trò quan trọng, vì chúng giúp liên kết việc cử hành bí tích Thánh Thể nơi người Kitô với việc cử hành lễ Vượt Qua nơi người Do-thái. Đối với người Kitô hữu tại trần thế này, việc cử hành bí tích Thánh Thể diễn ra không phải hằng năm, mà là hằng ngày, để tưởng nhớ đến Đức Giêsu Kitô, cho đến khi Người lại đến.
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN TỈNH
1. Theo bạn, mừng kính lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô chính yếu là mừng kính điều gì? Tại sao Chúa Giêsu Kitô lại thiết lập bí tích Thánh Thể cho chúng ta? Bạn cảm nghiệm được điều gì mỗi khi tham dự Thánh Lễ và được rước Mình và Máu Thánh Chúa?
2. Chúa Giêsu Kitô đã truyền cho các môn đệ: “anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”, lệnh truyền này đã được thực hiện như thế nào nơi cộng đoàn đức tin của bạn (giáo xứ, chủng viện, dòng tu, bệnh viện, trường học, v.v.)? Bạn nghĩ mình phải làm gì để cổ võ việc tham dự thánh lễ nơi các tín hữu Công giáo tại những nơi cụ thể nêu trên và tại không gian khác nữa? 
3. Nhiều tín hữu có lòng khao khát được rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa, nhưng họ còn gặp phải nhiều ngăn trở có thể về không gian, sức khỏe, tình trạng hôn nhân gia đình, v.v. Theo bạn, giáo xứ, cộng đoàn đức tin, hay chính bạn, cần làm gì cho họ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta bằng chính Mình và Máu Ngài, và ở lại với nhân loại cho đến tận thế. Chúng ta đồng thanh cảm tạ Chúa và khẩn khoản cầu xin.
1. Chúa Giêsu là vị Thượng Tế cao cả đã hiến tế chính mình chỉ một lần là đủ đem lại ơn cứu độ muôn đời. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị mục tử trong Hội Thánh biết noi gương Thầy Chí Thánh, hết mình hy sinh phục vụ đoàn chiên mà Chúa trao phó.
2. Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho một thế giới mới. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người ở mọi quốc gia biết vượt qua những rào cản ngăn cách về sắc tộc, văn hóa và tín ngưỡng để chân thành hợp tác với nhau vì một thế giới hòa bình và hạnh phúc.
3. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh đời sống Kitô giáo. Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu được thêm lòng mến yêu sùng kính bí tích cao trọng này, siêng năng tham dự bàn tiệc Thánh Thể hầu tìm thấy sức mạnh và lẽ sống cho cuộc đời.
4. Thánh Thể là bí tích của hiệp nhất và bình an. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta khi cùng chia sẻ một bánh và một chén cũng được hiệp nhất với nhau, làm nên một thân thể để cùng nhau dấn thân xây dựng nước trời trong đức ái.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lập Bí tích Thánh Thể để ở cùng chúng con luôn mãi. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con khi đón nhận thần lương Chúa ban, biết hăng hái phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.



Chủ đề :
Mình và Máu Đức Giêsu đóng dấu Giao ước mới
"Anh em hãy cầm lấy. Đây là mình Thầy"
(Mc 14,22)

Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Xh 24,3-8) : Giao ước Sinai được đóng dấu bằng máu của bò.
- Đáp ca (Tv 115) : bày tỏ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa.
- Tin Mừng (Mc 14,12-16.22-26) : Đức Giêsu lập Giao ước mới, được đóng dấu bằng chính máu của Ngài.
- Bài đọc II (Dt 9,11-15) : Đức Giêsu là Thượng tế của Giao ước mới, thánh hóa loài người bằng chính máu của Ngài.

I. Dẫn vào Thánh  lễ
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa cao cả vô cùng, thế mà Ngài đã nhiều lần hạ mình ký kết giao ước với loài người chúng ta : Giao ước cũ ngày xưa ký kết ở núi Sinai được đóng dấu bằng máu chiên bò, và Giao ước mới ngày xưa được đóng dấu bằng máu của chính Đức Giêsu.
Mỗi lần cử hành Thánh Lễ là chúng ta lặp lại Giao ước mới đó. Chúng ta hãy cử hành Thánh lễ này trong tâm tình yêu mến và tạ ơn Thiên Chúa.

II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta ít nhớ đến tình thương vô cùng của Thiên Chúa đã ký kết giao ước với loài người chúng ta.
- Khi đã kết giao ước với nhau, cả hai bên đều phải giữ trọn những điều cam kết. Phần Thiên Chúa thì luôn trung thành giữ giao ước, nhưng phần chúng ta thì luôn bất trung, lỗi phạm.
- Đức Giêsu đã đổ máu ra vì chúng ta. Phần chúng ta thì không can đảm hy sinh vì Ngài.

III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 24,3-8) : Tường thuật nghi lễ ký kết giao ước giữa Thiên Chúa với dân do thái :
- Trước tiên, Môsê lặp lại cho dân những lệnh truyền của Thiên Chúa, và dân đồng ý tuân giữ.
- Tiếp đến, Môsê viết lại những lệnh truyền ấy của Thiên Chúa để lưu giữ mãi về sau.
- Sau cùng là nghi lễ kết giao ước : Môsê cho giết một số bò, lấy máu của chúng rảy một phần lên bàn thờ tượng trưng cho Thiên Chúa, và phần kia lên dân. Máu là tượng trưng cho sự sống, vì thế ý nghĩa của việc rảy máu là từ nay hai bên kết ước (Thiên Chúa và dân do thái) cùng một sự sống với nhau.
2. Đáp ca (Tv 115)
Tv này là một phần của Kinh Hallel (gồm các Tv 112-117) mà người do thái thường hát trong những dịp lễ lớn, nhất là trong bữa ăn vượt qua.
Ngày nay Phụng vụ dùng Tv này để bày tỏ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, nhất là trong Thánh lễ tưởng niệm hồng ân Thánh Thể.
3. Tin Mừng (Mc 14,12-16.22-26) : Tường thuật bữa tiệc Vượt qua cuối cùng của Đức Giêsu :
- Đức Giêsu rất coi trọng bữa tiệc Vượt qua này nên đích thân thu xếp mọi chi tiết tổ chức (các câu 12-16)
- Trong bữa tiệc Vượt qua đó, Ngài đã lập Bí tích Thánh Thể (các câu 22-25).
- Đặc biệt Ngài coi việc này là Giao ước mới. Giao ước cũ (bài đọc I) được đóng dấu bằng máu sức vật, còn Giao ước mới được đóng dấu bằng máu của chính Đức Giêsu "Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người"
4. Bài đọc II (Dt 9,11-15) : Đức Giêsu là Thượng tế của Giao ước mới, thánh hóa loài người bằng chính máu của Ngài.

IV. Gợi ý giảng
* 1. Giao ước mới
Cả 3 bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều nói tới Giao Ước.
Giao ước không chỉ là mối liên hệ giữa hai bên mua bán chỉ nhắm tới những công việc làm ăn. Giao ước giống mối liên hệ vợ chồng hơn. Chính vì thế mà nhiều ngôn sứ đã so sánh Thiên Chúa là chồng và loài người là vợ. Trong giao ước này Thiên Chúa luôn trung thành, tuy nhiên loài người chúng ta thì thường bất trung.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta quyền tự do lựa chọn. Giao ước giữa Thiên Chúa với loài người không phải chỉ là vấn đề quyền uy Thiên Chúa nằm trong Lề Luật của Ngài, bởi vì nếu thế thì chúng ta chỉ biết vâng giữ lề luật chứ không yêu thương. Đó phải là một thỏa thuận tự do giữa hai bên có tự do.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta thấy ông Môsê cử hành lễ kết Giao ước trước mặt dân do thái trước khi họ vào Đất Hứa. Thế nhưng dân đã chẳng tuân giữ Giao ước này, họ đã chạy theo các ngẫu thần. Dù vậy Thiên Chúa cũng không bỏ dân Ngài. Ngài vẫn tiếp tục hết lần nầy tới lần khác đề nghị kết giao ước với họ ; và qua các ngôn sứ, Ngài dạy họ hy vọng ơn cứu độ.
Và khi thời giờ đã mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình xuống thế gian làm Đấng Cứu Độ chúng ta. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa ký kết một Giao ước mới với loài người chúng ta, và Đức Giêsu đóng dấu Giao ước mới bằng chính máu của Ngài. Đức Giêsu trở thành đầu của Dân mới. Đất Hứa mà Đức Giêsu dẫn chúng ta tiến vào không phải chỉ là một lãnh thổ mà là quê hương của cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không chỉ là dân của Thiên Chúa mà còn là con cái của Ngài.
Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa đã ký kết một hợp đồng, một hợp đồng sẽ không bao giờ bị phá huỷ, đó chính là hợp đồng mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ. Thật vậy, mỗi lần chúng ta cử hành Thánh lễ là chúng ta lập lại hợp đồng đã ký kết giữa Thiên Chúa với loài người chúng ta nhờ máu cứu chuộc của Đức Giêsu đổ ra trên Thánh giá.
Tóm lại, chúng ta đang sống trong Giao ước mới với một Thiên Chúa vốn luôn trung thành. Vì thế chúng ta được mời gọi phải sống thế nào cho phù hợp với mối liên hệ đặc biệt của Giao ước mới này. (Viết theo Flor McCarthy)

* 2. Tấm lòng của Chúa
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên : "Mẹ ơi con khát quá". Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu 2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng : "Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống"
a/ Câu chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc. Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả : Ngài đến trần gian để chết cho loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt Máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng là "không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương". Điểm thứ hai khác biệt giữa bà Suzanna với Đức Giêsu là : việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy ra một lần ; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy "Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta". Mỗi lần Giáo Hội dâng Thánh Lễ là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu quả của nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói : "Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời".
b/ Một điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân tham dự Thánh Lễ đã giảm sút rất nhiều. Điển hình tại Pháp, chỉ còn có 10 % giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên VN chúng ta, số người bỏ lễ CN cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
c/ Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích : nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước MTC nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép MTC "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời".
Hôm nay lễ Mình và Máu Thánh CG. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Đức Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt sống của chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức đã rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì :
a/ Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
b/ Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Đừng làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình vào đó.
Để kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng : "Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên đĩa thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức... Tôi không di dự Thánh Lễ với 2 bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động lên tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần nhưng vẫn luôn mới mẻ. Mỗi lần rước Chúa là một lần tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên tấm bán bẻ ra cho anh chị em tôi"

Du khách đến Huế không thể quên được Nam Giao, cũng như đến Bắc Kinh không thể bỏ qua Điện Trời. Chính tại nơi đây, hàng năm nhà vua sẽ tế Trời thay cho toàn dân.
Tại Huế, Điện Thái Hòa, cửa Ngọ Môn và đàn Nam Giao cũng nằm ngay trên một đường thẳng. Điện Thái Hòa là nơi vua quan lo việc triều chính. Cửa Ngọ Môn quay về hướng nam. Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, lúc 12 giờ trưa, tức là giờ Ngọ, thì hình và bóng sẽ trở nên đồng nhất.
Từ Điện Thái Hòa, vua sẽ qua cửa Ngọ Môn, tiến về phương nam để lên đàn Nam Giao thay dân tế Trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ bước lên tế đàn hình vuông tượng trưng cho đất, rồi mới tiến lên tế đàn hình tròn, tượng trưng cho Trời. Chính tại nơi đó, vua sẽ long trọng thay mặt toàn thể con dân tế Trời.
*
Vua trần gian thay dân tế Trời bằng những của lễ vật chất. Vua vũ trụ, Đức Giêsu Kitô dùng chính thân xác và linh hồn của Người để tế lễ cho Thiên Chúa.
Vua trần gian thay dân tế Trời rồi lại trở về với công việc triều chính. Vua Giêsu khi tế lễ cho Thiên Chúa lại dùng chính thân xác mình làm của ăn của uống nuôi toàn dân.
"Này là Mình Ta, các con hãy cầm lấy mà ăn… Này là Máu Ta các con hãy cầm lấy mà uống"(Mc.14,22-25). Tiệc Thánh Thể này đã được chính Đức Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, đã được Người hứa ban cho dân ở Caphanaum, đã được Người thiết lập ở Giêrusalem trước khi bước vào cuộc khổ nạn, và đã được chính Người cử hành đầu tiên tại làng quê hẻo lánh Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện, đan kết với nhau tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa.
Thánh Thể chính là trung tâm đời sống người tín hữu Kitô.
Thánh Thể chính là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh thể chính là món quà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại.
Thánh thể chính là lương thực thiêng liêng cho cuộc sống người tín hữu.
Thánh thể chính là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Mầu nhiệm tình yêu này vượt quá tầm trí mọn của con người. Đức Giêsu đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta, đến nỗi Người không thể cho chúng ta điều gì hơn thế nữa.
Thánh Thể chính là sáng kiến táo bạo nhất của Thiên Chúa đang yêu. Trước khi giã từ cõi thế. Người không còn gì quí hơn để ban tặng cho con người. Người đã trao ban cả thân xác, để thấm nhập vào xác thân con người. Yêu là cho đi, là cho hết, cho cả cuộc đời.
*
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được tham dự vào đời sống thánh thiện của Chúa, được hiệp nhất với Chúa và với nhau. Xin cho chúng con luôn yêu mến Thánh Thể và siêng năng đón nhận Bánh Trường Sinh, như một bảo đảm cho hạnh phúc muôn đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 4. Lời cầu nguyện trước Thánh Thể
Chúa ơi,
Bên ngoài nhà thờ, xe cộ ồn ào, người ta chạy tới chạy lui lăng xăng.
Nhưng cái thế giới náo nhiệt ấy, con xin bỏ lại sau lưng, để đến đây ở trước mặt Chúa.
Con không bỏ lại những anh chị em của con, nhưng con cũng mang họ theo con, vì con biết rằng Chúa cũng rất quý mến họ.
Thực ra con chẳng có gì, nhưng con biết rằng vì con có Chúa nên con có tất cả.
Con khép trí óc lại và mở tâm hồn ra, và thế là con được an bình.
Ở đây, con cảm nghiệm được giá trị thật của con. Giá trị ấy không phải là những gì con sở hữu được hay hoàn thành được, mà là biết rằng con được Chúa yêu thương. (Flor McCarthy)

* 5. Máu giao ước
"Đây là máu Thầy, máu giao ước"
Dân do thái, cũng như một số dân khác, thường dùng máu trong giao ước. Có thể là máu của một con vật, và cũng có thể là máu của chính những người kết giao ước với nhau. Giao ước cũ trên núi Sinai dùng máu của con vật. Giao ước mới mà Đức Giêsu thiết lập dùng máu của chính Ngài. Mà máu là biểu hiện của sự sống, cho nên lấy máu để đóng dấu giao ước ngụ ý rằng từ nay những người kết ước sẽ sống thân thiết với nhau như chỉ có cùng một mạng sống, đồng thời họ cam kết sẽ bảo vệ giao ước ấy cho dù phải đổ máu mình ra.
Giao ước có khi là đơn phương : một bên tự ý cam kết sẽ làm điều gì đó cho bên kia nhưng không buộc bên kia cam kết lại. Nhưng thường thì song phương : hai bên cam kết với nhau, bên nào vi phạm thì phải chịu những hình phạt.
Mỗi Thánh Lễ là một lần lặp lại giao ước. Nhưng tôi thường không để ý tới ý nghĩa quan trọng này.
- Đức Giêsu muốn Ngài và tôi chia xẻ cùng một sự sống. Tôi có muốn như thế không ?
- Ngài cam kết gắn bó với tôi. Tôi có cam kết lại như thế không ?
- Ngài đã hiến máu, hiến mạng sống cho tôi. Tôi có gì để dâng hiến cho Ngài không ?

6. Chuyện minh họa
Một bé trai tám tuổi lâm chứng bệnh nguy hiểm. Cả tháng trời em vật lộn với thần chết. Khi các bác sĩ cho biết cuối cùng em đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần thì em và gia đình đều mừng rỡ.
Nhưng đến lượt em gái của bé trai này lâm phải chứng bệnh như anh nó. Cả gia đình lại rơi vào cảnh âu lo. Các bác sĩ cho biết cách duy nhất để cứu sống bé gái là sử dụng máu của anh mới khỏi bệnh.
 Không thể tránh né vấn đề, người ta phải hỏi ý kiến bé trai. Thoạt đầu em tỏ ra lo lắng, nhưng trong chốc lát, em đã cương quyết trả lời : Vâng, con sẵn sàng hiến máu cho em con.
 Quả thật, nhờ sử dụng máu của anh mới được khỏi, tiếp cho em đang mê man, các bác sĩ đã cứu sống bé gái. Có điều, bé trai đã làm cho các bác sĩ ngẩn người ra khi nêu câu hỏi : Vậy ra, con vẫn còn sống à ? Bé cứ tưởng mình sẽ tắt thở ngay sau khi tiếp máu cho em.
 Nơi cậu bé tám tuổi ta chiêm ngưỡng một tình yêu lớn : "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Mặc dầu không chết như em tưởng, nhưng sự sẵn sàng chết vì tình ruột thịt đã khiến cho tình thương của em trở nên cao cả.

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dùng Mình và Máu Thánh Người, như lương thực nuôi dưỡng đòi sống tin cậy mến của chúng ta. Với tâm tình tạ ơn, chúng ta dâng lên Chúa lời cầu nguyện sau đây :
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / luôn cử hành và tham dự bí tích Thánh Thể cách tích cực và linh động / để được sức sống của Đức Giêsu bồi dưỡng.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền và mọi người trên thế giới / biết noi gương Đức Giêsu Kitô / để chia sẻ và phân phối của cải vật chất cho công bằng / nhất là chia sẻ cho những dân tộc đang đói nghèo.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang đau khổ và nhiều cơm ăn áo mặc / thiếu công ăn việc làm / thiếu tự do và tình thương / được nhiều người là con cái Chúa biết quan tâm và nâng đỡ.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng giáo xứ chúng ta / biết noi gương Đức Giêsu Kitô / hiến dâng thời giờ, sức lực và của cải / để giúp cho những người chung quanh được nhận biết tình thương của Chúa.
Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con bí tích Thánh Thể là dấu chỉ tình thương của Chúa. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng tình thương của Chúa, để chúng con sẵn sàng chia sẻ cho mọi người chung quanh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh lễ
- Kinh Tiền Tụng : nên xử dụng kinh Tiền Tụng Thánh Thể I, đặc biệt nhấn mạnh phần cuối đoạn 2 "Khi chúng con lãnh nhận Mình Người hiến tế vì nhân loại, chúng con được mạnh sức. Và khi chúng con uống Máu Người đổ ra vì nhân loại, chúng con được rửa sạch tội khiên.
- Trước kinh Lạy Cha : Chút nữa đây khi đọc câu "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày", chúng ta hãy nhớ rằng lương thực ấy không phải chỉ là cơm nước vật chất, mà còn là tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống linh hồn chúng ta. Chúng ta hãy tha thiết xin Cha trên trời ban cho chúng ta cả hai thứ lương thực ấy.
- Trước lúc rước lễ : Rước lễ chính là kết hợp với Mình Máu Thánh Đức Giêsu, là được hưởng dùng lương thực tuyệt hảo. Xin cho việc rước Mình Máu Chúa thánh hóa chúng ta, làm cho chúng ta ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Chúa. "Đây Chiên Thiên Chúa…"
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta đã lặp lại Giao ước với Thiên Chúa, giao ước được đóng ấn bằng chính Máu thánh Đức Giêsu. Chúng ta hãy nhớ thực hiện điều chúng ta đã cam kết với Chúa, đó là luôn sống trong tình mến Chúa và yêu người.
Lm.Carrolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô (B)
Chúa Nhật, 7 Tháng 6, 2015
Việc thành lập Bí Tích Thánh Thể
Quyền năng tối thượng của tình yêu đến cùng   
Mc 14:12-16, 22-26


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Hôm nay, ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội đặt trước chúng ta cảnh của bữa Tiệc Ly, cuộc họp mặt cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ. Đây là cuộc họp mặt căng thẳng, đầy mâu thuẫn.  Giuđa đã quyết định phản bội Chúa Giêsu (Mc 14:10).  Phêrô đã phản đối rằng ông sẽ không chối Chúa (Mc 14:30).  Chúa Giêsu biết tất cả những điều này.  Nhưng Người đã không làm mất sự bình tĩnh của mình hoặc cảm nghiệm về tình bằng hữu.  Thay vào đó, tại chính bữa Tiệc Ly này, Chúa thành lập Phép Thánh Thể và thực hiện dấu chỉ tình yêu đến cùng của Người cho các ông (Ga 13:1).
Bốn câu Tin Mừng mô tả Phép Thánh Thể (Mc 14:22-25) là một phần của bối cảnh lớn hơn (Mc 14:1-31).  Các câu này đứng trước và sau Phép Thánh Thể, giúp chúng ta rất nhiều trong việc hiểu rõ hơn ý nghĩa việc làm của Chúa Giêsu.  Trước khi thành lập Phép Thánh Thể, Máccô nói về quyết định giết Chúa Giêsu của những kẻ có thẩm quyền (Mc 11:1-2), về hành động trung thành của người phụ nữ vô danh đã xức dầu cho Chúa Giêsu trong dự đoán sẽ mai táng Người (Mc 14:3-9), về thỏa ước phản bội của Giuđa (Mc 14:10-11), về việc chuẩn bị cho lễ Vượt Qua (Mc 14:12-16) và dấu hiệu của kẻ phản bội (Mc 14:17-21).  Sau khi lập Phép Thánh Thể, tiếp theo là lời tiên báo tất cả mọi người sẽ vấp ngã (Mc 14:26-28) và lời công bố rằng ông Phêrô sẽ chối Chúa (Mc 14:29-31).
Phần Phụng Vụ hôm nay cắt văn bản ra làm nhiều mảnh, nhưng giữ lại các yếu tố thiết yếu của câu chuyện thành lập Phép Thánh Thể (Mc 14:12-16, 22-26).  Trong văn bản của chúng ta, chúng tôi giữ lại các câu 17-21 và 27-31, là những câu được bỏ qua trong văn bản của Thánh Lễ.  Trong phần bình giải, chúng ta có thể giới hạn mình với văn bản được đưa ra trong phần Phụng Vụ của ngày.  Khi đọc, chúng ta hãy hình dung mình đang ở với Chúa Giêsu và các môn đệ trong phòng, tham dự vào bữa Tiệc Ly, và chúng ta hãy tìm cách chú ý đến những gì đánh động chúng ta nhất và những gì làm trái tim chúng ta cảm động nhất.
b)  Phần phân đoạn văn bản để giúp chúng ta trong bài đọc:
Mc 14:12:  Các môn đệ muốn biết sẽ cử hành lễ Vượt Qua ở đâu
Mc 14:13-15:  Chúa Giêsu nói với các ông nơi và cách chuẩn bị cho lễ Vượt Qua
Mc 14:16:  Các môn đệ đi và làm như lời Chúa Giêsu dặn bảo
Mc 14:17-21:  Lời loan báo về sự phản bội của Giuđa
Mc 14:22-24:  Chúa Giêsu đưa ra một ý nghĩa mới cho bánh và rượu
Mc 14:25-26:  Những lời cuối
Mc 14:27-31:  Lời loan báo về sự tan tác của tất cả các ông và việc Phêrô chối Chúa
  
c)  Phúc Âm:
12 Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh Không Men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" 13 Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. 14 Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: 'Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?' 15 Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó".
16 Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
17 Chiều đến, Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. 18 Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật các con, có người trong các con sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” 19 Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người:  “Chẳng lẽ con sao?” 20Người đáp:  “Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. 21 Đã hẳn, Con Người ra đi như theo như lời đã chép về Người.  Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
22 Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". 23 Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. 24 Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. 25 Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa".
26 Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. 27 Và Chúa Giêsu nói với các ông: “Tất cả các con sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép:  Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. 28 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilêa trước các con.” 29 Ông Phêrô liền thưa:  “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” 30 Chúa Giêsu nói với ông:  “Thầy bảo thật con: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính con, con đã chối Thầy đến ba lần.” 31 Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết hơn:  “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.”  Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì trong đoạn Tin Mừng đã đánh động bạn nhất?  Tại sao?
b)  Hãy nêu ra từng sự kiện mà văn bản mô tả.           
c)  Thái độ của Chúa Giêsu đối với Giuđa, kẻ bán Chúa, và đối với Phêrô, kẻ chối Thầy, như thế nào?
d)  Cử chỉ của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì khi Người bẻ bánh và nói:  “Các con hãy cầm lấy mà ăn! Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con!”  Văn bản này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Bí Tích Thánh Thể ra sao?
e)  Hãy nhìn vào tấm gương của văn bản, hãy bước vào trái tim bạn và tự vấn: “Liệu tôi có giống ông Phêrô chối Chúa không?  Tôi có giống Giuđa bán Thầy không?  Tôi có giống Nhóm Mười Hai bỏ trốn không? Hay là tôi giống người phụ nữ vô danh kia vẫn trung thành với Chúa (Mc 14:3-9)?”

5.  Chìa khóa của bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề.

a)  Bối cảnh:

Chúng ta đang ở trong căn phòng của Bữa Tiệc Ly.  Những gì đã xảy ra trong vài ngày qua đã làm tăng sự căng thẳng giữa Chúa Giêsu và nhà cầm quyền.  Cuộc tiến vào thành Giêrusalem cách long trọng của Chúa Giêsu (Mc 11:1-11), việc xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ (Mc 11:12-26), cuộc tranh luận với những tư tế, Luật Sĩ và kỳ lão (Mc 11:27 – 12:12), với những người Biệt Phái và nhóm Hêrôđê (Mc 12:13-17), với những người phái Sađốc (Mc 12:18-27), với các kinh sư (Mc 12:28-40), những nhận xét của Người về việc dâng cúng của người giàu và người nghèo (Mc 12:41-44), lời công bố của Người liên quan đến việc Đền Thờ bị phá hủy (Mc 13:1-3) và bài giảng của Người về ngày phán xét sau hết (Mc 13:4-37):  tất cả những điều này đã làm tăng thêm sự chống đối dữ dội với Chúa Giêsu.  Một mặt, chúng ta có một người phụ nữ vô danh, một môn đệ trung thành đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và bị đóng đinh (Mc 14:2-9), mặt khác, chúng ta có các môn đệ là những người không thể hiểu được và thậm chí còn không chấp nhận cây Thập Giá, và là những người muốn trốn chạy, từ chối và phản bội (Mc 14:17-21, 27-31).  Và ở giữa khung cảnh căng thẳng và đe dọa này chúng ta có cử chỉ yêu thương của Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mình hoàn toàn đang khi bẻ bánh cho các môn đệ Người.
Vào những năm của thập niên 70, trong thời kỳ của thánh Máccô, nhiều Kitô hữu vì sợ hãi đã chối bỏ, phủ nhận hoặc phản bội đức tin của họ.  Và giờ đây họ đang tự hỏi:  “Chúng ta đã phá vỡ mối quan hệ với Chúa Giêsu sao?  Có thể nào Chúa đã cắt đứt mối quan hệ của Người với chúng ta sao?  Chúng ta có thể nào được trở lại không?”  Không có câu trả lời rõ ràng.  Chúa Giêsu đã không ghi lại bất cứ điều gì. Đó chỉ là phản ánh về những gì đã xảy ra và hồi tưởng lại tình yêu của Chúa Giêsu mà các Kitô hữu dần dần khám phá ra câu trả lời.  Như chúng ta sẽ thấy trong phần bình luận, qua cách thánh Máccô mô tả lại bữa Tiệc Ly, ông thông tri lại câu trả lời mà ông đã khám phá ra cho những câu hỏi này của cộng đoàn, đó là, việc đón nhận và tình yêu của Chúa Giêsu thì cao cả hơn so với sự thất bại và làm hỏng việc của các môn đệ.  Việc trở lại luôn luôn là có thể được!

b)  Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:

*  Mc 14:12-16:  Sự chuẩn bị cho tiệc lễ Vượt Qua. 
Trái ngược hoàn toàn với người môn đệ vô danh xức dầu cho Chúa Giêsu, Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, quyết định phản bội Chúa Giêsu và thông đồng với kẻ thù là những kẻ đã hứa thưởng tiền cho anh ta (Mc 14:10-12).  Chúa Giêsu biết rằng mình sẽ bị phản bội.  Tuy nhiên, Người vẫn tìm cách thân thiện với các môn đệ như tình anh em tại bữa Tiệc Ly.  Họ chắc phải chi một số tiền lớn để thuê “một căn phòng rộng rãi trên lầu với đầy đủ vật dụng và ghế, tất cả đã sẵn sàng” (Mc 14:15).  Khi ấy, đó là đêm trước lễ Vượt Qua, thành phố đông nghẹt với những du khách.  Dân số thường tăng lên gấp ba lần.  Rất khó mà có thể tìm được một căn phòng để hội họp nhau.
Trong đêm lễ Vượt Qua, các gia đình đến từ khắp miền đất nước, đem theo với họ những con chiên để hiến tế trong Đền Thờ, và ngay sau khi đó, mỗi gia đình cử hành trong sự thân mật gia đình bữa Tiệc Lễ Vượt Qua và cùng ăn thịt chiên.  Việc cử hành tiệc lễ Vượt Qua được chủ tọa bởi người gia trưởng trong gia đình.  Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu chủ tọa việc cử hành và đứng ra cử hành lễ Vượt Qua với các môn đệ, “gia đình” mới của Người (xem Mc 3:33-35).
“Căn phòng rộng rãi trên lầu” ấy đã in sâu trong trí nhớ của các Kitô hữu tiên khởi như là nơi Phép Thánh Thể được cử hành đầu tiên.  Họ đã trú ngụ ở đó sau khi Chúa Giêsu Về Trời (Cv 1:13); họ đã ở đó khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2:1).  Đó có lẽ cũng là căn phòng mà họ đã tụ tập nhau để cầu nguyện khi họ bị đàn áp (Cv 4:23-31) và là nơi ông Phêrô gặp gỡ họ sau khi ông được thả ra (Cv 12:12).  Kỷ niệm cụ thể, được nối kết với thời gian và những nơi chốn của cuộc đời.

*  Mc 14:22-26:  Phép Thánh Thể là việc làm của tình yêu tối thượng.  
Lần họp mặt cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ diễn ra trong bầu không khí trang trọng của buổi cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống.  Sự mâu thuẫn rất rõ ràng.  Một mặt chúng ta có các môn đệ cảm thấy bất an và không hiểu những gì đang xảy ra.  Mặt khác, chúng ta có Chúa Giêsu, bình thản và làm chủ tình hình, chủ tọa bữa tiệc và làm công việc bẻ bánh, mời các bạn hữu của Người dự phần vào thịt và máu của mình.  Người làm những gì mà Người luôn cầu nguyện: dâng hiến mạng sống mình để bạn hữu của Người có thể được sống.  Đây là ý nghĩa sâu xa của Phép Thánh Thể:  học hỏi từ Chúa Giêsu chia sẻ chính mình, dâng hiến chính mình, mà không sợ các thế lực đang đe dọa mạng sống. Sự sống thì mạnh hơn cái chết.  Lòng tin vào sự sống lại vô hiệu hóa quyền lực của cái chết.
Sau bữa ăn tối, Chúa Giêsu đi vào Vườn Cây Dầu với các bạn của Người và nói với mọi người rằng tất cả sẽ từ bỏ Người:  Họ sẽ trốn chạy hoặc bị tản mác! Nhưng Người đã nói với họ:  “Sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến Galilêa trước các con!”  Các ông phá vỡ mối quan hệ với Chúa Giêsu, nhưng Người không làm như thế với các ông!  Người tiếp tục chờ đợi họ ở Galilêa, nơi mà ba năm trước đây Người đã gọi các ông lần đầu tiên.  Đó là, sự hiện diện chắc chắn của Chúa Giêsu trong đời sống người môn đệ thì mạnh hơn sự từ bỏ hoặc tháo chạy!  Chúa Giêsu tiếp tục kêu gọi.  Người luôn luôn kêu gọi!  Luôn luôn có thể trở về!  Đây là sứ điệp của thánh Máccô gửi cho các Kitô hữu của những năm thập niên 70 và cho tất cả chúng ta.
Cách mà Máccô mô tả Phép Thánh Thể cho thấy nhấn mạnh nhiều hơn về sự tương phản giữa cử chỉ của Chúa Giêsu và thái độ của các môn đệ. Trước cử chỉ yêu thương của Người, Chúa Giêsu nói về việc phản bội của Giuđa (Mc 14:17-21) và, sau cử chỉ yêu thương, Người nói về việc chối Thầy của Phêrô và sự trốn chạy của các môn đệ (Mc 14:26-31).  Vì thế, Máccô chú trọng đến tình yêu vô điều kiện của Chúa Giêsu, Đấng vượt qua khỏi sự phản bội, chối từ và tháo chạy của các bạn mình.  Đó là sự mặc khải tình yêu nhưng không của Chúa Cha!  Bất cứ ai có kinh nghiệm điều này sẽ nói:  “trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta!” (Rm 8:39). 

c)  Tài liệu phụ thêm:

*  Việc cử hành lễ Vượt Qua vào thời Chúa Giêsu

Lễ Vượt Qua là lễ hội chính của người Do Thái.  Trong ngày lễ này, họ kỷ niệm việc giải thoát của họ khỏi đất Ai-Cập, đó là nguồn gốc của dân riêng Thiên Chúa. Nhưng nó không chỉ là một gợi nhắc lại đơn giản sự rời khỏi đất Ai-cập.  Lễ Vượt Qua là cánh cửa mở ra một lần nữa mỗi năm để cho các thế hệ có thể có lối vào cùng một hành động giải thoát của Thiên Chúa là Đấng trong quá khứ đã vực dậy dân riêng của Người.  Bằng vào việc cử hành lễ Vượt Qua, mỗi thế hệ, mỗi người lấy nước cùng ngọn suối mà cha ông họ trong quá khứ đã uống khi họ được giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập.  Việc cử hành giống như sự tái sinh hằng năm.   
Vào thời Chúa Giêsu, việc cử hành lễ Vượt Qua như thể những người tham gia có thể cùng tham dự chuyến hành trình mà dân Do Thái đã đi qua sau khi họ được giải thoát khỏi đất Ai Cập.  Vì lý do này, lễ kỷ niệm đã diễn ra với các biểu tượng: rau đắng, thịt chiên quay dở dang, bánh không men, chén rượu, và các biểu tượng khác.  Trong khi cử hành lễ, người con trai út phải hỏi người cha:  “Thưa cha, tại sao đêm nay lại khác hơn tất cả những đêm khác?  Tại sao chúng ta ăn rau đắng? Tại sao thịt chiên quay chưa chín?  Tại sao lại bánh không men?”  Và người cha sẽ trả lời với việc kể lại chuyện các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ:  “Rau đắng cho chúng ta kinh nghiệm của sự khó khăn và cay đắng của ách nô lệ.  Thịt trừu nướng chưa chín để gợi nhớ lại sự chóng vánh của việc giải thoát của Thiên Chúa.  Bánh không men cho thấy sự cần thiết phải canh tân và thay đổi liên tục.  Nó cũng gợi lại việc không đủ thì giờ để chuẩn bị mọi thứ bởi vì tốc độ hành động của Thiên Chúa”.  Cách cử hành lễ Vượt Qua này, chủ tọa bởi người cha trong gia đình, đã cho người chủ sự tự do và sáng tạo trong việc ông tiến hành lễ kỷ niệm. 

*  Phép Thánh Thể:  Lễ Vượt Qua được cử hành bởi Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly

Để cử hành lễ Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giêsu, trong đêm trước cái chết của Người, đã gặp gỡ các môn đệ.  Đó là cuộc họp mặt cuối cùng với các ông.  Đó là lý do tại sao chúng ta gọi là “Bữa Tiệc Ly” (Mk 14:22-26; Mt 26:26-29; Lc 22:14-20).  Nhiều khía cạnh về lễ Vượt Qua của người Do Thái tiếp tục có giá trị cho việc cử hành lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu và tạo nên bối cảnh của nó.  Chúng giúp chúng ta hiểu được toàn bộ ý nghĩa của Phép Thánh Thể.
Tận dụng lợi thế của tự do mà nghi thức đã dành cho Người, Chúa Giêsu đã ban cho ý nghĩa mới mẻ về những biểu tượng của bánh và rượu.  Khi Chúa chia sẻ bánh, Người nói:  “Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con!”  Khi Chúa chia sẻ chén rượu, Người nói: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.”  Cuối cùng, nhận thức được rằng đây là buổi họp mặt cuối cùng, “Bữa tiệc ly”, Chúa Giêsu đã nói:  “Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:25).  Vậy là Người đã hiệp nhất với lời cam kết của mình, được biểu tượng bằng việc bẻ bánh và chia sẻ, với điều kiện lý tưởng của Nước Trời.
Phép Thánh Thể có ý nghĩa để tưởng nhớ kỷ niệm về Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mạng sống của Người vì chúng ta, để cho chúng ta có thể sống trong Thiên Chúa và có dịp đến gần với Chúa Cha.  Đây là ý nghĩa sâu xa của Phép Thánh Thể: để tạo sự hiện diện ở giữa chúng ta, và trải nghiệm trong đời sống chúng ta, kinh nghiệm của Chúa Giêsu Đấng đã hiến mạng sống mình trong cái chết và sự sống lại của Người.        

*  Việc cử hành Bí Tích Thánh Thể trong số các Kitô hữu tiên khởi

Các Kitô hữu không phải luôn luôn thành công trong việc duy trì lý tưởng của Phép Thánh Thể.  Trong những năm của thập niên 50, thánh Phaolô chỉ trích cộng đoàn tín hữu ở Côrintô rằng, trong việc cử hành bữa tiệc của Chúa, đã làm ngược hẳn lại bởi vì mỗi người trong anh em lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say (1Cr 11:20-22).  Cử hành Bí Tích Thánh Thể như một sự tưởng nhớ đến Đức Giêsu có nghĩa là tham gia vào trong chương trình của Chúa Giêsu. Nó có nghĩa là đồng hóa đời sống chia sẻ của Người, hoàn toàn phục vụ cho đời sống người nghèo.
Vào cuối thế kỷ thứ nhất, Tin Mừng của Gioan, thay vì mô tả nghi thức Bí Tích Thánh Thể, lại mô tả Chúa Giêsu quỳ xuống để làm công việc phục dịch thấp hèn nhất thời bấy giờ:  rửa chân.  Sau khi làm công việc này, Chúa Giêsu không nói: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (như được nói tại lúc thành lập Phép Thánh Thể trong sách Tin Mừng Luca 22:19; 1Cr 11:24), nhưng Người nói rằng: “Các con hãy làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13:15).  Thay vì sắp đặt một sự lặp lại của nghi thức, Tin Mừng của Gioan yêu cầu thái độ của đời sống phải được duy trì kỷ niệm món quà mà Chúa Giêsu đã trao ban chính mình vô hạn.  Các Kitô hữu trong cộng đoàn của Gioan đã cảm thấy họ cần phải nhấn mạnh vào ý nghĩa của Phép Thánh Thể như là một sự phục vụ hơn là một nghi thức.

*  Phần tóm tắt     

Quên đi sự phong phú lễ Vượt Qua của người Do Thái khi chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể thì cũng giống như phá đổ bức tường nơi mà bức tranh được treo. Sự phong phú của việc cử hành lễ Vượt Qua, như nó được cử hành trong Cựu Ước và trong thời của Chúa Giêsu, giúp cho chúng ta đào sâu ý nghĩa của Phép Thánh Thể và tránh được cảm giác theo thói quen tầm thường hóa tất cả mọi thứ. Tóm lược lại những gì chúng tôi đã nói, đây là một số điểm có thể làm phong phú việc cử hành của chúng ta:
·      Hãy nhận biết sự đàn áp mà chúng ta đang sống ngày nay – nhai rau đắng
·      Hãy nhớ đến việc giải thoát khỏi sự áp bức – câu trả lời của người cha cho các câu hỏi của người con trai út
·      Hãy kinh nghiệm tốc độ quyền lực giải thoát của Thiên Chúa – thịt nướng chưa chín và bánh không men
·      Hãy cử hành Giao Ước; hãy dấn thân một lần nữa – chúng ta cam kết trong việc ăn bánh mà Chúa Giêsu trao ban
·      Hãy biết ơn vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa làm cho chúng ta – hành động tôn vinh
·      Hãy thắp lại đức tin, đức cậy và đức mến – khuyến khích lẫn nhau
·      Hãy nhớ đến những gì đã thành đạt và những gì còn phải làm – hãy nhớ đến những điều Thiên Chúa đã làm cho chúng ta
·      Hãy tái tạo cùng món quà mà chính Chúa Giêsu đã làm – rửa chân
·      Hãy sống với cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại – về mầu nhiệm liên tục của đời sống
·      Hãy thực hành sự hiệp thông, nguồn gốc của tình huynh đệ - các hoạt động hòa bình và giúp đỡ

6.  Cầu nguyện với Thánh Vịnh:  Thánh Vịnh 16 (15)                                         
Chúa là phần gia nghiệp của con
Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Con thưa cùng CHÚA: "Ngài là Chúa con thờ,
ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? "
Còn thần ngoại xứ này, những thần linh xưa con sùng mộ,
vẫn gia tăng tàn phá, và thiên hạ tới tấp chạy theo.
Máu tế thần, con quyết chẳng dâng,
tên của thần, môi con không tụng niệm!

Lạy CHÚA, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
Phần tuyệt hảo may mắn đã về con,
vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn.
Con chúc tụng CHÚA hằng thương chỉ dạy,
ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con.
Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.

Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét