16/05/2017
Thứ Ba tuần 5 Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 14, 18-27
"Các ngài thuật
cho giáo đoàn nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
có mấy người Do-thái từ Antiôkia và Icôniô đến xúi giục dân chúng. Họ ném đá
Phaolô, và tưởng rằng Phaolô đã chết, nên kéo ngài ra bỏ ngoài thành. Nhưng
đang khi các môn đồ đứng xung quanh ngài, ngài liền chỗi dậy đi vào thành, và
hôm sau, ngài cùng Barnaba đi sang Ðerbê. Khi đã rao giảng Tin Mừng cho thành
này và dạy dỗ được nhiều người, các ngài trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng
cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: "Chúng ta
phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa". Nơi mỗi
hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó
họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang
Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống
Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được
trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các
ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các
ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin. Các ngài còn ở lại đó
với môn đồ trong một thời gian lâu dài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11.
12-13ab. 21
Ðáp: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước
Chúa (x. c. 12a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi
công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng
Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của
Ngài. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người
nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu
muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Miệng tôi hãy xướng
lời ca ngợi khen Chúa, mọi loài huyết nhục hãy chúc tụng danh Chúa tới muôn đời.
- Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! -
Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về
cùng Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 27-31a
"Thầy ban bình
an của Thầy cho các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình
an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng
các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng:
Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con
hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với
các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không
còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực
gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm
như Cha đã truyền dạy".
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Hiệp nhất và
bình an
Các môn đệ ngày xưa đã được nghe Chúa Giêsu chia sẻ tâm tình của Ngài
khi Ngài cùng với các ông ngồi bên cạnh nhau trong bữa tiệc ly. Chúng ta cũng
đã nghe lại những lời thân thương đó mỗi khi chúng ta cùng với Ngài và với nhau
dâng Thánh Lễ. Giáo Hội đặt để những lời thân thương ấy sau kinh Lạy Cha và trước
khi chúng ta đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta chứng minh được bao bọc
trong bình an của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhất là chúng ta đã dọn
lòng mình đủ để có Chúa ngự trong lòng chúng ta.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu thực sự tin rằng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô
không chấp nhất gì tội lỗi của chúng ta mà dựa trên đức tin của Giáo Hội, của cộng
đoàn dân Chúa đã ban cho chúng ta, cho Giáo Hội được ơn hiệp nhất và bình an.
Chắc chắn là Giáo Hội rất rõ điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy ban
cho các con không như thế gian ban tặng". Và chúng ta cũng phải hiểu được
điều đó để hân hoan với bình an mà Chúa ban cho chúng ta. Thế gian là gì trong
nhãn quan của thánh Gioan.
Thế gian là ma quỉ, là mãnh lực của ma quỉ, là thế giới của ma quỉ, là tất
cả những con người và những sinh hoạt đồng lõa với ma quỉ. Bình an của thế gian
này ban tặng là bình an có được do vũ lực, do đàn áp, do chiến tranh, do mưu mô
xảo quyệt, do tội ác, do chiếm đoạt và đe dọa, mong manh biết bao sự bình an tạm
bợ này, chỉ cần một vài thay đổi rất ư là đơn giản thì cũng đủ để cho người ta
mất đi bình an và lại rơi vào hoảng sợ, vào dằn vặt. Ma quỉ và đồng lõa của ma
quỉ vốn dĩ rất quen thuộc với chiến lược trở mặt như trở bàn tay, và vì thế
không ít những người trở thành nạn nhân của sự bình an do chúng tạo nên. Còn
bình an của Chúa ban cho lại là sự bình an của những người được tha thứ tất cả.
Bình an của một con người thấy thanh thản trong thân xác và nhẹ nhàng trong tâm
hồn. Bình an của một cuộc đời có Thiên Chúa. Sự bình an bất chấp những khó
khăn, bất chấp mọi thử thách. Sự bình an của một con người không thấy hổ thẹn
gì khi ngước mắt nhìn lên trời, đưa mắt nhìn chung quanh và nhắm mắt lại nhìn
vào chính mình.
Lạy Cha chí thánh, là con người ai cũng khao khát bình an và có rất nhiều
người thấy hãnh diện vì sự an toàn nhất thời họ có được ở trần gian này, khi họ
dựa cậy vào quyền lực hoặc là do một con người hay của một nhóm người, thực tế
cho thấy bình an ấy quá mong manh. Các con cảm tạ Cha vì sự bình an ban cho
chúng con qua Chúa Giêsu và với tác động của Chúa Thánh Thần. Sự bình an của Ðấng
bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ mặc, bị coi là điên khùng và bị treo lên giữa những tử
tội trộm cướp, ngày thứ ba Ngài đã sống lại. Chúng ta thật hạnh phúc vì có được
sự bình an ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần V PS
Bài đọc: Acts 14:19-28;
Jn 14:27-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải qua gian khổ mới đạt tới vinh quang.
Như người nhà nông phải
vất vả cầy bừa, giầm mưa, dãi nắng, thì hạt giống gieo xuống mới mang lại mùa
màng; đức tin của các tín hữu có được là do sự miệt mài rao giảng của các nhà
truyền giáo. Họ không ngại đường sá xa xôi, cách trở; phải chịu đựng bao nguy
hiểm, bắt bớ, ghen tị, tù đày, ném đá ... để gieo vãi hạt giống đức tin, củng cố
niềm tin, và chờ ngày hạt giống đức tin được sinh hoa kết trái.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn
chứng những điều này. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật những khó khăn và
bách hại mà Phaolô và Barnabas phải trải qua trong hành trình rao giảng đức tin
cho Dân Ngoại; nhưng hai ông vẫn kiên trì chịu đựng, đi từ thành này qua thành
khác để gieo vãi hạt giống đức tin, củng cố niềm tin, và thiết lập các giáo
đoàn địa phương. Khi trở về Antioch, các ông tập họp Hội Thánh và tường trình
những gì Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai ông. Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu
biết trước bao nhiêu gian khổ đang chờ Ngài trong Cuộc Thương Khó sắp tới, Ngài
vẫn can đảm tiến tới để đương đầu. Ngài khuyên các môn đệ đừng xao xuyến và sợ
hãi vì Ngài sẽ ban bình an cho các ông, và bảo đảm quyền lực thế gian sẽ không
thắng được quyền lực của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên
Chúa.
1.1/ Phaolô đi đâu, người
Do-thái theo ông tới đó: "Bấy giờ có những
người Do-thái từ Antioch và Iconium đến Lystra, thuyết phục được đám đông. Họ
ném đá ông Phaolô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi
các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi
Derbe cùng với ông Barnabas."
Chúng ta thấy sự nhẫn
nhục, chịu đựng đau khổ của Phaolô trong việc rao giảng Tin Mừng: vừa thu nhận
được chút kết quả là đối phương theo tới quấy phá; vừa bị đối phương ném đá gần
chết lại chỗi dậy đi qua thành khác rao giảng Tin Mừng.
Điều chúng ta học được
nơi Phaolô và Barnabas trong việc truyền giáo là phải trở lại thăm viếng và củng
cố các giáo đoàn địa phương mình đã thành lập để củng cố tinh thần các môn đệ,
và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: "Chúng ta phải chịu nhiều
gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa."
1.2/ Phaolô và Barnabas
hoàn tất cuộc hành trình thứ nhất: Trong cuộc
hành trình này, hai ông bắt đầu từ Antioch của Syria đến Salamis và Paphos của
đảo Cyprus, đến Perga, Antioch của Pisidia, đến Iconium, Lystra, Derbe, và theo
đường cũ trở lại Perga, rồi từ Perga đến Attalia, trở về Pergha và dùng thuyền
trở về Antioch của Syria. Đây là cuộc hành trình ngắn nhất trong 3 cuộc hành
trình của Phaolô rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Ông đã đi qua tất cả 8
thành. Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn
chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.
Khi trở về Antioch,
hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với
hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. Rồi hai
ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ trước khi bắt đầu cuộc hành
trình thứ hai.
2/ Phúc Âm: Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy
ra, anh em tin.
2.1/ Bình an của Thiên
Chúa: Biết Cuộc Thương Khó đã gần kề, và biết
trước những gì sẽ xảy đến cho các môn đệ, Chúa Giêsu để lại một báu vật cho các
môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của
Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng
đừng sợ hãi." Đây cũng là món quà các thiên sứ reo vang trong Ngày Chúa
sinh ra: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện
tâm."
Chúa Giêsu nhấn mạnh sự
khác biệt giữa sự bình an của Thiên Chúa và của con người. Bình an của Thiên
Chúa đến từ trong tâm hồn con người; trong khi sự bình an của thế gian đến từ
bên ngoài. Bình an của Thiên Chúa ban không bao giờ mất được; trong khi sự bình
an của thế gian rất mong manh và dễ vỡ. Chúng ta có thể nhận ra điều này qua
các cuộc chiến tranh tương tàn, và chúng luôn đe dọa con người.
Bình an của Chúa Giêsu
được bảo đảm bởi Thiên Chúa. Ngài tạm rời các môn đệ để về cùng Cha trong ít
ngày; nhưng Ngài lại trở lại với các môn đệ sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Sự
bình an các ông có được là sau khi chứng kiến tất cả những điều này: Nếu Chúa
Giêsu đã chiến thắng thần chết, và đang ngự nên hữu Chúa Cha trên trời để luôn
bầu cử cho các ông, thì chẳng còn gì sợ hãi nữa; và vì thế, các ông luôn có
bình an.
2.2/ Xung đột giữa Thiên
Chúa và thế gian: Sống trong thế gian, Chúa
Giêsu và các môn đệ sẽ bị thế gian ghét bỏ và truy tố, vì không sống theo tiêu
chuẩn và đường lối của thế gian. Chúa Giêsu biết thế gian sắp sửa truy tố Ngài,
và nó cũng sẽ truy tố các môn đệ của Ngài, nên Ngài nói với các môn đệ:
"Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ Lãnh thế gian đang
đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế
gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy.
Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!"
Thế gian tưởng khi họ
tiêu diệt Chúa Giêsu là họ đã dùng sức mình để chiến thắng; nhưng sự thật là họ
đang thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn Chúa Giêsu chịu đau khổ để gánh
tội và mang lại sự sống đời đời cho con người. Khi Chúa Giêsu sống lại vinh hiển,
thế gian sẽ sững sờ kinh ngạc, vì những gì họ tưởng đã chiến thắng, nhưng giờ bị
thua thiệt, vì các tín hữu không còn sống nô lệ cho họ nữa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin là một gia sản
vô giá mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta qua sự cố gắng vượt bực của các nhà
truyền giáo. Họ đã bỏ gia đình và quê hương, chấp nhận bao nhiêu đau khổ và nghiệt
ngã của các xứ truyền giáo để trao cho chúng ta món quà quí giá này. Chúng ta đừng
khinh thường nó.
- Bổn phận của chúng
ta là gìn giữ và củng cố đức tin này sao cho ngày càng lớn mạnh, và cố gắng hết
sức để trao lại cho con cháu và những người chúng ta có trách nhiệm. Nếu chúng
ta đã lãnh nhận cách nhưng không, chúng ta cũng phải rộng rãi cho đi cách nhưng
không.
- Riêng với con cháu
Việt-nam, chúng ta biết để bảo vệ đức tin này, các nhà truyền giáo và cha ông
chúng ta đã phải đổ máu và chịu đựng biết bao bắt bớ, roi đòn, tù đày, tủi nhục.
Hãy sống đức tin làm sao cho xứng đáng với giá máu ấy.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Ga 14,27-31a
BÌNH AN ĐÍCH THỰC
“Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho
anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga
14,27)
Suy niệm: Hẳn nhiên cuộc sống
có muôn màu muôn vẻ, để trao ban bình an cho nhau, người ta có nhiều cách: một
lời cầu chúc, một cử chỉ đẹp, nụ cười thiện cảm, tấm lòng nhân ái… Nhưng bình
an đích thực Chúa ban, không giống như bình an người đời trao cho nhau: tự sâu
thẳm cõi lòng, mỗi người nhận ra được bình an đích thực chỉ có ở nơi Chúa, Đấng
là “Thái Tử Hòa Bình” (Is 9,6). Ngài đến trần gian để cho chúng ta “được sống
và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Mời
Bạn: Chúa Giê-su phục sinh hiện ra với các môn
đệ lần nào cũng chào chúc: “Bình an cho anh em”. Ngài muốn bạn là khí cụ bình
an của Ngài ở chính nơi bạn đang sống. Để được như vậy, bạn cần ở lại riêng tư
với Chúa để cầu nguyện, chiêm ngắm để thấm nhuần tinh thần của Ngài, hầu mọi
suy nghĩ, lời nói và việc làm của bạn họa lại chính cuộc sống của Chúa, như
thánh Phao-lô nói: “Tôi sống, không còn là tôi sống mà là Đức Ki-tô sống trong
tôi” (Gl 2,20).
Chia
sẻ: Bạn sẽ làm gì để chia sẻ cho mọi người
sống quanh bạn ơn bình an của Chúa Giê-su phục sinh đang có nơi tâm hồn bạn?
Sống
Lời Chúa: Tâm hồn bạn sẽ thanh thoát bình an nhờ
năng kết hiệp với Chúa khi rước lễ, viếng Mình Thánh, thường xuyên tâm sự với
Chúa, v.v.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa
đã ban bình an cho con, xin cho con biết quý trọng bình an Chúa ban trong từng
ngày sống và trao ban bình an đó cho những người con tiếp xúc gặp gỡ hằng ngày.
Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Bình an cho anh em (16.5.2017 – Thứ ba Tuần 5 Phục sinh)
Đời sống Kitô hữu được bình an không phải vì không gặp sóng gió, nhưng là bình an giữa những sóng gió.
Suy niệm:
Con người thời nay gần
như có mọi sự.
Nhưng tiếc thay nhiều
người lại không có một điều rất quan trọng,
đó là bình an ở nơi tâm
hồn.
Nhiều người bị mất ngủ,
căng thẳng, suy sụp, chán đời, tự tử.
Có người rơi vào tình
trạng nghiện ngập, bạo hành hay trụy lạc.
Gia đình cũng chẳng bình
an khi gặp cảnh xung đột, ly dị, ngoại tình.
Con người nôn nóng đi tìm
bình an.
Có người tìm đến những
giáo phái, liệu pháp tâm lý hay đơn giản là tập thở.
Bình an phải chăng chỉ là
kết quả của cố gắng từ phía con người?
Tự sức con người có thể
tạo ra bình an cho mình, gia đình và thế giới không?
Khi thấy các môn đệ xao
xuyến và sợ hãi trước việc Thầy sắp ra đi,
Đức Giêsu đã nói câu mà
chúng ta không ngừng lặp lại trong mỗi Thánh lễ.
“Thầy để lại bình an cho
anh em.
Thầy ban cho anh em bình
an của Thầy” (c. 27).
Bình an là quà tặng cao
quý của Thầy Giêsu
khi Thầy sắp trở về với
Cha qua cái chết thập giá (c. 28).
Bình an cũng là quà tặng
của Chúa Giêsu phục sinh
khi Ngài hiện ra cho các
môn đệ đang đóng cửa vì sợ hãi:
“Bình an cho anh em” (Ga
20, 19.21.26).
Như thế các môn đệ vẫn
phải luôn bình an trước và sau cái chết của Thầy.
Đời sống Kitô hữu được
bình an không phải vì không gặp sóng gió,
nhưng là bình an giữa
những sóng gió.
“Thầy nói với anh em
những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.
Trong thế gian, anh em sẽ
phải gian nan khốn khó.
Nhưng can đảm lên! Thầy
đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Bình an của chúng ta dựa
trên chiến thắng của Đức Giêsu.
“Trong mọi thử thách,
chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng đã yêu chúng ta”
(Rm 8, 37).
Đức Giêsu nhìn nhận thế
gian có khả năng ban cho chúng ta bình an.
Nhưng Ngài phân biệt thứ
bình an ấy với thứ bình an của Ngài.
Chúng ta tự hỏi mình có
tìm bình an dựa trên sự vững bền mong manh
của tiền bạc, sắc đẹp,
chức quyền, tài năng, tri thức không?
Sự bình an mà chúng ta
nhận được và trao cho nhau trong mỗi Thánh lễ
có thật sự gây âm vang
trong cuộc sống đời thường của ta không?
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm
muốn
và những trói buộc của sợ
hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng
cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG NĂM
Tiếng Gọi Bước Tới
Vinh Quang
Vào ngày thứ bốn mươi,
“Người đã được đưa lên trời” (Cv 1, 2). Phụng vụ ngày lễ Thăng Thiên cử hành biến
cố hồng phúc này. Nơi chốn thực sự của cuộc vinh thăng Đức Kitô không phải là
trên mặt đất này mà là trong cung lòng Chúa Cha. “Lên trời” ở đây ám chỉ việc
đi đến một nơi hoàn toàn khác với cõi trần gian.
Đó là sự hiệp thông
hoàn toàn với Thiên Chúa – Đấng Thiên Chúa hiệp nhất Cha, Con và Thánh Thần. Đó
là vị Thiên Chúa “làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1, 23), vị Thiên Chúa là
“Cha vinh hiển”.
Nơi chốn của sự thông
hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa chính là nơi mà Đức Kitô được vinh thăng. Ở đó
Người được tôn thờ trong tư cách là Con đời đời đồng bản tính với Cha, và là
Chúa Tể của mọi loài đã được cứu chuộc. Thật vậy, Chúa Cha đã đặt tất cả dưới
chân Người và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh – mà Hội Thánh là Thân Thể
Người, là sự viên mãn của Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1, 22 – 23).
Đức Kitô, Chúa Tể của
tạo vật đã được giải cứu, được tuyên dương nơi cuộc Phục Sinh và được vinh
thăng nơi cuộc Thăng Thiên. Người tiếp tục hoạt động với chính quyền lực thần
linh đã thể hiện nơi Người trong cuộc sống dương thế. Quyền lực này, được đóng ấn
bởi mầu nhiệm phục sinh, dẫn dắt loài người và mọi tạo vật tiến đến vinh quang
của Chúa Cha.
Hoa quả của quyền lực ấy
là toàn bộ kho tàng vinh quang được kế thừa bởi các thánh. Quyền lực ấy cũng thể
hiện một cách vô cùng lớn lao cho chúng ta là những tín hữu (Ep 1, 18 – 9). Vì
thế, tính trang trọng của sự kiện Chúa Thăng Thiên nói với chúng ta về tiếng gọi
bước tới vinh quang, tiếng gọi mà loài người và mọi tạo vật phải nhận ra nơi
Thiên Chúa qua Đức Kitô – Đấng đã được đưa lên trời.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16-5
Cv 14, 19-28; Ga
14, 27-31a.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em
không theo kiểu thế gian, anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.”
Người đời thường thích
chúc cho nhau đủ mọi sự, với tất cả lòng thành, chân thật của mình, nhưng mấy lời
chúc được trở thành hiện thực? Bởi vì con người của chúng ta không có quyền ban
phát, chỉ đơn thuần là ý muốn tốt mà thôi. Còn đối với Chúa Giêsu.Chúa có quyền
phép, Chúa thực hiện những gì Chúa muốn. Nên khi Chúa ban bình an cho các Tông
Đồ, thì các ngài nhận được sự bình an thật sự, không còn sợ hãi hay xao xuyến với
bất cứ sự gì hay mội ai nữa.
Lạy Chúa Giêsu. Bình
an của Chúa luôn ở lại trong Giáo Hội của Chúa và trong mọi tâm hồn các tín hữu.
Xin cho mọi người trong gia đình chúng con yêu mến Thánh lễ hằng ngày, để nhận
được lời chúc bình an của Chúa, đem vào cuộc sống của mình với Chúa với tha
nhân.
Mạnh Phương
16 Tháng Năm
Cái Hôn
Hãng thông tấn AFP
của Pháp trong bản tin ngày 23/01/1991 đã ghi một mẩu chuyện lạ như sau:
Một phụ nữ Brazil
đã lợi dụng cái hôn để cắn và nuốt mất khúc lưỡi của người yêu. Bà cho biết:
làm như thế là để trả thù người đàn ông vì đã đánh đập, hành hạ bà.
Cảnh sát tại thành
phố Salvador de Bahia, mạn đông bắc Brazil cho biết như sau: Lucia bị người yêu
là ông Djalm dos Santos, 47 tuổi, đã đánh đập, hành hạ thậm tệ. Nàng kiên nhẫn
chờ đợi cơ hội. Hôm 22/01/1991, ông Djalm đến thăm Lucia để xin lỗi. Cô ta liền
nhảy xổ vào người yêu, ôm hôn ông một cách rất tình tứ, không cho ông có thì giờ
để giải thích.
Hai người đang hôn
nhau, thì đột nhiên, Lucia cắn đứt một phần lưỡi của Djalim và nuốt luôn vào bụng
để người ta không thể vá lại khúc lưỡi đã bị mất.
Người đàn ông được
đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nhưng theo các bác sĩ điều trị, ông ta sẽ không bao
giờ có thể nói lại một cách bình thường được, vì đã mất một khúc lưỡi.
Ông Djalm than thở
như sau: "Ðây là nụ hôn thê thảm nhất trong đời tôi. Ðó thật là nụ hôn của
Giuda".
Cái hôn có nhiều hình
thức và ý nghĩa khác nhau.
Có cái hôn của các nhà
lãnh đạo tôn giáo, chính trị để nói lên tình hữu nghị, sự hòa giải. Có cái hôn
bình an của các tín đồ của một tôn giáo. Có cái hôn dạt dào thương mến giữa cha
mẹ và con cái. Có cái hôn nồng cháy dục tình giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.
Tựu trung, trong cái
hôn nào cũng có hai yếu tố: yếu tố hữu hình là sự tiếp giáp giữa hai thân xác
qua môi miệng và yếu tố vô hình mà cái hôn muốn diễn tả như tình liên đới, hữu
nghị, sự hòa giải, tình mẫu tử, tình yêu lứa đôi. Cái hôn sẽ trở thành đồng
nghĩa với sự phản bội khi nó tước đoạt khỏi yếu tố vô hình trên đây. Ðó là trường
hợp cái hôn của người đàn bà Brazil trên đây.
Nhưng điển hình nhất của
cái hôn phản bội vẫn là cái hôn Giuda dành cho Chúa Giêsu. Ðiều bỉ ổi nhất
trong cái hôn của Giuda chính là dùng một cử chỉ của tình thân như một dấu hiệu
của sự bán nộp.
Cái hôn của Giuda được
lập lại khi người ta dùng những chiêu bài cao đẹp để che đậy những ý đồ đen tối.
Cái hôn của Giuda được lập lại khi người ta nhân danh nhân nghĩa, nhân danh phục
vụ, nhân danh người nghèo để kiếm quyền bính, tư lợi cho mình.
Ðối với người tín hữu
Kitô, thì cái hôn của Giuda chính là thái độ sống giả hình mà Chúa Giêsu không
ngừng kết án trong Phúc Âm. Ðó là điều mà tiên tri Isaia đã cảnh cáo khi ông
nói: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, mà lòng trí chúng thì xa Ta". Nếu
cái hôn của Giuda là một cử chỉ thân tình ngoài môi miệng, nhưng lòng trí thì lại
chất chứa âm mưu thâm độc, thì thái độ sống giả hình của người tín hữu cũng là
một cái hôn như thế.
Khi môi miệng sốt sắng
cầu kinh, nhưng cuộc sống lại đầy những hành động gian ác ích kỷ, phải chăng đó
không là chiếc hôn của Giuda mà chúng ta dành cho Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét