Trang

Thứ Bảy, 13 tháng 5, 2017

14-05-2017 : (phần I) CHÚA NHẬT V PHỤC SINH năm A

14/05/2017
Chúa Nhật 5 PHỤC SINH năm A
(phần I)

Bài Ðọc I: Cv 6, 1-7
"Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa".
Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 4-9
"Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh Kinh rằng: "Ðây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn". Vậy, vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 14, 6
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 14, 1-12
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðường Dẫn Tới Sự Sống

Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe thánh Phêrô khuyên nhủ hãy quay mặt về với Ðấng là Mục tử các linh hồn để thấy Người đã đi trước đưa chúng ta vào sự sống dồi dào. Hôm nay có thể nói chúng ta hãy đến xem cánh đồng cỏ mà Người đã dẫn chúng ta đến, cũng là đàn chiên mà Người đã đem chúng ta vào, là Hội Thánh mà chúng ta đã gia nhập nhờ đi qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh của Người, khác nào như qua Cửa của ràn chiên. Cả ba bài Kinh Thánh vừa nghe đọc đều cho chúng ta thấy những phương diện khác nhau của Hội Thánh.

A. Một Cơ Quan Có Nhiều Phận Sự
Bài Công vụ các Tông đồ không đơn sơ như chúng ta tưởng sau khi nghe qua một lượt. Chúng ta nghĩ đây chỉ là chuyện thiết lập các Phó tế, chứng tỏ Hội Thánh đầy đặc sủng của Chúa Thánh Thần. Nhưng tại sao lại có việc thiết lập ấy? Việc thiết lập này đã giải quyết được những gì? Và có hệ gì đến đời sống đạo của chúng ta ngày nay không?
Những câu đầu của bản văn thật ý nghĩa. Số các môn đồ gia tăng. Hội Thánh như hạt cải đang lớn thành cây. Sự đồng tâm ý hiệp phải khó hơn. Sách nói có tiếng người Hylạp rì rầm chống đối người Dothái. Ðó là triệu chứng bất hòa và xung khắc giữa bổn đạo mới và bổn đạo cũ, giữa lương dân trở lại và Dothái tòng giáo. Cả hai đều mới mẻ trong Ðức Kitô. Nhưng xuất xứ, nguồn gốc và nhất là phong tục làm cho hai bên khó sống chung trong một thân thể và nhận mình là chi thể của nhau. Sự khó dung hòa này còn kéo dài lâu và đưa đến những thái độ quyết liệt như chúng ta sẽ thấy sau này.
Ở đây, nguyên nhân sự bất hòa xem ra chỉ do việc các quả phụ người Hylạp không được phục vụ tươm tất. Bản văn nói vắn tắt quá khiến chúng ta khó thẩm định được sự thật như thế nào. Nhưng ít nhất chúng ta phải nhận thức: sinh hoạt của Hội Thánh ngay từ đầu đã không hạn chế nguyên trong phạm vi phụng vụ. Giáo hội đã biểu thị sức sống bác ái của mình trong cả việc phục vụ tha nhân, đặc biệt trong các phần tử đau khổ trong xã hội. Chính Chúa đã nói với Hội Thánh, kẻ nghèo sẽ còn ở mãi với chúng ta. Và Người ngầm bảo: thế nên, chúng con phải săn sóc họ. Chắc chắn các Tông đồ đã ý thức tầm quan trọng của công việc phục vụ này nên đã muốn tự tay làm. Nhưng miễn là việc cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa không bị thiệt thòi!
Thế mà dường như sự đó đã xảy ra. Lời các Tông đồ nói khi giải quyết nỗi bất hòa khiến chúng ta có thể nghĩ như vậy. Ít ra, khi có tiếng rì rầm phàn nàn về việc phục vụ, các Tông đồ đã có dịp suy nghĩ về cách thức thi hành phận sự của mình. Các ngài tỏ ra là những người cởi mở, biết nghe nguyện vọng và chỉ trích của người dưới. Ðó là những cơ hội để nhận định đúng về sứ mệnh và lề lối làm việc của mình. Nhận ra mình phải dồn sức cho những công việc quan trọng hơn, các ngài đem sáng kiến giải quyết vấn đề cho anh em suy nghĩ và kêu gọi sự cộng tác. Rõ ràng các ngài dành cho anh em nhiều phần sáng kiến để chỉ định những người có tiêu chuẩn. Người phục vụ phải đầy Thánh Thần và khôn ngoan, vì lẽ công việc của Hội Thánh là công việc của Chúa Thánh Linh và của Ðức Yêsu Kitô. Việc nào trong Hội Thánh cũng mang tính cách tôn giáo. Thế mà việc thờ phượng của Ðạo Mới phải thi hành trong Thần Khí và Sự Thật (Yn 4,23). Matthya đã được chọn thế chân Yuđa vì ông đã biết Chúa Yêsu và tất cả các Tông đồ phải chờ ơn Thánh Thần xuống để khởi sự hoạt động trong Giáo hội và cho Giáo hội. Vì thế việc lựa chọn những người mới theo các tiêu chuẩn trên chứng tỏ sự "một lòng một ý" giữa hàng ngũ Tông đồ và các cộng sự viên. Hội Thánh vẫn duy nhất trong cơ cấu, mặc dầu mỗi ngày càng nhiều cơ quan phục vụ. Và có lẽ đây là điểm then chốt trong bài Công vụ hôm nay. Tác giả muốn đề cao sự nhất trí sâu xa nhân dịp có những chuyện dường như muốn chia rẽ Giáo hội.
Hai nhóm trong Hội Thánh, hai khuynh hướng mới cũ, Dothái và Hylạp, tiêu biểu cho mọi mối căng thẳng, đã tìm lại được sự sống bình an. Vai trò chủ động vẫn do các Tông đồ nắm giữ, nhưng được thực thi với thái độ cởi mở, linh động và không thiếu phần cương quyết. Những người được kêu gọi hợp tác cũng ý thức phận sự của mình là tham gia vào sứ vụ của Thần Khí và Sự Thật. Kết quả dù những người được bầu lên đều mang tên Hylạp và sẽ đi giảng nơi dân ngoại như Philip sẽ đi Samari, công việc của họ đều đã được các Tông đồ đặt tay. Họ chỉ nối dài tay các ngài khiến ta thấy rồi đây Tin Mừng sẽ mau lan rộng ra lương dân. Và ngay ở Yêrusalem số môn đồ cũng tăng gấp lên, chắc chắn nhờ thái độ cởi mở của các Tông đồ và của Giáo hội, cũng như nhờ sự hợp tác và duy nhất sâu xa giữa các tín hữu.
Như vậy bài sách Công vụ hôm nay còn nói rất nhiều với chúng ta, với cộng đoàn giáo xứ, giáo phận và Giáo hội chúng ta. Hội Thánh của Chúa không được đóng khung trong Phụng vụ. Sinh hoạt của Hội Thánh phải bao hàm việc phục vụ tha nhân. Cả trong lãnh vực này, Hội Thánh vẫn phải "chỉ có một tấm lòng, một linh hồn" và điều đó đòi hỏi cố gắng của mọi người trong chúng ta. Chúng ta sẽ thấy những lý do mạnh mẽ để sống tinh thần duy nhất này khi suy nghĩ về bài Thánh Thư và bài Tin Mừng.

B. Một Ðền Thờ Do Nhiều Viên Ðá Sống Ðộng
Mở đầu bài thư, thánh Phêrô khuyên mọi người hãy đến với Tảng đá sống động mà loài người đã chê chối nhưng Thiên Chúa đã lựa chọn và tôn vinh. Rõ ràng ngài muốn nói đến Ðức Yêsu Tử nạn Phục sinh. Chúa nhật trước cũng chính thánh Phêrô giới thiệu Người như là Ðấng chăn dắt các linh hồn, đã hy sinh mạng sống vì chiên. Hôm nay Người được coi như Tảng đá sống động đã bị loại bỏ nhưng rồi đã được nhặt lên để xây lên một Ðền Thờ lớn. Không phải thánh Phêrô đã tạo ra hình ảnh này. Chính Ðức Kitô khi còn sống đã trích lời Thánh vịnh 118 nói về Viên Ðá bị thải nhưng rồi trở thành Ðỉnh Góc để ám chỉ cuộc Tử nạn-Phục sinh của Người (Mt 21,42). Thánh Phêrô chỉ thêm tĩnh từ "sống động" vào danh từ "Tảng Ðá" để nói lên niềm tin của mình vào Ðức Kitô Phục sinh hiện nay đang sống động thực sự. Và có thể nói Người sống động hơn bao giờ hết vì đang xây dựng tín hữu nên Ðền Thờ mới.
Những người này cũng là những viên đá sống động vì mang trong mình sự sống của Ðức Kitô phục sinh, nhờ việc đã đi qua Bí tích tái hiện việc chết đi sống lại của Chúa. Họ đã đồng hóa với Người nên cùng Người làm thành Ðền Thờ mới. Nói đúng ra, thánh Phêrô không dùng danh từ Ðền Thờ vì có lẽ khi ngài viết bức thư này, Giáo hội chưa có Ðền thờ riêng, nhưng thường thi hành việc bẻ bánh trong các "nhà". Nhưng nhà thiêng liêng cũng là Ðền thờ. Vì không phải vật liệu đá, gỗ hay các chiều cao thấp, lớn nhỏ, phân biệt nhà và Ðền thờ. Chính Thánh Thần mới là yếu tố phân định. Nhà trở thành Ðền thờ khi Thần Trí Chúa ập vào. Chính Thần xác Ðức Kitô cũng chỉ trở thành Ðền thờ thay thế Ðền thờ Yêrusalem như Yn 2,19-22 đã nói, khi Người đã đi qua mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh để Thân xác Người trở thành đầy Thánh Thần. Vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, các tín hữu đã chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa, thì họ được đầy Thánh Thần, trở nên đá sống xây trên Tảng đá sống động, làm thành nhà thiêng liêng.
Và như Ðức Kitô Phục sinh không phải chỉ là Ðền thờ mới, mà còn là vị Thượng tế tuyệt với, các tín hữu khi làm thành nhà thiêng liêng cũng trở nên hàng tư tế thánh để dâng lễ. Không cần các lễ dâng vật chất nữa, nhưng đã có các hy tế thiêng liêng đầy Thánh Thần, là những lễ vật duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nghĩ trong đoạn thư này thánh Phêrô nhấn mạnh đến sinh hoạt phụng vụ và vai trò dâng lễ của Hội Thánh. Nhưng chúng ta cũng có thể nói chủ ý của ngài là nói lên đặc tính duy nhất, thánh thiện của Giáo hội. Toàn thể các tín hữu được xây trên Ðức Yêsu Phục sinh làm thành Ngôi nhà thiêng liêng. Và như vậy ta sẽ thấy ăn ý hơn ở đoạn sau.
Quả vậy tiếp đó, thánh Phêrô trích một lời trong Tiên tri Isaia (28,16) để làm chứng Thiên Chúa đã tiền định như vậy, để Ðức Kitô "trở thành viên đá đỉnh góc quý giá và ai tin vào đó tất không bị hổ thẹn" (c.6). Và ngài nói luôn: "Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì... đá kia chỉ là khối thạch chướng ngại". Như thế, ngài vẫn không quên Ðức Kitô Phục sinh đã được đặt làm "Thẩm phán" kẻ chết và người sống. Những ai tin Người ở một bên và bên kia là những kẻ không tin. Như vậy, thánh Phêrô đã coi tín hữu như một khối. Ngài muốn nói đến sự duy nhất trong Giáo hội. Ngài coi tín hữu như những viên đá sống động nằm trong Ngôi nhà thiêng liêng. Các vinh dự mà ngài kể ra và nói đã được dành cho tín hữu toàn có tính cách tập thể, vì anh em là "dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương, nước thánh thiện, dân được chọn làm sở hữu". Bao nhiêu phẩm tước của dân Giao ước cũ (Xh 43,20; 19,5) được chuyển cho Dân Giao ước mới. Ðó là những vinh dự của cộng đồng chứ không phải của cá nhân. Nên ta có thể nghĩ ở đây thánh Phêrô muốn nói nhiều về Hội Thánh duy nhất.
Nếu thế thì chữ "nhà" mà tác giả dùng ở trên có thể gợi đến một đoạn Kinh Thánh quan trọng. Ðavít bấy giờ muốn làm nhà cho Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại hứa sẽ xây cho Ðavít một nhà tồn tại muôn đời. Ðó là nhà vua Ðavít, dòng họ của ông, là Ðức Yêsu Kitô Vua muôn thuở nhờ việc Tử nạn Phục sinh, là Hội Thánh gồm những viên đá sống động làm nên nhà thiêng liêng. Nhà Ðavít chỉ nắm vương quyền; nhưng Ðấng Cứu Thế phải thi hành quyền tư tế, nên các tiên tri về sau vẫn loan báo một Vị Cứu Tinh vừa làm Vua vừa là Thượng tế. Và lời Thánh Kinh ấy đã ứng nghiệm nơi Ðức Kitô Phục sinh. Hội Thánh, Thân thể của Người, vì thế được gọi là hàng tư tế hoàng vương.
Thánh Phêrô muốn cho chúng ta suy nghĩ những tước hiệu tập thể ấy để chúng ta rao truyền các kỳ công của Thiên Chúa trong tinh thần duy nhất, như tác giả Công vụ đã khẳng định Hội Thánh thuở ban đầu đã một lòng một ý trong việc mở mang Nước Chúa. Và đó cũng là mệnh lệnh Chúa đã để lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

C. Một Ðường Dẫn Tới Sự Sống
Thánh Yoan ghi lại câu chuyện cuối cùng Chúa nói với môn đệ trước khi bị nộp. Người hướng về tương lai, nói đến những việc sẽ tới. Người đang ngồi giữa môn đệ trước khi ra đi chịu chết, nhưng lại nói như thể Người đang ở trong trạng thái phục sinh. Thế nên chúng ta có điều kiện hiểu Người dễ hơn các môn đệ lúc bấy giờ. Nói cách khác, đây đúng hơn là tâm tình của Chúa phục sinh nói với chúng ta. Và vì vậy chúng ta hãy chú ý nghe Người.
Người mở đầu: "Lòng chúng con chớ rúng động!". Người quen nói như vậy mỗi khi hiện ra sau ngày sống lại. Chính tiếng nói của Ðấng Vô hình làm cho người ta sợ, nên Chúa phục sinh phải mở đầu như thế. Và thái độ đầu tiên Người đòi hỏi nơi người ta là hãy tin vào Người. Không tin Người đã sống lại thì không có đủ điều kiện để thu hoạch lời Người. Và phải tin vào Người như tin vào Thiên Chúa, vì bây giờ Người không còn như xưa nữa, khi "Người đã chẳng nghĩ phải giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa, song Người đã hủy mình ra không" (Ph 2,6-7). Nhưng bây giờ Người đã được đặt làm Chúa, nên người ta phải tin vào Người như tin vào Thiên Chúa.
Vậy chính Chúa Yêsu Phục sinh đang nói với chúng ta, qua các môn đệ của Người. Người bảo: trong nhà Cha có nhiều chỗ ở; Người sẽ đi dọn chỗ cho chúng ta; rồi Người trở lại đem chúng ta đến nơi Người ở. Ðầu óc chúng ta tự nhiên muốn vẽ ra con đường lên trời và như thấy Người đang ở xa chúng ta, tận nhà của Cha Người. Nhưng không phải vậy, vì chính Người lại quả quyết: đàng dẫn đến Chúa Cha lại chính là Người. Làm sao có thể như vậy được? Ðầu óc chúng ta muốn nổ tung ra mất. Nhưng này, đang tiếp chuyện "Con Người thiên thai", sao chúng ta lại cứ nghĩ như con người trần ai? Chúng ta hãy để Người giải thích, nâng tâm trí chúng ta lên bình diện Nước Trời. Lúc đó, Lời Người nói sẽ rõ rệt hơn và có thể hiểu được lắm.
Người nói: Cha với Người là một. Người ở trong Cha và Cha ở trong Người. Ai thấy Người cũng thấy Cha. Có gì cấm ta tin như vậy? Người đã phục sinh rồi. Người đã trở lên nơi vinh hiển của thuở đầu; Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa, theo kiểu nói của người Dothái; và sống lại rồi, Người cũng đang ở với Hội Thánh hàng ngày cho đến tận thế. Vậy giữa Người với Cha và với Hội Thánh không có không gian cách quãng gì cả. Chỉ có giữa Hội Thánh và Cha phải có Người là trung gian, là đàng dẫn Hội Thánh tới Cha, dẫn các linh hồn tới Thiên Chúa. Một mình Người làm được công việc này; và Người đã làm khi ra đi Tử nạn Phục sinh. Chính khi chết và sống lại, Người đã trở nên đàng cứu độ dẫn chúng ta tới Thiên Chúa. Vì thế Người cũng là sự thật và là sự sống của chúng ta để chúng ta chắc chắn được đến cùng Cha và được sống.
Như vậy bài Tin Mừng Yoan quá sâu sắc. Ít nhất chúng ta phải thấy rằng Ðức Yêsu Phục sinh này là đàng dẫn ta đến Thiên Chúa. Không phải con đàng có chiều dài chiều rộng, vì Cha đang ở trong Người và Người đang ở trong Cha. Nhưng là Trung gian, là Cửa để chúng ta đến với Thiên Chúa, là Cửa ràn chiên để chúng ta ra vào tìm được sự sống. Chúng ta vào Cửa là đã gặp Thiên Chúa rồi. Chúng ta đến với Chúa Yêsu là đến với Thiên Chúa. Chỉ có một điều nên nhớ: tự sức mình chúng ta không đến với Người được. Chính Người phải đến đưa chúng ta lại. Và Người chỉ đến với chúng ta khi đã trở về với Cha qua mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh, mầu nhiệm mà chúng ta sắp tái hiện trên bàn thờ. Ở đây, Chúa Yêsu trở lại gặp chúng ta đức chúng ta vào nhà Cha, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó; Người ở trong Cha và Cha ở trong Người thì chúng ta cũng ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Và sở dĩ được như vậy là nhờ Bí tích Thánh Thể, nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, nhờ Người là đàng, là sự thật và là sự sống.
Mầu nhiệm này không xây dựng sự hiệp nhất sao? Chính nhờ việc Người ở trong Cha, Cha ở trong Người và hai Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong các Ngài mà chúng ta mật thiết với nhau hơn các viên đá trong một Ðền thờ, hơn các chi thể trong một thân thể. Sự duy nhất ấy không được chỉ thể hiện nơi nhà thờ, vì như bài Công vụ cho biết, sinh hoạt tôn giáo phải là phục vụ tha nhân nữa. Chúng ta chỉ sống đạo đầy đủ khi thể hiện sự duy nhất cả nơi xã hội, trong mọi sinh hoạt với đồng bào, khiến tuy có nhiều phận vụ khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một tấm lòng, một linh hồn. Xuất xứ, tính tình, phong tục làm chúng ta xung khắc, nhưng sức mạnh hợp nhất chúng ta lại bởi Chúa. Chính Người là đàng đưa chúng ta vào sự duy nhất của Thiên Chúa để Thánh Thần sẽ là dây bác ái kết hợp chúng ta lại với nhau ở trong Người. Và Người sắp làm việc ấy bây giờ cho chúng ta trong mầu nhiệm Thánh Thể. Chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng tham dự.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật V Phục Sinh, Năm A
Bài đọcActs 6:1-7; 1 Pet 2:4-9; Jn 14:1-12.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phẩm giá và cùng đích cao trọng của con người
Theo kế hoạch tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa, con người giữ một địa vị quan trọng hơn tất cả mọi loài Thiên Chúa dựng nên (Psa 8:3-6). Để biết cách hành xử cho xứng đáng với phẩm giá cao trọng của mình, con người cần học hỏi để hiểu rõ những mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Nếu không chịu học hỏi, con người sẽ hành xử như các loài thú khác, để rồi cũng chết như chúng, và không bao giờ đạt được đích điểm cao trọng mà Thiên Chúa đã tiền định cho con người.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng nhiều chứng minh con người không biết nguồn gốc và đích điểm cao trọng của mình nếu họ không chịu học hỏi những mặc khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, cộng đoàn tín hữu đầu tiên rất hăng hái trong việc sống chung và để mọi sự làm của chung thuở ban đầu; nhưng chẳng bao lâu, sự tham lam và ghen tị lại tái sinh giữa các bà góa Do-thái và các bà góa Hy-lạp. Các tông đồ được Thánh Thần soi sáng nên biết cách giải quyết rất khôn ngoan. Các ngài đề nghị chính họ tìm 7 phó tế khôn ngoan và thánh thiện giữa họ, để các ngài đặt tay, và họ sẽ trở thành những cộng tác viên với các tông đồ trong việc phục vụ Dân Chúa. Trong bài đọc II, tác giả thư Phêrô I nhấn mạnh đến vận mạng cao cả của các tín hữu. Họ là giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân thánh của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Ngài. Thiên Chúa đã gọi họ ra khỏi miền u tối để vào nơi đầy ánh sáng huyền diệu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải rất nhiều điều quan trọng cho các tông đồ: Trong nhà Cha Ngài có rất nhiều chỗ ở, Ngài đi là để dọn chỗ cho mọi người, khi đã dọn xong Ngài sẽ đến để mang mọi người với Ngài, mục đích là để Ngài và con người không còn ngăn cách nữa...
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan.
1.1/ Vấn nạn xảy ra trong Giáo Hội sơ khai: Khi thấm nhuần niềm vui Phục Sinh, các tín hữu tin tưởng nơi Thiên Chúa và bỏ mọi sự làm của chung để ai cần thì dùng; nhưng chẳng bao lâu, tính bè phái, ghen tị và tham lam tiếp tục dấy loạn. “Các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.”
Lời than phiền đến tai các tông đồ. Nếu họ không biết cách giải quyết khôn ngoan, cộng đoàn sơ khai sẽ có nguy cơ bị tan rã. Đồng thời, các tông đồ cũng biết họ không đủ khả năng và không có thời giờ làm tất cả mọi việc, và việc rao giảng Lời Thiên Chúa phải đặt lên trên việc ăn uống.
1.2/ Cách giải quyết tốt đẹp: Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: "Chúng tôi mà bỏ việc, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa." Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stephen, Philíp, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas và Nicolaus. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.
Vấn nạn được giải quyết. Các tông đồ có thêm 7 cộng sự viên đắc lực. Stephen trở thành vị tử đạo đầu tiên. Philip hăng hái rao giảng mọi nơi. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Jerusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin. Nếu các tông đồ sợ bị phân chia quyền hành, cộng đoàn sơ khởi sẽ bị thiệt hại nặng nề và không có cơ hội phát triển.
2/ Bài đọc II: Vận mạng cao cả của các tín hữu
2.1/ Tảng đá góc tường: Cụm từ này có nguốn gốc từ Isaiah 8:14; 28:16, và được lặp lại trong Romans 9:33; Ephesians 2:20, và trong trình thuật hôm nay. Tác giả liệt kê 3 công dụng của đá:
(1) Dùng để phá hủy: Ngày xưa không có súng đạn, con người dùng đá tròn làm vũ khí để tiêu hủy căn cứ quân sự của đối phương. Ngày nay, vẫn còn hàng đống những viên đá này gần những căn cứ quân sự cũ bên Do-thái (x/c Isa 8:14).
(2) Dùng làm cho con người vấp ngã: Đá có thể là những chướng ngại làm con người vấp ngã, leo núi mà vấp phải một tảng đá có thể trượt chân rơi xuống vực. Các tác giả ví Đức Kitô như viên đá làm cho người Do-thái bị vấp ngã: “Đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy.”
(3) Dùng để xây nhà hay Đền Thờ: Chúa Giêsu chọn Phêrô là Đá để xây Giáo Hội của Ngài (Mt 16:18). Tác giả Phêrô I trích dẫn lời Isaiah 28:16: “Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” “Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá.” Tác giả Thư Ephesô gọi Đức Kitô là Đá Tảng Góc Tường của Đền Thờ Thiên Chúa, với nền móng là các ngôn sứ và các tông đồ, còn tất cả các tín hữu là những viên đá của Đền Thờ (Eph 2:20).
2.2/ Anh em là những viên đá sống động: Tác giả khuyên các tín hữu: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô.”
Tác giả cũng nhấn mạnh đến vận mạng cao cả của các tín hữu. Anh em:
(1) là giống nòi được tuyển chọn: Chữ “genos” có 3 ý nghĩa trong Hy-lạp: con cháu của một dòng giống, những người trong cùng một gia đình, hay giống loại theo động vật hoặc thực vật. Tác giả có ý muốn nói theo nghĩa thứ hai: các tín hữu là những người trong cùng một gia đình với Thiên Chúa, vì họ đã tin vào Đức Kitô.
(2) là hàng tư tế vương giả: Trong Cựu Ước, chỉ có những người trong dòng tộc Aaron (Levi) mới được làm tư tế; nhưng trong Tân Ước, các tín hữu thuộc gia đình Đức Kitô, Ngài là tư tế muôn đời theo phẩm trật Melchisedech. Khi được rửa tội, các tín hữu thành những tư tế phổ quát (để phân biệt tư tế theo thừa tác), họ có bổn phận phải thờ phượng Thiên Chúa.
(3) là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa: Trong Cựu Ước, chỉ có dân Do-thái được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô tới, tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều trở thành dân thánh của Thiên Chúa để loan truyền những kỳ công của Người.
3/ Phúc Âm: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Có quá nhiều những mặc khải quan trọng của Chúa Giêsu cho chúng ta trong trình thuật hôm nay. Trong khuôn khổ của bài viết chúng ta chỉ có thể vắn tắt; khi nào có cơ hội, chúng ta sẽ khai triển rộng hơn.
(1) Về mục đích đời người và sự ra đi của Chúa Giêsu: Trên Thiên Đàng có đủ chỗ cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu sắp sửa từ giã các môn đệ là để dọn chỗ cho các ông. Khi đã dọn xong, Ngài sẽ trở lại để đón các môn đệ về chung sống với Ngài, và đó là cuộc sống hạnh phúc muôn đời của con người bên Thiên Chúa. Con người phải tin tưởng vào những gì Chúa Giêsu nói, và đừng để bất kỳ đau khổ nào xảy ra trong cuộc đời làm con người sợ hãi và thất vọng. Những lời này cũng chứng minh tình yêu vô biên và sự chăm sóc cẩn thận của Thiên Chúa dành cho con người.
(2) "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”: Câu này có thể chia làm 3 mặc khải quan trọng, chính Chúa Giêsu là:
+ Con đường: Ngài là con đường và mọi người phải qua con đường này để đạt tới Thiên Chúa. Không còn con đường nào khác dẫn tới Thiên Chúa: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Một ví dụ giúp chúng ta dễ hiểu câu này hơn. Khi chúng ta bị lạc đường, chúng ta hỏi người để chỉ đường, họ chỉ dẫn chúng ta đi bao nhiêu thì quẹo trái, quẹo phải...; nghe lời họ, chúng ta lên đường, nhưng rồi lại lạc nữa. Nhưng nếu có người nói với chúng ta: cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn tới đó. Chúng ta sẽ cảm thấy an tòan hơn. Trên đường đời cũng thế, có quá nhiều con đường làm chúng ta lạc hướng và bất an; nhưng nếu chúng ta nghe lời của Chúa Giêsu: Chính Thầy là đường, và bước theo Ngài, chúng ta sẽ cảm thấy bình an và chắc chắn sẽ đạt đích an toàn.
Con đường có thể được hiểu là toàn bộ những giáo huấn của Ngài.
+ Sự thật: Ngài là chính sự thật. Một người có thể học sự thật của Ngài rồi truyền lại cho người khác, nhưng không ai có thể vỗ ngực tuyên bố “họ là sự thật.” Tất cả những sự thật khác đều phải đối chiếu với sự thật của Chúa Giêsu để đáng được tin cậy.
+ Sự sống: Có nhiều phương diện khác nhau của sự sống như: thể lý, tâm lý, trí tuệ, thiêng liêng, và đời đời. Nếu một người chọn sống theo sự thật của Chúa Giêsu, họ sẽ đạt được sự sống hoàn toàn đầy đủ về mọi phương diện.
(3) Ai thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha: Đây là nguồn để chứng minh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người Do-thái chỉ tin một Thiên Chúa, và đó là lý do ông Philíp nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." Chúa Giêsu trả lời rõ ràng cho Philip: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Giêsu là một. Chúa Giêsu giải thích thêm: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.”
(4) Việc lớn hơn nữa là việc nào? Chúa Giêsu bảo đảm cho các môn đệ: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” Để tìm ra câu trả lời, chúng ta phải xem coi những việc gì các môn đệ có thể làm mà Chúa Giêsu không làm hay chưa làm. Chỉ có một việc là các môn đệ của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng cho mọi người khắp cùng cõi đất. Điều này Chúa Giêsu đã không làm khi còn sống trên dương gian; nhưng Ngài để dành cho các môn đệ và sai các ông làm chuyện đó. Dĩ nhiên, các môn đệ có làm được hay không cũng cần có sự trợ giúp của Ngài, vì “không có Thầy anh em chẳng làm chi được.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có một địa vị quan trọng trước mặt Thiên Chúa hơn hết mọi loài Ngài dựng nên. Hãy sống đúng với phẩm giá quan trọng của mình để đạt mục đích Thiên Chúa đã tiền định.
- Để hiểu biết phẩm giá quan trọng, chúng ta cần học hỏi và suy niệm những gì Ngài đã mặc khải. Lười biếng không chịu học hỏi sẽ làm cho chúng ta ù lỳ, và bằng lòng cuộc sống của loài vật, và của những thú vui hạ cấp mà thế gian dâng tặng. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

14/05/17    CHÚA NHT TUN 5 PS – A
Ga 14,1-12

HÃY TIN VÀO CHÚA


Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1)

Suy niệm: Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su trấn an các môn đệ “đừng xao xuyến!” Thế nhưng chính Ngài lại xao xuyến, xao xuyến đến cực độ. Tin Mừng cho biết Ngài xao xuyến khi thông báo “một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Ga 13,21); lúc cầu nguyện trong Vườn Dầu, đối diện với con đường khổ nạn và cái chết trên thập giá, Ngài xao xuyến đến độ hãi hùng (Mc 14,33), thậm chí máu cùng với mồ hôi đổ ra (Lc 22,44). Chúa khuyên các môn đệ đừng xao xuyến vì Ngài đã gánh lấy những xao xuyến đó và cho các môn đệ bí quyết để “đừng xao xuyến!”; đó là: “Hãy tin vào Thiên Chúa, và tin vào Thầy!” Những vấn nạn của cuộc sống, nếu chỉ đi tìm lời giải đáp ở những sự đời này, người ta sẽ lâm vào chỗ bế tắc! Thế nhưng, “tin vào Chúa và tin vào Thầy,” không phải các chướng ngại được cất đi, nhưng chúng được biến đổi trở thành phương thế đạt tới ơn cứu độ đời đời.

Mời Bạn: Sống giữa cuộc đời đầy bất trắc, khó khăn này, ai mà không “xao xuyến”! Xao xuyến vì cơm áo gạo tiền, vì công danh sự nghiệp, vì bổn phận trách nhiệm, vì hiện tại và tương lai, vì… và vì… Chúa kêu mời chúng ta “hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Chúa Ki-tô đã sống lại và chúng ta cũng được sống lại với Đức Ki-tô, vì thế “hãy tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1).

Sống Lời Chúa: Hôm nay và từ nay, gia đình tôi quyết trung thành đọc và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, giữa bao thử thách của cuộc đời, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Amen.

(5 phút Lời Chúa)

XIN CHO CHÚNG CON THY CHÚA CHA (14.5.2017 – Chúa nht 5 Phc sinh, Năm A)
Khi đi vào Con Ðường Giêsu, chúng ta cũng tr nên no đường cho con người hôm nay, no đường dn đến Giêsu. 


Suy nim:
Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu:
“Xin cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14,8).
Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người,
những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa,
Ðấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau:
Ðấng Tối Cao, Ðấng Tuyệt Ðối, Ðấng vượt trên mọi danh...
Con người muốn bắc một nhịp cầu với Ðấng siêu việt,
muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người
khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.
Nơi Ðức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa,
dễ gần, dễ thấy, dễ quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng,
Thiên Chúa hiện diện nơi con người Ðức Giêsu khiêm hạ.
Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng
đến nỗi Ðức Giêsu dám nói:
“Ai biết Thầy là biết Cha” (14,7)
“Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9)
vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(14,10).
Lời nói và việc làm của Ðức Giêsu
chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10).
Toàn bộ cuộc đời Ðức Giêsu được Cha chiếm ngự.
Ngài như tấm gương trong suốt,
phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa,
đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.
Làm Kitô hữu là làm người như Ðức Giêsu Kitô,
là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay,
là ước ao nói được rằng:
“Ai biết tôi là biết Ðức Kitô,
ai thấy tôi là thấy Ðức Kitô.”
Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.
“Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”
Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.
Ðức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối;
Ngài tự nhận mình là Con Ðường,
thậm chí là Con Ðường độc nhất dẫn đến Cha:
“Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (14,6).
Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Ðường Giêsu.
“Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,
để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).
Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Ðức Giêsu,
kể cả những ai không biết Ngài - tuy không do lỗi của họ -
nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.
Ðức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh,
sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến.
Cuộc đời Ðức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.
Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng,
chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.
Khi đi vào Con Ðường Giêsu,
chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay,
nẻo đường dẫn đến Giêsu.
Cầu nguyn:

Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Ba

14 THÁNG NĂM

Gặp Gỡ Với Thiên Chúa Hằng Sống

Sứ mạng của Chúa Thánh Thần được liên kết với sứ mạng của Chúa Con. Một đàng, Thánh Thần sửa soạn cho toàn bộ sứ mạng cứu thế của Đức Kitô – và rút ra từ sứ mạng ấy một sự khởi đầu mới. Chúa Thánh Thần lại đến với chúng ta từ Thập Giá và Phục Sinh. Lời chứng của Ngài dẫn chúng ta vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời chứng ấy cũng giúp chúng ta hiểu về ơn cứu độ của mình. Giờ dây chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta biết rằng tình yêu của Thiên Chúa đã biến đổi con người và biến đổi thế giới: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc” (Ga 5, 17) – Đức Giêsu đã xác nhận với chúng ta như thế.

Công việc ấy của Chúa Cha – được hoàn chỉnh qua Chúa Con – là công việc được thực hiện trước mắt con người. Nó trở thành một phần trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Và những con người chứng kiến ấy – đặc biệt là các Tông Đồ – là những chứng nhân của Đức Kitô. Lời chứng của họ là lời chứng nhân loại, dựa trên những gì họ nghe thấy, xem thấy và tiếp xúc (1 Ga 1, 1); lời chứng ấy dựa trên sự gặp gỡ của họ với Thiên Chúa hằng sống.

Lời chứng nhân loại này xây dựng nên Giáo Hội ngay từ buổi khởi đầu – Giáo Hội hiểu như là cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô. Đó là cộng đoàn đức tin chiêm ngắm mầu nhiệm vốn giấu ẩn nơi Thiên Chúa qua bao đời trước (Ep 3, 9). Vì thế, lời chứng nhân loại này của các Tông Đồ ngay từ trong gốc rễ được liên kết với lời chứng do Đấng An Uûi – tức Thần Khí sự thật – làm chứng về Đức Kitô. Lời chứng ấy cắm rễ trong Thánh Thần. Chính bởi xuất phát từ Thánh Thần mà lời chứng ấy có được năng lực biến đổi. Và năng lực biến đổi này đem lại cho người ta đức tin vào Đức Kitô.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 14-5
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Cv 6, 1-7; 1Pr 2, 4-9; Ga 14, 1-12.

LỜI SUY NIỆM: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”
Con đường của Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa đi đến trong cung lòng Trinh Nữ Maria để làm người, sinh ra tại hang lừa máng cỏ ở Bêlem và chết trên Thánh Giá ở đồi Canvê. Con đường của Chúa Giêsu, là con đường thể hiện tình yêu thương cứu độ của Chúa Cha đối với nhân loại, và làm vinh danh Chúa Cha. Chúa Giêsu mời gọi Kitô hữu đi vào con đường sự thật và sự sống. – Vì yêu thương con người mỏng dòn, yếu đuối. Chúa Giêsu vạch cho chúng ta những con đường nhỏ dễ đi hơn: đó là: “Tám Mối Phúc”. Trên con đường này, cũng đầy thử thách và cam go, cần có sự cầu nguyện liên lỉ với Chúa Cha. Đồng thời, luôn có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trợ giúp sức mạnh và khôn ngoan.Để chúng ta qua Chúa Giêsu để gặp được Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa là con đường sự thật và là sự sống. Xin cho mọi thành viên  gia đình chúng con luôn chọn Chúa.
Mạnh Phương


14 Tháng Năm
Hương Vị Của Khói
Ðể đả phá tính ích kỷ, người Ả Rập thường kể câu chuyện như sau:
Tai một khu phố nọ, có không biết bao nhiêu cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa hàng này thu hút những người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng thức những của ngon vật lạ, còn những người nghèo thì chỉ mong ăn được chút cơm thừa canh cặn hay cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ các nhà bếp...
Một hôm, có một người nghèo mon men đến một cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh mì. Anh người nghèo này có ý nghĩ độc đáo: thay vì chầu chực hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh bèn leo lên mái nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh mì vừa hít thở làn khói bốc ra từ nhà bếp, anh nhai ngấu nghiến ổ bánh mì mà tưởng tượng như mình đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thượng khách.
Nhưng không may cho anh, vì hôm đó người chủ nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho nên không có được bộ mặt vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn lôi cổ người ăn xin xuống khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lý luận với người ăn xin như sau: "Khói bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà ngươi đã thưởng thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho ta".
Người ăn xin không chịu trả tiền. Nội vụ đã được đem ra trước tòa án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu vì vụ án này. Ông cho triệu tất các bực thức giả trong toàn tỉnh để giúp ông giải quyết vụ án. Những người này đưa ra hai ý kiến xem ra đều có lý cả: một bên nói rằng khói bốc ra từ cửa hàng, do đó nó là chủ hữu của ông chủ cửa hàng. Những người khác thì cho rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người ăn xin có quyền hưởng mà không phải trả đồng xu nào.
Sau khi đã bàn bạc và cân nhắc, quan đầu tỉnh mới đưa ra phán quyết như sau: "Người nghèo đã hưởng khói mà không đụng đến thức ăn, cho nên anh ta hãy lấy một đồng bạc, ra giữa công viên, gõ đồng bạc vào ghế đá, âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa hàng muốn đòi tiền của khói, ông hãy lắng nghe âm thanh ấy".
Người kể câu chuyện ngụ ngôn trên đây có lẽ muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho chúng ta một lợi lộc nào.
Nhưng sự ích kỷ không bao giờ mang tính chất trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ biết nghĩ đến mình, không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính tôi cũng chết đi một phần trong tôi. Tình liên đới không phải là một thứ xa xỉ phẩm được thêm vào tương quan giữa người với người hoặc như một thứ tô điểm phụ thuộc cho nhân cách của tôi, mà là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm ngưòi. Tôi càng nên người hơn khi tôi sống cho tha nhân. Tôi càng trở nên phong phú hơn khi tôi trao ban...
Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta ơn gọi đích thực của con người: đó là sống trọn vẹn cho tha nhân. "Này là Người, này là con người với đầy đủ tính người". Ðó phải là ý nghĩa của lời tuyên bố của Philato khi ông cho trình diện trước đám đông một Chúa Giêsu với tấm thân không còn hình tượng của con người nữa và nói: "Này là người...". Con người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi con người tiêu hao hoàn toàn vì người khác, khi con người sống hoàn toàn cho người khác...
Ðó là định luật của Tình Yêu mà Chúa Giê su đã mạc khải cho chúng ta: Ai đi tìm mạng sống mình, người đó sẽ mất. Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét