16/10/2025
Thứ Năm tuần 28 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 3, 21-30a
“Con
người nhờ đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo lề
luật”.
Trích thư
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em
thân mến, hiện giờ sự công chính của Thiên Chúa đã tỏ hiện không tuỳ vào lề luật,
nhưng có lề luật và các tiên tri làm chứng. Sự công chính của Thiên Chúa nhờ
tin vào Ðức Giêsu Kitô sẽ ban cho mọi kẻ tin vào Người, không có gì phân biệt:
vì mọi người đều phạm tội và đã thiếu mất vinh quang của Thiên Chúa, họ được
công chính hoá cách nhưng không, do ơn nghĩa của Người và nhờ sự cứu chuộc nơi
Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Thiên Chúa đã đặt làm của lễ đền tội, nhờ tin vào máu của
Người, để tỏ cho thấy đức công chính của Người, bởi Người tha thứ những tội đã
phạm khi trước, trong thời kỳ nhịn nhục của Thiên Chúa, ngõ hầu tỏ ra đức công
chính của Người trong lúc này, để tỏ ra chính Người là Ðấng công chính và công
chính hoá người tin vào Ðức Giêsu Kitô.
Vậy đâu là
việc tự hào của ngươi? Nó đã bị loại đi rồi. Bởi lề luật nào? Có phải lề luật
chỉ việc làm không? Không phải, song là bởi lề luật đức tin. Quả thế, chúng tôi
thâm tín rằng: con người nhờ đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi
việc làm theo lề luật. Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái
thôi sao? Người không phải là Thiên Chúa các dân ngoại nữa sao? Ắt hẳn Người là
Thiên Chúa các dân ngoại nữa: vì chỉ có một Thiên Chúa.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 129, 1-2.
3-4ab. 4c-5
Ðáp: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và
Chúa rất giầu ơn cứu độ
Xướng: Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên
Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu
tiếng van nài của con.
Xướng: Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy
Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho
thiên hạ tôn thờ kính yêu.
Xướng: Con hy vọng rất nhiều vào Chúa,
linh hồn con trông cậy ở lời Ngài. Linh hồn con mong đợi Chúa, hơn người lính
gác mong trời rạng đông. Hơn lính gác mong hừng đông dậy, Israel đang mong đợi
Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia,
alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến
được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 47-54
“Sẽ bị
đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của
Giacaria”.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa phán: “Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà
tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những
hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các
ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ
sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì
chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ
máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của
Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện.
Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu. Khốn cho các ngươi! Hỡi
những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các
ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại”.
Khi người
phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán
ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người
để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.
Ðó là lời
Chúa.
Chú giải về Thư Rô-ma 3,21-29
Trong đoạn
văn tuyệt vời này, chúng ta đi sâu vào trọng tâm bức thư của Phao-lô. Ở đây,
cũng như trong thư gửi tín hữu Ga-lát, Phao-lô thảo luận về cách một người được
trở nên “công chính” hay “được xưng công chính” trước mắt Đức Chúa Trời: ông giải
thích rằng sự cứu rỗi chỉ đến qua đức tin nơi Đấng Ki-tô.
Để hiểu những
gì Phao-lô nói, chúng ta cần nhớ lại bối cảnh mà ông nói. Trong một số cộng đồng
Ki-tô, có những Ki-tô
hữu Do Thái đang vận động
cho sự trở lại của Luật pháp Môi-se như là nền tảng cho một đời sống trong và với
Đức Chúa Trời. Họ thúc giục mọi Ki-tô hữu,
kể cả người ngoại, phải chịu phép cắt bì. Phao-lô, bản thân là một người Do
Thái đã chịu phép cắt bì và trước đây là một người Pha-ri-sêu, hoàn toàn phản đối
phong trào này, vì nó làm tổn hại đến tuyên bố của ông rằng sự cứu rỗi chỉ đến
qua Đấng Ki-tô.
Ông bắt đầu
bằng cách thừa nhận rằng “sự công chính của Đức Chúa Trời” trước đây đã được
bày tỏ qua Luật pháp và các Tiên tri, nói cách khác, qua toàn bộ truyền thống
Do Thái của Cựu Ước. “Sự công chính” hay “công lý” ám chỉ lòng nhân từ vốn có
và tình yêu thương vô hạn của Đức Chúa Trời dành cho mỗi con người. Theo hiểu
biết của Cựu Ước, chúng ta “công chính” (công chính) khi chúng ta hoàn toàn hòa
hợp với công lý của Đức Chúa Trời như được mặc khải trong Luật pháp. Nhưng giờ
đây, ông nói, với sự giáng sinh của Chúa Giê-su Ki-tô, “sự công chính” của Đức Chúa Trời
sẽ được nhìn nhận dưới một ánh sáng hoàn toàn mới và không còn phụ thuộc vào Luật
pháp nữa. Giờ đây, “sự công chính” được ban cho tất cả những ai tin vào Chúa
Giê-su Ki-tô
là Chúa và là Cứu Chúa được Đức Chúa Cha sai đến qua đức tin.
Trước đây,
người Do Thái tự coi mình ở một đẳng cấp khác trước mặt Đức Chúa Trời vì tuân
thủ Luật pháp, nhưng bây giờ:
…không có sự phân biệt nào cả, vì mọi
người đều đã phạm tội và thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
“Vinh
quang” có nhiều nghĩa, nhưng về cơ bản nó ám chỉ tầm quan trọng của Đức Chúa Trời.
Vì vậy, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời có nghĩa là chúng ta không nhận
thức đầy đủ tầm quan trọng của Đức Chúa Trời. Mặc dù Thiên Chúa hiện diện với
con người và ngày càng thông truyền chính Ngài cho họ, nhưng quá trình này chỉ
có thể đạt đến đỉnh điểm khi tầm quan trọng của Thiên Chúa được bày tỏ trọn vẹn
nơi Chúa Giê-su. Ngài tuyên bố tầm quan trọng của Cha Ngài trong mọi việc Ngài
làm và chịu đau khổ, và do đó, Ngài trao cho Cha sự vinh quang trọn vẹn:
… Ta luôn làm điều đẹp lòng Ngài. (Gioan 8,29)
Sau đó là
câu then chốt của Phao-lô:
… tất cả [người Do Thái và người ngoại] tin… nay được xưng công chính bởi ân điển của
Ngài như một món quà, qua sự cứu chuộc trong Chúa Giê-su Ki-tô…
Bao nhiêu
máu thần học đã đổ ra chỉ vì một câu này! Vì mục đích của chúng ta, chúng ta sẽ
cố gắng diễn đạt đơn giản. Các từ khóa là ‘được xưng công chính’, ‘ân điển’ và
‘sự cứu chuộc’.
Đối với
‘được xưng công chính’, các bản dịch khác sử dụng ‘được làm cho công chính’.
Trong cả hai trường hợp, chúng ta đang nói về việc được đặt vào trạng thái hòa
hợp hoàn toàn với Thiên Chúa, trái ngược với sự xa cách đến từ tội lỗi.
Và điều
này xảy ra “bởi ân điển của Ngài như một món quà”. Từ Hy Lạp được dịch là “ân
điển” là charis. Từ này có nghĩa là một
điều gì đó được ban cho cách nhưng không, không do công trạng hay do sự kiếm
tìm, và đây là ý nghĩa chủ đạo trong Tân Ước. Phao-lô dùng từ này để mô tả cách
Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng ta qua Chúa Giê-su—đó là một hành động của tình yêu
tự phát mà không ai trong chúng ta có thể đòi hỏi. Điều thú vị là Gioan cũng
dùng từ agape theo cùng một nghĩa. Agape là tình yêu tuôn đổ từ Đức Chúa Trời
trên toàn thể tạo vật của Ngài, và đó là tình yêu mà chúng ta được kêu gọi để
truyền đạt cho người khác:
Tình yêu ở trong điều này: không phải
chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta và sai Con Ngài đến
làm của lễ chuộc tội cho chúng ta. (1 Gioan 4,10)
Điều này
hoàn toàn giống với những gì Phao-lô đang nói với người Rô-ma.
Vậy thì,
đó là một hành động của ‘ân điển’—một hành động của tình yêu xuất phát hoàn
toàn và duy nhất từ Thiên Chúa—khi Chúa Giê-su đến thế gian, chịu đau khổ và
chết, để Cha Ngài ban Ngài làm quà tặng cho chúng ta:
… như một hy lễ chuộc tội…
Điều kiện
duy nhất từ phía chúng ta là phó thác cho Ngài với đức tin và sự tin tưởng trọn
vẹn. Vậy thì, sự cứu rỗi là một món quà trọn vẹn: không điều tốt lành nào chúng
ta có thể làm độc lập với Thiên Chúa—ngay cả việc chúng ta siêng năng thực hiện
các công việc của Luật pháp—có thể ‘kiếm được’ nó. Thiên Chúa không bao giờ,
không bao giờ mắc nợ chúng ta. Chúng ta thấy điều này trong cảnh hai người cầu
nguyện trong Đền thờ. Người thu thuế cúi mình khiêm nhường ở phía sau, cầu xin
Thiên Chúa tha thứ cho vô số tội lỗi của mình; người Pha-ri-sêu đứng trước mặt,
nói với Thiên Chúa rằng ông đã giữ Luật pháp tốt biết bao, với ngụ ý rằng Thiên
Chúa có nghĩa vụ phải ban thưởng cho ông tương xứng. Và chính người thu thuế mới
ra về được “xưng công chính” (xem Lu-ca 18,9-14).
Vậy nên,
Phao-lô nói:
…nhờ sự cứu chuộc trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Đấng Đức Chúa Trời
đã lập làm của lễ chuộc tội bằng huyết Ngài, hữu hiệu bởi đức tin. Ngài đã làm
điều này để bày tỏ sự công chính của Ngài… [tức là sự hiệp nhất trọn vẹn của Ngài với Đức Chúa
Cha].
Vào Ngày Lễ
Chuộc Tội (Yom Kippur), ‘ngai thương
xót’ được rảy huyết của một con dê tế lễ. Nhưng giờ đây, huyết của Đấng Ki-tô đã làm điều mà nghi lễ cổ xưa chỉ
có thể tượng trưng—làm sạch chúng ta khỏi tội lỗi.
Chúng ta
được biết rằng Đức Chúa Trời:
trong lòng nhẫn nại của Ngài đã bỏ
qua những tội lỗi đã phạm trước đó…
Điều này
ngụ ý rằng sự tha thứ và hòa giải hoàn toàn sẽ theo sau, và sự hủy diệt hoàn
toàn tội lỗi của con người đã được thực hiện qua sự chết cứu rỗi của Đấng Ki-tô.
Và điều
tương tự cũng áp dụng “trong thời hiện tại” để cho thấy Đức Chúa Trời là công
chính và làm cho mọi người có đức tin nơi Chúa Giê-su là Chúa và Cứu Chúa trở nên công
chính.
Sau đó,
Phao-lô nói:
…khoe khoang thì sao? Nó bị loại trừ.
Rõ ràng
ông đang nói đến những người Do Thái trong cộng đồng, những người đang quay trở
lại với việc tuân giữ Luật pháp một cách nghiêm ngặt như con đường đến với
Thiên Chúa. Từ ngữ mà Phao-lô sử dụng ở đây thể hiện thái độ của một người tự
hào về những thành tựu của mình, dựa vào chúng, và tuyên bố hoàn thành vận mệnh
siêu nhiên của mình bằng sức mạnh riêng. Thái độ này bị loại trừ, vì người ta
không nhận được sự tha bổng của Thiên Chúa bằng sức mạnh vượt trội—mà nhận được
nó như một món quà. Hành động của đức tin loại trừ sự tự mãn, bởi vì trong đó,
con người chứng thực rõ ràng sự bất lực triệt để của mình.
Nhưng ông
nói:
Qua loại luật nào? Luật của việc
làm [tức là hành động]?
Không, đúng hơn là qua luật đức tin.
Đức tin
nơi Chúa Kitô mới là điều quan trọng, chứ không phải việc tuân thủ một bộ luật
do con người đặt ra. Và ông lặp lại những gì ông đã nói:
Vì chúng tôi cho rằng một người được
xưng công chính bởi đức tin, không phải bởi việc làm [hành vi hoặc hành động] theo luật pháp.
Và ‘người’
đó là bất kỳ người nào:
Hay Đức Chúa Trời chỉ là Đức Chúa
Trời của người Do Thái thôi sao? Ngài chẳng phải cũng là Đức Chúa Trời của dân
ngoại sao? Vâng, cả dân ngoại nữa…
Có những
người tin rằng chỉ có người Do Thái mới là Dân được Chúa chọn và việc cứu rỗi
cho dân ngoại là điều không thể (hãy nhớ lại câu chuyện về Giô-na mà chúng ta vừa
nghe).
Tóm lại,
chính “luật” đức tin, tức là sự dâng hiến và phó thác hoàn toàn bản thân cho
Thiên Chúa trong Chúa Kitô, mới cứu rỗi, chứ không phải “luật” việc làm. Sự cứu
rỗi không dựa trên những hành động tự khởi xướng, mà dựa trên việc bước vào mối
quan hệ mật thiết với một Thiên Chúa, Đấng đã vươn tay ra với tôi trong tình
yêu (agape) và mời gọi tôi chia sẻ sự
sống của Người. Việc vươn tay ra trong tình yêu tự phát này được gọi là “ân sủng”.
Những việc lành của tôi không phải là khoản đặt cọc để tôi “mua” sự cứu rỗi;
đúng hơn, chúng là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa đang hoạt động trong và qua
tôi.
Qua nhiều
thế kỷ, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và
chúng ta:
• Một là
quan niệm cho rằng chúng ta “lên thiên đàng” chỉ bằng những việc lành chúng ta
làm, bằng cách “giữ các Điều Răn”. Theo quan điểm này, Thiên Chúa nợ chúng ta sự
cứu rỗi, như người chủ nợ tiền lương của người lao động. Trên thực tế, điều này
bỏ qua trọng tâm của ân sủng tràn đầy của Thiên Chúa, và được gọi là chủ nghĩa
Pelagian. Hầu hết chúng ta đều có một chút dấu hiệu của điều này!
• Một số
người khác lại cho rằng việc lành chẳng liên quan gì—tất cả những gì người ta cần
để được cứu rỗi là “kêu cầu danh Chúa Giê-su”. Nhưng một quan điểm cân bằng được
tóm tắt trong Thư của Gia-cô-bê (2,14-26): “Đức tin không có việc lành là đức
tin chết”. Chúa không yêu tôi vì tôi tốt; tôi tốt vì Chúa tạo nên tôi tốt từ tạo
vật của tôi, và vì vậy tôi phải là người mang điều tốt lành đến cho người
khác—đây là để xây dựng Vương quốc của Chúa. Bằng sự gần gũi trong đức tin với
Chúa Giê-su, tôi cố gắng sống theo phúc âm của tình yêu. Tôi sống trong ánh
sáng của sự tha thứ liên tục của Chúa.
• Nhưng lý
tưởng “Được xưng công chính chỉ bởi đức tin” có xu hướng không nhìn thấy điều tốt
lành nào trong hành vi của chúng ta. Theo quan điểm này, chúng ta là những kẻ tội
lỗi không thể cứu vãn và chỉ có huyết của Chúa Kitô “che phủ tội lỗi chúng ta”
mới có thể đến được với Chúa. Về bản chất, đây chính là giải pháp của Luther
cho chính lương tâm rất mực cẩn trọng của ông: bị choáng ngợp và dày vò bởi tội
lỗi, ông cảm thấy rằng Chúa không bao giờ có thể tha thứ cho tội lỗi của mình,
nhưng hy vọng rằng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, sẽ nhắm mắt làm ngơ. Ông nói rằng
chúng ta được cứu rỗi bất chấp tội lỗi vẫn còn trong chúng ta, trong khi quan
điểm của Công giáo lại cho rằng chúng ta đã được tạo dựng trong ân sủng, và hiệu
quả lâu dài của nó là mang lại sự biến đổi nội tâm cho chúng ta.
• Quan điểm
của Luther về “nội tâm” đã dẫn đến một đời sống Kitô hữu ít dung túng cho cái mà
chúng ta gọi là đời sống “nội tâm”. Tin Lành cổ điển ít nói đến tâm linh; nó loại
bỏ cái mà chúng ta gọi là “đời sống tu trì” của các tu sĩ nam nữ. Nó không bao
gồm các trường học cầu nguyện và chiêm nghiệm, hay việc tĩnh tâm. Nó không công
nhận các vị thánh. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những điều này, cuộc sống của nhiều
người Tin Lành vẫn thấm nhuần sâu sắc Thánh Linh của Chúa Kitô, và họ thường
khiến nhiều người Công giáo chúng ta phải xấu hổ vì tình yêu thương và sự quan
tâm mà họ dành cho người nghèo và người túng thiếu.
• Một số hình thức Tin Lành cực đoan tập trung
vào “sự cứu rỗi cá nhân” và dường như thiếu quan tâm đến việc đưa Vương quốc
Thiên Chúa đến trần gian thông qua cuộc đấu tranh cho công lý, tự do và hòa
bình. Trọng tâm dường như nghiêng về sự cứu rỗi cá nhân. Đối với họ, nhiệm vụ
duy nhất là kêu cầu Chúa Kitô trong đức tin. Với lối suy nghĩ này, cũng sẽ có sự
loại trừ những gì Karl Rahner gọi là “Ki-tô hữu vô danh” hay “con người của Vương
quốc”, tức là những người, mặc dù không nhận thức được sứ điệp Kitô giáo, nhưng
vẫn sống một cuộc sống phản ánh những thái độ sâu sắc nhất về chân lý, tình yêu
thương, công lý, chia sẻ cộng đồng, tôn trọng phẩm giá và bình đẳng của mỗi cá
nhân. Nhưng đây chính là những giá trị mà Chúa Giêsu đã sống và chết vì chúng.
• Thật
đáng mừng khi biết rằng trong thời gian gần đây, người Công giáo và người
Luther (cũng như các nhóm Tin Lành khác) đã cùng nhau đối thoại và, thoát khỏi
những tranh cãi của thời kỳ trước, đã học được rằng thực sự không còn nhiều bất
đồng như trước đây về việc hiểu những lời của Thánh Phaolô. Nhiều giáo hội cũng
đã lấy lại những nét đặc trưng của Giáo hội La Mã, những nét mà sự vắng mặt của
chúng đã gây mất mát cho đời sống Kitô hữu của họ. Về phần chúng ta, những người
Công giáo đang có được một khái niệm phong phú hơn về đức tin, mà trước đây thường
được đồng nhất với sự chấp nhận về mặt trí tuệ đối với các giáo lý của Giáo hội
và sự ám ảnh với tính chính thống như một tiêu chuẩn của một người Công giáo “tốt”.
Chúng ta đang ngày càng nhận thức rõ hơn rằng đức tin, như sự tin tưởng và phó
thác vào một Chúa Kitô yêu thương, là điều quan trọng hàng đầu. Từ tiếng Latin credo nghĩa đen là “Tôi dâng trọn trái
tim mình cho”. Khi đọc Kinh Tin Kính, chúng ta “dâng trọn trái tim mình cho
Chúa”.
Chú giải về Luca 11,47-54
Chúa Giêsu
còn đưa ra nhiều lời mạnh mẽ hơn để chống lại lối suy nghĩ của người Pharisêu.
Hôm nay, lời buộc tội là về sự giả hình:
Khốn cho các ngươi! Vì các ngươi
xây mộ cho các tiên tri mà tổ tiên các ngươi đã giết.
Dân chúng
xây mộ để tưởng nhớ các tiên tri thời xưa, nhưng chính các tiên tri đó đã bị tổ
tiên mình giết. Một mặt, họ xây mộ như một hành động chuộc tội, trong khi chính
họ lại có thái độ giống hệt tổ tiên mình. Họ không nghe theo lời dạy của chính
mình.
Chúa Giêsu
thốt ra những lời mà Ngài gọi là “sự khôn ngoan của Thiên Chúa”:
Ta sẽ sai các tiên tri và tông đồ đến
cùng chúng, nhưng một số người trong số họ sẽ bị giết và bách hại…
Đây không
phải là một trích dẫn từ Cựu Ước hay bất kỳ sách nào khác mà chúng ta biết. Nó
có thể ám chỉ việc Thiên Chúa phán qua Chúa Giêsu (Ngôi Lời, sự khôn ngoan của
Thiên Chúa) hoặc trình bày, dưới dạng trích dẫn, quyết định của Thiên Chúa sai
các tiên tri và tông đồ đến, mặc dù họ sẽ bị từ chối.
Về cơ bản,
Chúa Giê-su muốn nói rằng sứ mệnh của Hội Thánh (các Tông Đồ của Người) gắn liền
với sứ mệnh của các tiên tri Cựu Ước, những người, giống như các môn đệ của
Chúa Giê-su, đã chịu đau khổ và trong một số trường hợp, đã chết dưới tay những
người đương thời. Dĩ nhiên, chính Chúa Giê-su sẽ là một trong số họ, Đấng Tiên
Tri cuối cùng và vĩ đại nhất.
Chúa
Giê-su nói rằng các học giả Luật pháp mang trong mình tội lỗi vì đã giết hại mọi
người tốt và mọi tiên tri, kể từ vụ giết A-bên cho đến vụ giết Da-ca-ri-a. Vụ giết A-bên bởi anh trai Ca-in
được ghi lại trong Sáng Thế Ký (4,8), sách mở đầu Cựu Ước, và vụ giết Da-ca-ri-a, con trai của Giơ-hô-gia-đa trong
2 Sử Ký (24,20-22). Sách sau này được người Do Thái coi là phần kết thúc của Cựu
Ước tiếng Híp-ri.
Việc này giống như chúng ta mô tả toàn bộ Kinh Thánh theo kiểu 'từ Sáng Thế Ký
đến Khải Huyền'. Chúa Giê-su đang ám chỉ đến lịch sử tử đạo xuyên suốt Cựu Ước.
Có một cuộc
tấn công cuối cùng nhắm vào các kinh sư và cách suy nghĩ cũng như hành động của
họ. Họ giải thích Luật theo cách khiến người thường không thể hiểu được. Và tệ
hơn nữa, chính họ cũng không tuân giữ:
Vì các ngươi đã cất đi chìa khóa của
sự hiểu biết; chính các ngươi đã không vào, mà lại ngăn cản những người muốn
vào.
Họ đã khiến
cả chính mình lẫn dân chúng không biết con đường đích thực dẫn đến sự cứu rỗi
và sự trọn vẹn. Như Phúc Âm Mát-thêu
đã chép:
Nhưng khốn cho các ngươi, hỡi các
kinh sư và người Pharisêu, là những kẻ đạo đức giả! Vì các ngươi đã ngăn cản
người ta vào Nước Trời.
(Mát-thêu 23,13)
Người ta tự
hỏi có bao nhiêu nhà lãnh đạo, giáo viên và các ‘chuyên gia’ thần học và đạo đức
của Giáo hội chúng ta đã không làm chính xác điều tương tự trong những năm qua
và cho đến tận ngày nay? Có bao nhiêu phụ huynh và giáo viên Công giáo đã khiến
thông điệp Kitô giáo về cơ bản trở nên xa lạ với giới trẻ, và rồi chúng ta tự hỏi
tại sao họ lại không quan tâm đến tôn giáo?
Không có
gì ngạc nhiên, tất cả những cuộc tấn công này chỉ làm gia tăng sự thù địch của
người Pharisêu và các nhà lãnh đạo tôn giáo đối với Chúa Giêsu. Họ đã có thể
thuyết phục ngài nói về vô số vấn đề tôn giáo với hy vọng rằng ngài sẽ tự thuyết
phục mình. Về phần họ, họ đã thành công hơn cả mong đợi.
Điều họ
không nhận ra là Chúa Giê-su đang hành động theo một tầm nhìn hoàn toàn khác về
bản chất của cuộc sống. Rượu mới của Ngài không thể vừa với bầu da cũ của họ.
Câu hỏi mà mỗi người cần tự hỏi là: Tôi có cùng tầm nhìn với Chúa Giê-su không?
"Kitô giáo" có ý nghĩa gì với tôi?
https://livingspace.sacredspace.ie/o1285g/
Suy niệm: Dòng Máu Cứu Ðộ
Với lý
thuyết: "Người chết không nói", các đối thủ của những người thường
dùng bạo lực để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò tiên tri để nói lên sự
thật chống lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ. Từ
máu Abel, người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm hồng với máu các tiên tri
thuộc mọi màu da, tiếng nói: một Martin Luther King, mục sư chủ trương bất bạo
động để tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở xã hội Mỹ và bị bắn ngã
ngày 4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự yêu mến người nghèo đã
bị ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào chiều ngày 23/4/1980.
Trong Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào làm chứng cho sự thật nơi
các tiên tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu. Ðoạn Tin Mừng còn cho thấy
lòng oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với Chúa Giêsu ngày càng gia
tăng, và chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến cái chết đẫm máu trên Thập
Giá, để Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên tri. Những dòng máu chảy từ
thân xác Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại còn giải nợ máu, bởi vì những
dòng máu chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với Chúa Cha, đã phá tan vòng luẩn
quẩn của hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu xin Cha tha thứ cho những kẻ
hành khổ và xử tử Ngài.
Cái chết
vì tình yêu và vì vâng phục của Chúa Giêsu cũng đã phá tan lý thuyết "người
chết không nói", bởi lẽ từ dạo ngài gục đầu tắt thở trên Thập Giá, cái chết
của Ngài đã nói và vẫn tiếp tục nói trải qua gần 2,000 năm nay, nói với những
người tin lẫn người không tin vào Ngài về độ sâu của tình yêu Thiên Chúa đối với
nhân loại và về độ dầy của tình yêu Ngài đối với mọi người. Qua đó, cái chết của
Chúa Giêsu đã trở thành nguồn sống và trao ban cho cái chết của những người can
đảm đóng vai trò tiên tri một ý nghĩa, một sức mạnh, để cái chết của họ cũng tiếp
tục nói và gây ảnh hưởng cũng như thu lượm kết quả mỹ mãn hơn lúc họ còn sống.
Cái chết của Mục sư Martin Luther King đã đẩy mạnh và đóng góp phần không nhỏ
vào phong trào chống phân biệt, kỳ thị cho những người da mầu tại xã hội Mỹ và
nhiều nơi khác trên thế giới. Cái gục đầu tắt thở trên bàn thờ đang lúc dâng
Thánh Lễ của Ðức Cha Oscar Roméro đã gây niềm hy vọng và sức mạnh khôn lường
cho bao nhiêu người dấn thân tranh đấu cho công bằng xã hội tại các quốc gia Mỹ
Châu La Tinh.
Nợ máu vẫn
đòi phải trả bằng máu. Nhưng từ dạo máu Chúa Giêsu chảy trên đồi Calvê và vẫn
tiếp tục chảy trên bàn thờ mỗi ngày khắp nơi trên thế giới, những dòng máu hy
sinh cho chính nghĩa, những dòng máu chảy ra vì tình yêu, đã trở thành khí giới
sắc bén phá tan hận thù, bất công, để góp phần xây dựng một thế giới thấm nhuộm
tình người, dẫn đến một nhân loại biết liên đới chia sẻ, yêu thương.
(‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét