26/10/2025
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN năm C.
Bài Ðọc I: Hc
35, 15b-17. 20-22a
“Lời cầu
nguyện của người khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”.
Trích sách
Huấn Ca.
Chúa là
quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch
với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh
rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời
than van.
Nỗi hồn đắng
cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ
khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời
nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Ðấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa
sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán
quyết.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3.
17-18. 19 và 28
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa
đã nghe (c. 7a).
Xướng: Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi
lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh
diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Thiên Chúa ra mặt chống người làm
ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời
họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo.
Xướng: Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn
trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Thiên Chúa cứu chữa linh
hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không
phải đền bồi tội lỗi.
Bài Ðọc II: 2 Tm
4, 6-8. 16-18
“Từ đây
triều thiên công chính đã dành cho cha”.
Trích thư
thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến,
phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong
trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây
triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét
chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà
thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện.
Lần đầu
tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người
đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh
cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được
nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ
và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh
quang muôn đời! Amen.
Ðó là lời
Chúa.
Alleluia: Ga 14,
5
Alleluia,
alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến
được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18,
9-14
“Người
thu thuế ra về được khỏi tội”.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính
và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt
phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: ‘Lạy
Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại
tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần
mười tất cả các hoa lợi của tôi’. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt
lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’.
Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất
cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng
lên”.
Ðó là lời
Chúa.
Chú giải sách Huấn Ca 35,12-14.16-19; 2 Timôthê 4,6-8.16-18; Luca
18,9-14
Một trong
những bài học của các bài đọc hôm nay là Thiên Chúa đặc biệt lắng nghe tội nhân
và người nghèo. Thái độ của Chúa Giêsu được diễn tả rõ nét trong Bài đọc thứ nhất,
trích từ sách Huấn Ca (Hc):
[Thiên
Chúa] sẽ không thiên vị người nghèo,
nhưng Người sẽ lắng nghe lời cầu
nguyện của người bị áp bức.
Người sẽ không bỏ qua lời cầu xin của
trẻ mồ côi
hay của người góa bụa khi bà than
thở.
Tác giả tiếp
tục (trong một đoạn không có trong bài đọc của chúng ta):
Lời cầu nguyện của người khiêm nhường
thấu đến mây trời…. Quả thật, Chúa sẽ không trì hoãn… (Hc 35,21-22)
Có lẽ
chúng ta thấy điều đó khá kỳ lạ. Chẳng phải Người nên lắng nghe nhiều hơn những
người ‘tốt lành’ đang cố gắng tuân giữ luật pháp của Người sao? Đó chắc chắn là
thái độ của người Pharisêu trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi ai đó xúc phạm đến
chúng ta, chúng ta cảm thấy thế nào? Thường thì chúng ta sẽ cảm thấy tức giận
và tổn thương. Liệu chúng ta có muốn trả thù, trừng phạt người đó không? Ít nhất,
chúng ta muốn chắc chắn rằng người đó sẽ không bao giờ cư xử với chúng ta theo
cách đó nữa.
Vì vậy,
không có gì ngạc nhiên khi nhiều người cảm thấy, sau khi làm điều gì đó sai
trái, Chúa đã bị “phạm tội”. Phản ứng của Ngài nên giống như chúng ta, và với
lý do chính đáng hơn - Ngài là Chủ. Sau khi làm điều gì đó mà chúng ta biết là
hoàn toàn sai trái, chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa có thể tiếp tục yêu
thương chúng ta. Tuy nhiên, nếu đó là cách chúng ta nghĩ, thì chúng ta đã hoàn
toàn sai lầm.
Nhưng làm
sao có thể nói rằng Chúa yêu thương một tội nhân? Chính vì là một tội nhân mà
con người cần tình yêu của Chúa nhất, cần sự giúp đỡ của Ngài nhất. Khác với
chúng ta, Chúa không xem tội lỗi là một “sự xúc phạm” đến chính Ngài. Thay vào
đó, Ngài xem tội nhân là một người đã phạm phải lỗi lầm nghiêm trọng và cần được
chữa lành và phục hồi. Chính tội nhân mới là người bị tổn thương, chứ không phải
Chúa. Đây chính là ý nghĩa của dụ ngôn Người Chăn Chiên Nhân Lành và Người Con
Hoang Đàng.
Cảnh tượng kỳ lạ
Vậy là
trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có một cảnh tượng kỳ lạ giữa một người
Pharisêu và một người thu thuế. Người Pharisêu – và rõ ràng ông ta tin rằng
mình có bằng chứng để chứng minh điều đó – là một người “tốt”. Ông ta cẩn thận
tuân giữ Luật Do Thái và các Điều Răn của Thiên Chúa. Ông ta trung thành tuân
giữ các nghĩa vụ của một người Do Thái tốt: cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Vậy
mà Thiên Chúa lại không hài lòng với ông ta. Tại sao? Bởi vì ông ta là một người
hoàn toàn ích kỷ. Ông ta nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không giống những
người khác… như người thu thuế kia.”
Điều ông
ta thực sự muốn nói là: “Lạy Chúa, Chúa nên hết lòng biết ơn vì Chúa có một người
như con (và không có nhiều người trong chúng con!), một người rất trung thành
tuân giữ các điều răn của Chúa”.
Khi ông ta
cầu nguyện, ăn chay hay bố thí, không phải vì ông ta yêu Chúa (hay người nghèo)
và muốn phụng sự Chúa. Mà là vì ông ta yêu chính mình; Ông ta là trung tâm của
toàn bộ sự tồn tại của mình. Ngay cả Chúa cũng bị gạt ra ngoài lề. Chúa hẳn rất
vui mừng khi có một tấm gương hiếm hoi như ông ta. Nhất là khi rất nhiều người
giống như người thu thuế.
Chúa
Giê-su chỉ trích người Pha-ri-sêu vì không nhận thức được rằng tất cả những điều
tốt đẹp mà ông ta tự nhận mình làm đều bắt nguồn từ Chúa. Nếu không có Chúa,
ông ta chẳng làm được gì, ông ta sẽ chẳng là gì cả.
Nhận được sự "trừng phạt"
của mình
Chúng ta
có thể dễ dàng đồng tình với quan điểm rằng kẻ hợm mình sẽ nhận được sự
"trừng phạt" và người khiêm tốn được khen ngợi. Điều đó được coi trọng
trong xã hội của chúng ta, và ít nhất là trên lý thuyết, được chấp nhận rộng
rãi. Tuy nhiên, nếu chúng ta thành thật hơn, chúng ta có thể nhận ra rằng có rất
nhiều nét của người Pha-ri-sêu trong chính mình.
Chúng ta
hãy thử nghiệm và cập nhật lời cầu nguyện theo lời cầu nguyện của một người
Công giáo “tốt”. Có thể đại loại như thế này:
“Cảm tạ
Chúa vì con là người Công giáo, không giống như những người Tin Lành và ngoại
giáo duy vật bị lừa dối. Con trung thành đi lễ mỗi Chúa Nhật, thường xuyên rước
lễ và thỉnh thoảng đi xưng tội. Con rộng rãi đóng góp cho nhà thờ, các con con
đều được rửa tội và học ở những trường Công giáo tốt. Con chung thủy với vợ (à,
có lẽ cũng có vài lỗi lầm nhỏ) và, cảm tạ Chúa, con thành công trong công việc.
Mọi việc không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng con cố gắng giữ mình đúng luật.
Con muốn thấy tất cả các con con đều tốt như con, thậm chí còn tốt hơn. Mỗi năm
con đều đi tĩnh tâm một lần. Dĩ nhiên, con không tự nhận mình là thánh, nhưng
con là một người Công giáo trung bình, thậm chí trên trung bình, đi nhà thờ đều
đặn, hơn hẳn những người được gọi là Công giáo và không Công giáo mà con biết.
Cảm tạ Chúa vì con không trở nên giống bất kỳ ai trong số họ.”
Chúng ta
có thể so sánh thái độ này với những gì có vẻ như là sự khoe khoang về phần của
Phaolô—một người Pharisêu khác—trong Bài đọc II hôm nay. Phaolô nói, với vẻ hài
lòng rõ ràng:
Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến
chính nghĩa, tôi đã chạy hết chặng đường, tôi đã giữ vững đức tin.
Tuy nhiên,
thái độ của ông rất khác với thái độ của người Pharisêu hay người Công giáo “tốt”.
Thứ nhất, tất cả những gì ông đạt được đều được ông quy cho Chúa của mình, và
thứ hai, toàn bộ cuộc đời ông đã sống như một “lễ tế”, tất cả năng lượng của
ông được đổ ra, không phải cho bản thân, mà để những người khác có thể nhận biết,
như ông đã nhận biết, sức mạnh tình yêu của Chúa Kitô trong cuộc đời họ.
Một tội nhân
Mặt khác,
người thu thuế chắc chắn là một tội nhân. Ông ta chắc chắn không tuân giữ luật
Do Thái. Nếu ông ta giống như một người thu thuế thông thường, ông ta là một kẻ
lừa đảo và tống tiền. Ông ta thu tiền thuế từ chính những người dân bị áp bức của
mình và nộp (một phần) cho những người La Mã đáng ghét. Ông ta thực sự là một tội
nhân. Ông ta thực sự cư xử một cách ghê tởm trước mặt Thiên Chúa và tha nhân.
Và Thiên Chúa yêu thương ông ta!
Vì Chúa
Giêsu nói rằng khi người thu thuế rời khỏi Đền Thờ, ông đã làm như vậy với tư
cách là bạn của Chúa, trong khi người Pharisêu bị từ chối. Làm sao có thể như vậy
được? Đây có phải là công lý của Chúa không? Lý do là, mặc dù người thu thuế chắc
chắn là một tội nhân, nhưng ông đã thừa nhận tội lỗi của mình. Ông biết rằng tự
mình ông không thể làm được gì, rằng ông không thể thay đổi, trừ khi Chúa đến
giúp ông. Ông cầu xin:
Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ
tội lỗi!
Chúa sẽ
ngay lập tức đến giúp một tội nhân, người mà trong sự khiêm nhường và chân thật,
nhận ra tội lỗi của mình. Mặt khác, làm sao Chúa có thể đến giúp một người kiêu
ngạo, người nghĩ rằng mình có thể tự lo cho mình?
Một món quà đặc biệt
Một trong
những món quà lớn nhất là chúng ta nhận ra tội lỗi của mình. Trong Thư Thứ Nhất
của Thánh Gioan có viết:
Nếu chúng ta nói rằng chúng ta được
hiệp thông với Người mà chúng ta còn bước đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối
và không làm điều chân thật… Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không có tội, thì
chúng ta tự lừa dối mình, và chân lý không ở trong chúng ta. (1 Gioan 1:6,8)
Đây chính
là vấn đề của người Pha-ri-sêu. Ông ta nghĩ mình có mối tương giao với Đức Chúa
Trời, nhưng lại bước đi trong bóng tối; ông ta mù quáng. Nhưng người thu thuế
thì không như vậy. Có thể nói rằng, trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã
hiểu biết nhiều hơn về một đời sống lấy Phúc Âm làm trung tâm, nhưng chúng ta lại
đánh mất sự nhạy bén về tội lỗi trong đời sống mình.
Một dấu hiệu
cho thấy điều này là, mặc dù ngày nay có rất nhiều người đến Rước Lễ trong
Thánh Lễ, nhưng số người sử dụng Bí tích Hòa Giải lại ít hơn rất nhiều. Không
ai nên hối tiếc về sự ra đi của lối suy nghĩ cũ “vì hôm nay là Thứ Bảy, tôi phải
đi xưng tội”, hay tệ hơn, “tôi không thể Rước Lễ vì tôi chưa xưng tội”. Nhưng
thay vào đó, nhiều người đã không học được vị trí quan trọng của Bí tích Hòa Giải,
không chỉ trong cuộc sống cá nhân mà còn trong cuộc sống cộng đồng.
Tội lỗi có
thể dễ dàng bị coi là sự thất bại cá nhân trong việc đáp ứng một số tiêu chuẩn
hành vi nhất định: “Tôi đã thiếu kiên nhẫn”, “Tôi đã ghen tị, tôi đã tức giận”,
“Tôi đã không tham dự Thánh lễ Chúa Nhật”, v.v. Tội lỗi về cơ bản hơn nhiều là
sự thất bại trong các mối quan hệ—với Chúa, với người khác, với chính mình.
Chúng ta có thể phạm tội với chính mình, với các thành viên trong gia đình, với
đồng nghiệp, với bạn bè, với những người hoàn toàn xa lạ, với những người chúng
ta chưa từng gặp, nhưng đã bị ảnh hưởng bởi tình yêu hoặc sự ích kỷ của chúng
ta. Tội lỗi là sự thất bại trong việc yêu thương, thất bại trong việc làm việc
vì hạnh phúc của người khác. Nhiều tội lỗi tồi tệ nhất của chúng ta—hiếm khi được
nghe trong tòa giải tội—là những điều chúng ta không hề làm. Trong ngày phán
xét, Chúa sẽ phán: “Ta đói, khát, cô đơn, chật vật xoay xở, rõ ràng là đang gặp
rắc rối—và ngươi không hề ngược đãi ta, tấn công ta, nổi giận hay làm tổn
thương ta. Không, ngươi hoàn toàn không làm gì cả! Ta đang rất cần sự giúp đỡ
mà ngươi lại bỏ đi, tránh xa ta!”
Tội lỗi và Thiên Chúa
Nhận thức
sâu sắc về tội lỗi không tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa. Ngược lại, đó là dấu
hiệu cho thấy Thiên Chúa là một phần rất quan trọng trong cuộc sống của chúng
ta và chúng ta mong muốn được chia sẻ tình yêu mà Ngài đang dành cho chúng ta.
Những người bi thảm nhất là những người:
• nghĩ rằng
họ không cần Thiên Chúa trong cuộc sống của mình (như người Pharisêu hay một số
người từng theo Công giáo);
• khi được
hỏi, không thể nghĩ ra bất cứ điều gì tội lỗi trong cuộc sống của họ, hiện tại
hay quá khứ;
• nghĩ rằng
Chúa không yêu thương họ vì những điều khủng khiếp hoặc đáng xấu hổ mà họ có thể
đã làm.
Phụng vụ
Đêm Vọng Phục Sinh (Thứ Bảy Tuần Thánh) nói về felix culpa, “tội lỗi hạnh phúc” khi con người chúng ta đóng đinh
Con Thiên Chúa. Nhiều tội lỗi của chúng ta cũng có thể được coi là tội lỗi hạnh
phúc, nếu chúng giúp chúng ta nhận ra mình yếu đuối đến mức nào, chúng ta phụ
thuộc vào sự giúp đỡ của Chúa và sự giúp đỡ của người khác đến mức nào.
Nhận thức
về tội lỗi của mình cũng có thể giúp chúng ta trong cuộc sống trở nên nhân ái
và thấu hiểu hơn đối với người khác trong tội lỗi và sự yếu đuối của họ. Trong
sâu thẳm tội lỗi của mình, chúng ta đừng bao giờ đánh mất hình ảnh Thiên Chúa,
Đấng luôn đứng bên cạnh, sẵn sàng đến với chúng ta ngay khi chúng ta có tín hiệu.
Một lần nữa, như sách Huấn Ca đã nói với chúng ta:
Lời cầu nguyện của người khiêm nhường
thấu qua mây trời,
và sẽ không ngừng nghỉ cho đến khi
đạt được mục tiêu….
Thật vậy, Chúa sẽ không trì hoãn… (Hc 35,21-22)
https://livingspace.sacredspace.ie/oc301/
Xin thương xót con!
Xin thương
xót con là kẻ tội lỗi! Đó là lời cầu nguyện của người thu thuế, được thân thưa
với sự khiêm nhường, và lời cầu nguyện này được Chúa nhận lời. Nhân vật người
thu thuế cho chúng ta một định nghĩa về cầu nguyện: cầu nguyện là tỏ
bày tình trạng đáng thương của mình trước mặt Chúa. Thật thế, Thiên Chúa dựng
nên chúng ta, và Ngài ban cho chúng ta biết bao ân huệ. Việc chúng ta được hiện
hữu trên đời cũng là một ân huệ lớn lao của Thiên Chúa. Vì yêu thương, Ngài dạy
chúng ta phải sống trung thực, không nói dối, không tham lam, không giận hờn.
Ngài khuyên chúng ta làm điều tốt để được hạnh phúc đời này và đời sau. Tuy vậy,
vì kiếp người còn nhiều đam mê và ích kỷ, nên chúng ta thường lỗi phạm, đi ngược
lại ý Chúa, làm những điều trái với giáo huấn của Ngài. Chính vì thế mà chúng
ta cần phải nài xin lòng Chúa thương xót để được tha thứ tội lỗi.
Người biệt
phái cũng lên đền thờ cầu nguyện. Thay vì nói lên tình trạng yếu hèn của mình,
thì ông lại công khai khoe khoang bản thân trước mặt người khác. Ông mãn nguyện
vì đời sống đầy đủ của mình. Ông còn khoe những việc lành đã làm và tỏ ra là một
người hoàn hảo. Khi say sưa kể lể công đức của mình, ông lại cố ý kể tội người
khác qua câu nói: “Hoặc như tên thu thuế kia”. Thực ra, sự kiêu ngạo
khoe khoang của ông đã là một tội rồi. Bởi lẽ đứng trước nhan Chúa, không có ai
là vô tội. Những gì người biệt phái đang say sưa hưng phấn kể lể, thực ra không
phải là lời cầu nguyện, mà là lời khoe mình.
Cầu nguyện
là giãi bày với Chúa những khiếm khuyết và yếu đuối của mình. Khi thể hiện lòng
khiêm tốn trong lời cầu nguyện, những ước nguyện khác như sức khỏe, thành đạt,
việc làm, hạnh phúc gia đình… sẽ được Chúa lắng nghe và nhận lời, như lời tác
giả sách Huấn ca (Bài đọc I): “Người phục vụ Đức Chúa
theo ý Người sẽ được Người chấp nhận. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây
thẳm”. Cần lưu ý, trong truyền thống Kinh Thánh, “người nghèo” đồng
nghĩa với “người công chính”.
Tín hữu là
người cầu nguyện, nhưng cầu nguyện như thế nào? Chúa Giê-su đã dạy chúng ta chỉ
duy nhất một lời cầu nguyện, đó là kinh Lạy Cha mà chúng ta vẫn đọc. Nội dung của
kinh này là mẫu mực cho chúng ta về những gì chúng ta phải thân thưa với Chúa.
Trước hết chúng ta cầu nguyện cho Danh Chúa được cả sáng, cho vương quốc mà
Chúa Giê-su đã khai mở được thực sự lan rộng trên trần gian; cho ý Chúa được thể
hiện dưới đất cũng như trên trời. Sau đó chúng ta cầu nguyện cho những nhu cầu
vật chất; cầu nguyện để đủ can đảm tha thứ cho người khác; và xin Chúa giữ gìn
khỏi những cám dỗ và sự dữ đang vây bủa xung quanh chúng ta. Đương nhiên, lời cầu
nguyện này chỉ mang lại ơn phúc nếu chúng ta biết thực thi trong cuộc sống cụ
thể những gì chúng ta đọc bằng môi miệng.
Thái độ của
hai nhân vật trong dụ ngôn hoàn toàn khác nhau khi họ lên đền thờ cầu nguyện:
ông biệt phái thì ưỡn ngực đứng thẳng; ông thu thuế lại đứng đàng xa và không
dám ngước mắt lên trời. Họ cùng lên đền thờ cầu nguyện và cùng ra về, nhưng hiệu
quả của lời cầu nguyện cũng lại hoàn toàn khác nhau: Người thu thuế được Chúa
nhận lời; còn người biệt phái thì không. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giê-su dạy
chúng ta về bài học khiêm nhường. Khiêm tốn trong lời cầu nguyện sẽ được Chúa
thương; khiêm tốn trong ứng xử hằng ngày sẽ được mọi người mến. Người đời thường
nói: “Khiêm nhường bao nhiêu cũng chưa đủ; tự kiêu một chút cũng là thừa”.
Trong lịch sử xa xưa, Lão Tử đã nói rằng nguyên do sông và biển mênh mông sâu
thẳm là bởi nước biết hạ mình chỗ thấp, tiếp nhận lấy nước từ từng nhánh sông
khe suối nhỏ bé. Vì ở chỗ thấp nên làm vua trăm họ. Nước luôn luôn vị tha, bao
dung bất luận ân oán đúng sai. Hình ảnh của nước đơn sơ là thế mà giúp ta một
triết lý thật sâu xa.
Người tín
hữu cũng được gọi là “người cầu nguyện”. Bởi lẽ tin vào Chúa là xác
tín vào quyền năng và tình yêu thương của Ngài, đồng thời luôn tâm sự với Ngài,
để ca tụng, tạ ơn và chúc tụng Ngài vì những ơn lành Ngài đã thương ban. Lời cầu
nguyện giống như chiếc cầu nối để dẫn đưa ta với Chúa. Lời cầu nguyện cũng thể
hiện Đức tin, vì có tin thì ta mới thưa chuyện với Chúa, và trao gửi nơi Ngài
những âu lo trăn trở của cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa,
xin thương xót chúng con! Đó là tâm tình của cộng đoàn tín hữu khi khởi đầu
thánh lễ. Trước nhan Chúa là Đấng Chí Thánh, con người luôn hèn mọn, bé nhỏ và
bất toàn. Để xứng đáng cửa hành Phụng vụ tôn thờ Thiên Chúa, người tín hữu phải
thành tâm sám hối và khiêm tốn nhận mình còn nhiều lỗi lầm. Tâm tình sám hối được
thể hiện trong lời kinh “Xin Chúa thương xót” và kinh “Thú
nhận”, để xin Chúa tha thứ và xin anh chị em bỏ qua những thiếu sót trong
tư tưởng lời nói và việc làm của chúng ta.
“Khi ấy,
Chúa Giê-su kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là những người
công chính mà khinh chê người khác”.
Hôm nay, Chúa Giê-su vẫn đang tiếp tục kể câu chuyện này với chúng ta.
Xin Chúa
thương xót chúng con!
+TGM
Giu-se Vũ Văn Thiên



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét