19/10/2025
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN năm C.
CẦU CHO VIỆC RAO GIẢNG
TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC
Bài Ðọc I: Is 60, 1-6
Trích sách
Tiên Tri Isaia.
Ðứng lên,
bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình
minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp
chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất
hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng
về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất
cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái
ngươi được ẵm bên hông. Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi
rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn
dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà
Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với
trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Ðức Chúa.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-5
Ðáp: Âm thanh họ truyền khắp địa cầu.
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh
quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo
cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. – Ðáp.
2) Chẳng một
lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và
thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Chúa căng lều cho thái dương tại đó.
– Ðáp.
Bài Ðọc II: 1Tm 2,1-8
Trích Thư
Thánh Phaolô Tông Ðồ Gửi Tín Hữu Timôthê.
Vậy tiên
vàn mọi sự, tôi truyền phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết
mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng, ngõ hầu ta được
qua một đời yên hàn, ổn định, trong đạo đức vẹn toàn và nghiêm chỉnh. Ðó là điều
tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa, Cứu Chúa của ta. Người muốn cho mọi người được cứu
thoát và được nhìn biết sự thật. Vì chỉ có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Ðấng
trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: một người, là Ðức Yêsu, Ðấng đã thí
mình làm giá chuộc thay cho mọi người; chứng đã tuyên ra vào chính thời chính
buổi, mà tôi đã được đặt làm lệnh sứ, làm tông đồ — và tôi nói thật, chứ không
nói dối — làm tấn sĩ dân ngoại, trong đức tin, trong sự thật.
Vậy tôi muốn
nam nhân cầu nguyện mọi nơi thì giăng lên những bàn tay lành thánh, không nóng
giận, không cãi cọ.
Ðó là lời
Chúa.
Hoặc đọc bài đọc sau đây:
Bài Ðọc II: Cv 1, 3-8
Trích sách
Công Vụ Tông Ðồ.
Sau khi
Chúa Giêsu sống lại, Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy
là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện
ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với
các Tông Ðồ, Ðức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng
phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới,
đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ
chịu phép rửa trong Thánh Thần.
Bấy giờ những
người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy
khôi phục vương quốc Ítraen không?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ
và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của
Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của
Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất”.
Ðó là lời
Chúa.
Alleluia: Mt 28,
19-20
Alleluia,
alleluia! – Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế.” – Alleluia.
Phúc Âm: Mc
16,15-20
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.
Và Ðức
Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi
loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì
sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ
quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc,
thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ
được an lành mạnh khỏe”.
Vậy sau
khi đã nói với họ rồi, Chúa Yêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời
bởi phép lạ kèm theo.
Ðó là lời
Chúa.
Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:
Phúc Âm: Mt 28, 16-20
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Mười một
môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến.
Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Ðức Giêsu đến
gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh
em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã
truyền cho anh em. và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ðó là lời
Chúa.
Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:
Phúc Âm: Lc 24, 44-53
Khi hai
môn đệ từ Emmau trở về còn đang nói với nhóm Mười Một, thì chính Ðức Giêsu đứng
giữa các ông. Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng
tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về
Thầy đều phải được ứng nghiệm.”
Bấy giờ
Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải
nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ
sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này. Và
đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại
trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
Sau đó,
Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang
khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. Bấy giờ các
ông bái lạy người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Ðền
Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Vì yêu
thương, Thiên Chúa đã tạo nên con người và muốn cho tất cả mọi người tham dự
vào sự sống của Ngài. Ngài còn muốn liên kết mọi mỗi người thành một đoàn chiên
duy nhất.[1] Thật vậy, Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến không chỉ với những con
chiên lạc nhà Israel, mà Ngài còn hoà giải cả vũ trụ với Thiên Chúa (x.Cl
1,18-20 ), với dân ngoại, dẹp tan các mối thù địch để tạo ra một nhân loại mới
(x.Ep 2,13-18).
Ơn cứu độ
của Thiên Chúa mang tính phổ quát (x.Lc 2,30). Máu của Đức Giêsu đổ ra đem lại
ơn cứu độ cho muôn người (x.Mc 10,45). Vì vậy, sứ mệnh của Giáo hội được nối kết
với sứ mệnh của Chúa Giêsu: “Như Cha đã sai Thầy đến thế gian, thì Thầy cũng
sai anh em” (Ga 20,21). Cho nên, sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể
Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai.”[2] Việc loan báo Tin mừng sẽ không trọn
vẹn nếu không quan tâm đến mối quan hệ giữa Tin mừng và cuộc sống: cá nhân và
xã hội của con người, công lý, hoà bình, phát triển và việc giải phóng con người
thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và những bất công.[3] Giáo hội xem lời của Thánh
Phaolô như sứ điệp của mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc âm”
(1Cr 9,16).
Trước khi
về trời, Đức Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt
28,19-20). Lệnh đó đã được tiếp diễn trong suốt chiều dài lịch sử từ thời các
Tông đồ cho đến ngày nay và muôn đời sau. Trải qua thời gian, Giáo hội không ngừng
ban hành các Tông thư, Tông huấn về truyền giáo, để các tín hữu hiểu rõ hơn và
ý thức nhiệm vụ cấp bách này. Qua những dẫn chứng trên, người viết muốn trình
bày ba điểm về việc truyền giáo, đó là: Ý thức, thao thức, cách thức truyền
giáo.
Thứ
nhất: Ý thức việc truyền giáo:
Lời kêu gọi
của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng và thúc đẩy chúng ta. Thế nhưng, không ít người
Kitô hữu vẫn còn bàng quan cho yên phận, thay vì làm chứng cho Chúa thì chỉ lo
giữ đạo, giữ đức tin cho vững là đủ. Là “men”, là “muối”, Giáo hội luôn mang
trong mình một “nội lực” nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần để tiếp tục biến đổi sao
cho phù hợp với sự phát triển không ngừng của thế giới về mọi lãnh vực khoa học
kỹ thuật cũng như xã hội nhân văn. Ý thức về sứ vụ của mình, Giáo hội tại Việt
Nam cũng đã minh định qua Thư chung của Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010: “Thay vì coi
truyền giáo chỉ như một trong những hoạt động của Giáo hội, thì nay cần nhìn sứ
mệnh truyền giáo như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời
sống Giáo hội. Do đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng
liêng và mục vụ, cho mục tiêu này.”[4] Công đồng Vatican II đã mời gọi: “Mọi
tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu
nhận biết và đón nhận Phúc âm cứu độ của Chúa.”[5] Thật vậy, “Tự bản tính, Giáo
hội lữ hành là truyền giáo.”[6] Cho nên, ta phải ý thức trách nhiệm phận vụ của
mình.
Thứ
hai: Thao thức truyền giáo:
Dù muốn dù
không, mỗi Kitô hữu đều là tông đồ của Đức Giêsu ngay từ ngày lãnh Bí tích Rửa
tội. Bí tích này làm cho chúng ta trở thành chi thể của Chúa Giêsu, thông phần
vào vai trò ngôn sứ của Ngài, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin mừng
cứu độ của Thiên Chúa. Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên nhẫn. Thánh
Phaolô khuyên chúng ta: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện
cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4,2). Chúa vẫn luôn mời chúng hãy “ra khơi
thả lưới” như các môn đệ xưa kia, vì cánh đồng truyền giáo vẫn còn bát ngát bao
la. Muốn vậy, chúng ta phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến
Chúa và yêu người. Chúng ta mến Chúa và yêu mến tha nhân, nên chúng ta muốn
chia sẻ niềm vui và hy vọng với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn
thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người
đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau hơn. Được kêu gọi trở
nên hạt giống hy vọng, bổn phận của chúng ta là tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô
trong thế giới. Phạm vi sứ mạng và việc phục vụ của Giáo hội không thuộc lãnh vực
vật chất, hay cả những nhu cầu tinh thần giới hạn nơi cuộc sống trần thế, nhưng
là ơn cứu độ siêu việt, được hoàn tất trong Nước Thiên Chúa.[7] Sống tinh thần
Kitô giáo, nghĩa là không “đóng kín cửa lòng”, mà phải mở ra để trao tặng cho
nhân loại ân ban mà ta đã nhận từ Chúa Kitô.
Thứ
ba: Cách thức truyền giáo:
Có nhiều
cách thức truyền giáo, nhưng sau đây là những cách mà người viết nghĩ có thể thể
mang lại hiệu quả cao, đó là: Cầu nguyện, sống gương mẫu, bác ái, tiếp xúc các
nhân và đối thoại.
Cầu
nguyện: Công trình
cứu độ là của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy. Thật
vậy, “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1).
Chính Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả (x.1Cr
3,6-7). Thánh Phaolô cũng nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn,
van xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”
(Pl 4,6). Bởi vậy, cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng:
cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng
lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời
không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc
truyền giáo. Thế mà Giáo hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền
giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê.
Sống
gương mẫu: Truyền
giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu. Nếu chúng ta sống thực
sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, như lời căn dặn của Chúa
Giêsu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em
có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thật vậy, không ai có thể loan báo Tin mừng
cho người khác, nếu tâm hồn chưa được Phúc âm biến đổi, hay “không ai có thể
làm chứng cho Chúa nếu không phản chiếu hình ảnh của Ngài.”[8] Kinh nghiệm của
các tín hữu sơ khai cho thấy, đời sống tu đức là căn bản, và là nguồn sinh lực
của việc truyền giáo. Mặc dù thiếu thốn và nhiều khốn đốn (1Cr 1,23), nhưng các
tín hữu vẫn luôn đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện và siêng năng trong
nghi lễ bẻ bánh. Họ sống tình yêu thương chan hòa trong sự chia sẻ với nhau, và
nêu cao phẩm chất của đời sống Kitô hữu. Do vậy, họ “được toàn dân thương mến”
(Cv 2,46). Nhờ đời sống thánh thiện của các cộng đoàn sơ khai, Tin mừng đã lan
tràn khắp nơi.
Bởi vậy, đời
sống chứng nhân tốt là cách thức truyền giáo hữu hiệu. Việc làm cụ thể và thiết
thực đi kèm với lời nói (rao giảng) mới đủ sức thuyết phục con người thời nay
và mới chứng minh được những điều được chúng ta rao giảng là chân thật. Đời sống
chứng nhân không chỉ là của các cá nhân, mà còn phải là chứng tá của cả gia
đình, cộng đoàn của giáo xứ. Muốn vậy, chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với
Chúa Giêsu và với Chúa Thánh Thần như cành nho gắn liền với thân nho (x.Ga
15,1-8), vì không có đời sống siêu nhiên và ơn sủng của Thiên Chúa chúng ta
không thể làm được điều gì tốt lành. Sự thánh thiện là dấu chỉ đời sống chứng
tá hữu hiệu nhất trong việc truyền giáo. Đức Phaolô VI đã nói: “Người đương thời
sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe
thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng.”[9] Kitô hữu là
người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12). Một khi được Ngài chiếm đoạt,
Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy làm chứng nhân cho Chúa.
Sống
bác ái: Hoạt động
tông đồ của Giáo hội phải khởi đi từ đức ái, bởi vì đức ái, theo thánh Phaolô,
là một điều gì đó còn lớn lao hơn là một hoạt động: “Giả như tôi có đem hết tài
sản mà bố thí, hay nộp thân thể tôi để chịu thiêu đốt, mà không có lòng mến,
thì cũng không ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Cũng vậy, thánh Matthêu cho biết:
“Anh sáng của anh em phải chiếu toả trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt
5,16).
Mục đích của
truyền giáo không dừng lại ở việc “cứu các linh hồn”, nhưng đúng hơn là sống đời
sống của một Kitô hữu, sống theo Tin mừng và dấn thân làm cho thế giới trở
thành một ngôi nhà chung: “Sự hiện diện của các Kitô hữu giữa các nhóm người phải
được sống động bằng chính tình bác ái mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và
muốn chúng ta cũng yêu thương nhau bằng tình bác ái đó. Bác ái Kitô giáo thực sự
lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn
giáo.”[10] Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,25-37) mang đến cho chúng
ta tiêu chuẩn để đo lường lòng bác ái. Giới răn yêu thương phải vượt qua những
ranh giới địa lý vùng miền, để mở rộng ra cho tất cả những ai cần đến sự trợ
giúp của chúng ta. Giáo hội muốn mọi người biết thế giới thật sự là một ‘ngôi
làng chung’, ở đó người ta cảm nhận được mình là thành phần của gia đình nhân
loại. Với gia đình này người ta chia sẻ với nhau những niềm vui và những đau khổ,
những hy vọng và thử thách. Thật vậy, Giáo hội là cộng đoàn chỉ có một nền tảng
duy nhất đó là tình yêu, tình yêu là nội dung và là phương thức về sự hiện diện
và sứ vụ của Giáo hội. “Thiên Chúa là tình yêu. Nơi đó, chân lý này có thể được
nhìn ngắm như lời Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Việc bảo vệ Thiên Chúa và con người
cách tốt nhất nằm ngay trong tình yêu.”[11]
Tiếp
xúc cá nhân: Chúng
ta không được diễm phúc như các Tông đồ là rao giảng lời Chúa một cách hùng hồn
và làm nhiều phép lạ. Sống trong thời đại ngày nay, chúng ta chỉ có thể loan
báo Tin mừng cho người khác bằng tiếp xúc cá nhân qua đời sống hằng ngày. Cuộc
gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (Ga 4,1-42) là một minh chứng. Việc
Đức Giêsu muốn làm là xây dựng lòng tin tưởng. Tin nhau mới có thể cộng tác với
nhau, mới có thể chia sẻ mọi sự cho nhau. Một trong những cách Đức Giêsu xây dựng
lòng tin nơi người khác là thể hiện sự quan tâm. Đức Giêsu quan tâm đến chị, thấu
hiểu hoàn cảnh của chị và cảm thông với nỗi khổ tâm của chị. Thật vậy, một khi
người khác lấy được niềm tin nơi chúng ta, lúc ấy chúng ta sẵn sàng chia sẻ niềm
tin và hy vọng của chúng ta nơi Đức Kitô. Muốn cho việc tiếp xúc cá nhân đạt được
thành quả, điều cốt yếu là sự cầu nguyện và hi sinh. Ta nói với Chúa về người bạn
trước khi nói với bạn về Chúa. Sự học hỏi trau dồi kiến thức thần học giáo dân
là một khía cạnh cần cố gắng. Thái độ khiêm cung, nhã nhặn, lịch thiệp, vồn vã
và chân tình là những đức tính cần có của chúng ta mỗi khi giao tiếp, để qua
đó, mọi người cùng nắm tay nhau phục vụ anh chị em và phụng sự Chúa. Thánh
Phaolô đã nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho lớn lên”
(1Cr 3,6). Chúng ta hãy gieo niềm tin và hy vọng nơi những người mà chúng ta gặp
gỡ, việc còn lại, hãy để Chúa Thánh Thần tác động nơi họ. Muốn thế, ta phải biết
cách đối thoại.
Đối thoại: Đối thoại là một phần thiết yếu trong
sứ mạng của Giáo hội, “vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương ban ơn
cứu độ của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con và trong quyền năng của Chúa
Thánh Thần.”[12] Đối thoại là để mở lòng, đón nhận, sống với, phục vụ mọi người
bằng tình yêu thương theo gương Chúa Giêsu. Đó là ơn gọi của mỗi Kitô hữu, một
ơn mời gọi phải tích cực đi đến với mọi anh chị em để lắng nghe, chia sẻ, hiểu
biết, cảm thông, và loan báo Tin mừng bằng chính đời sống mình. Đức Phanxicô
kêu gọi: “Tôi muốn thấy một Giáo hội bị bầm giập, tổn thương và lấm lem trên đường
dấn thân, chứ không phải là một Giáo hội ‘xanh xao vàng vọt’ vì sống đóng khung
và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình…”[13] Đối thoại là khiêm
tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người
nghèo, trong sự phong phú về văn hóa, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo
và trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Ðối thoại như thế là lối sống và phương
cách truyền giáo của chúng ta. Ðối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp
thông nhằm canh tân sứ giả Tin mừng.[14]
Tóm lại, lời
kêu gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng
cho muôn loài thọ tạo” (Mc 16,15) đang thúc bách chúng ta. Nhìn cánh đồng truyền
giáo vẫn còn bát ngát bao la đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta
phải thao thức, ý thức và tìm cách cách thức truyền giáo là bổn phận và nghĩa vụ
của của chúng ta. Chúng ta phải tận dụng mọi cơ hội, trong mọi hoàn cảnh để đưa
Tin mừng của Chúa đến cho mọi người. Sứ mạng truyền giáo là nhiệm vụ ưu tiên của
Giáo hội, như lời Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Nhìn vào số đông nhân loại chưa
biết Chúa cũng đủ cho thấy rằng sứ mệnh này mới chỉ đang ở những bước đầu tiên
và chúng ta còn cần phải dồn hết mọi nỗ lực của mình cho công trình này.”[15]
Vì vậy, lòng nhiệt thành truyền giáo luôn là dấu chỉ sức sống của các Giáo hội
chúng ta.
________________________
[1] Cf. Ad
Gentes, số 2 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch).
[2] Ad
Gentes, op. cit., 2.
[3] Cf.
Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, no. 29-38 (8 December
1975).
[4] Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam, Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 31.
[5]
Apostolicam Actuositatem, số 3 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học
Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch).
[6] Ad
Gentes, op. cit., 2.
[7] Cf.
Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, op. cit., 27.
[8] John
Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 87.
[9]
Francis, Evangelii Nuntiandi, op. cit., 41.
[10] Ad
Gentes, op. cit., 12.
[11]
Benedict XVI, Encyclical Letter Deus Caritas Est, no. 31 (December 25, 2005):
AAS 98 (2006), 245.
[12] John
Paul II, Ecclessia in Assia, op. cit., 29.
[13]
Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, no. 49 (24 November 2013):
AAS 105 (2013).
[14] Cf. Sứ
điệp Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội đồng giám mục Á châu, số 5.
[15] John
Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 1.
Gioan Văn Huy
.webp)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét