22/10/2025
Thứ Tư tuần 29 thường niên
Bài Ðọc I: (Bài I) Rm 6, 12-18
“Anh em
hãy hiến thân cho Thiên Chúa như những người từ cõi chết sống lại”.
Trích thư
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em
thân mến, nguyện cho tội lỗi đừng thống trị trong xác hay chết của anh em, khiến
anh em phải vâng phục những dục vọng của nó. Anh em cũng đừng dùng các chi thể
anh em làm khí giới của gian tà để phục vụ tội lỗi, nhưng hãy hiến thân cho
Thiên Chúa như những người từ trong cõi chết sống lại, và hãy hiến dâng các chi
thể anh em làm khí giới đức công chính để phục vụ Thiên Chúa. Vì chưng, tội lỗi
không còn bá chủ được anh em: bởi anh em không còn ở dưới chế độ lề luật, nhưng
dưới chế độ ân sủng.
Thế nghĩa
là gì? Nào chúng ta cứ phạm tội đi, vì chúng ta không ở dưới chế độ lề luật,
nhưng dưới chế độ ân sủng ư? Không phải thế! Chớ thì anh em chẳng biết rằng: hễ
anh em hiến thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của kẻ anh em
vâng phục đó sao? hoặc là nô lệ của tội lỗi để rồi phải chết, hoặc là nộ lệ của
đức vâng lời để rồi được nên công chính? Nhưng cảm tạ Thiên Chúa, vì xưa kia
anh em là nô lệ của tội lỗi, mà nay anh em đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo
lý đã truyền cho anh em noi giữ. Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội
lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 123,
1-3. 4-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh
Chúa
Xướng: Nếu như Chúa không che chở chúng
tôi, – Israel hãy xướng (lên) – nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên
hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ
bầng bầng giận dữ chúng tôi.
Xướng: Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất,
trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi, bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút
chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Ngài đã không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào
răng chúng.
Xướng: Hồn chúng tôi như cánh chim non,
thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi
đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất!
Alleluia: Tv
118, 18
Alleluia,
alleluia! – Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều
kỳ diệu trong luật Chúa. – Alleluia.
(Hoặc đọc: Alleluia, alleluia! – Anh em hãy
canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ
đến. – Alleluia.)
Phúc Âm: Lc 12,
39-48
“Người
ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều”.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu
chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà
mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người
sẽ đến”.
Phêrô thưa
Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?”
Chúa phán: “Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt
coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy
tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt
người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng:
“Chủ tôi về muộn”, nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy
tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó,
và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ
mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều.
Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị
đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã
giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn”.
Ðó là lời
Chúa.
Chú giải về thư Rô-ma 6,12-18
Hôm nay
chúng ta bước vào chương 6 của Thư Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Ngay cả khi trải
dài bức thư này trong bốn tuần, vẫn có nhiều đoạn tuyệt vời cần được lược bỏ.
Giải pháp duy nhất là tự mình đọc lại toàn bộ bức thư trong thời gian của riêng
mình.
Sau khi một
lần nữa nói về sự tương phản giữa A-đam và Đấng Ki-tô và nói đôi lời về phép rửa tội, Phao-lô tiếp tục nói rằng sự tốt
lành, chứ không phải tội lỗi, phải chi phối cuộc sống chúng ta. Ngay trước đó,
ông đã nói với tín hữu Rô-ma:
Vì Ngài đã chết, Ngài đã chết đối với
tội lỗi một lần đủ cả; nhưng sự sống mà Ngài sống, Ngài sống cho Đức Chúa Trời.
Vậy, anh em cũng hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi và sống cho Đức Chúa
Trời trong Đức Chúa Giê-su
Ki-tô.
(Rô-ma 6,10-11)
Vì vậy,
Phao-lô tiếp tục trong bài đọc hôm nay:
Vậy, đừng để tội lỗi cai trị trong
thân thể hay chết của anh em, mà anh em phải vâng phục dục vọng của nó. Đừng để
chi thể mình làm khí cụ gian ác cho tội lỗi nữa…
Mặc dù
phép rửa tội
hủy diệt tội lỗi trong chúng ta, nhưng chừng nào chúng ta còn ở thế gian này và
thân thể chúng ta chưa “mặc lấy sự bất tử” (1 Cô-rinh-tô 15,54), tội lỗi vẫn có
thể tìm cách tái khẳng định mình trong một thân thể “hay chết”, nơi mà dục vọng
vẫn còn ngự trị. Thay vào đó, chúng ta phải phó thác hoàn toàn cho Đức Chúa Trời,
như những con người đã được sống lại từ cái chết của tội lỗi. Chúng ta phải
dâng hiến tất cả khả năng của con người – tâm linh, trí tuệ, tình cảm, xã hội –
cho Đức Chúa Trời để chúng trở thành khí cụ dẫn chúng ta đến sự tốt lành của cuộc
sống:
Vì tội lỗi sẽ không còn thống trị
anh em nữa, bởi vì anh em không còn ở dưới luật pháp mà ở dưới ân điển.
Phao-lô
quan niệm tội lỗi như một quyền lực nô lệ, và do đó đã nhân cách hóa nó. “Không
còn ở dưới luật pháp” có nghĩa là không còn ở dưới chế độ của Luật pháp Môi-se,
mà việc tuân giữ luật pháp bên ngoài là nền tảng cho lối sống của người Do
Thái.
Chắc chắn
ông không nói rằng Ki-tô hữu
đã được giải thoát khỏi mọi thẩm quyền đạo đức. Bản thân luật pháp không cho
phép chúng ta chống lại quyền lực của tội lỗi. Ngược lại, việc vi phạm luật
pháp chỉ làm tăng nhận thức về tội lỗi. Mặt khác, ân điển lại cho phép và giải
phóng. Luật duy nhất của nó là luật yêu thương (agape-love).
Hình như một
số người phản bác rằng, nếu chúng ta không còn bị ràng buộc bởi luật pháp, mà bởi
‘ân điển’, thì người ta có thể làm bất cứ điều gì họ muốn. “Không đời nào!”
Phao-lô gầm lên. Đó dường như là lập trường của Luther với câu châm ngôn nổi tiếng
của ông, Pecca fortiter (Tội lỗi một cách mãnh liệt). Luther dường như nói rằng
một khi chúng ta đã cam kết đức tin vào Chúa Giê-su là Chúa, thì tội lỗi của
chúng ta, vốn sẽ tiếp diễn không thể tránh khỏi, sẽ được ‘bỏ qua’ hoặc ‘che phủ’
bởi ân điển của Đấng Ki-tô.
Chúng ta thấy rằng cách Luther diễn giải về Phao-lô một phần bị ảnh hưởng bởi sự
bất lực rõ ràng của chính ông trong việc chế ngự những ham muốn thấp hèn. Ông cần
một cách để ở bên Chúa ngay cả trong tội lỗi của mình.
Tuy nhiên,
ngay cả điều này cũng không hoàn toàn giống với việc nói rằng, một khi chúng ta
ở dưới ân điển, chúng ta có thể vứt bỏ đạo đức, rằng chúng ta có thể làm bất cứ
điều gì mình hoàn toàn thích mà không bị trừng phạt. Không một Ki-tô
hữu nào có thể giữ
quan điểm đó. Chúng ta không đồng tình với Luther khi ông nói rằng chúng ta bất
lực để trở thành những người tốt hơn, những người tốt.
Phao-lô
hoàn toàn bác bỏ ý tưởng rằng, với ân điển, chúng ta có thể quên đi hành vi đạo
đức. Việc hoàn toàn cam kết với Chúa Kitô phải dẫn đến một sự biến đổi bên
trong, hướng chúng ta đến sự tốt lành và tình yêu. Ở trong Chúa Kitô là được tự
do, không phải tự do phạm tội, mà là tự do không phạm tội. Tự do đích thực là
khả năng lựa chọn điều tốt. Tội lỗi, như một sự lựa chọn điều ác, không bao giờ
có thể là biểu hiện của tự do đích thực; đó là sự lạm dụng tự do.
Bản Kinh
Thánh Jerusalem bình luận về sự tự do đến từ Chúa Kitô:
“Chúa Kitô
đã giải thoát con người khỏi điều ác để đưa họ trở về với Thiên Chúa. Phao-lô
phát triển các ý tưởng Kinh Thánh về ‘sự cứu chuộc’ và sự giải thoát khỏi sự chết,
và để làm nổi bật hàm ý của chúng, ông thường xuyên sử dụng một phép ẩn dụ mà
những người đương thời của ông sẽ thấy ấn tượng: người nô lệ được cứu chuộc và
được giải phóng, không còn là nô lệ nữa, mà phải phục vụ chủ mới của mình một
cách tự do và trung thành. Chúa Kitô đã trả giá cho sự cứu chuộc chúng ta bằng
chính mạng sống của Ngài; và Ngài đã giải phóng chúng ta mãi mãi. Người Ki-tô phải cẩn thận đừng để mình bị mắc
kẹt lại bởi những kẻ đã từng sở hữu mình, tức là bởi tội lỗi; Luật pháp, với sự
tuân giữ nghi lễ; các nguyên tắc của thế gian; và sự hư hoại. Người ấy là một
người tự do, con của một người mẹ tự do, tức là Giê-ru-sa-lem thuộc linh. Sự tự
do này không phải là giấy phép cho tội lỗi. Nó có nghĩa là phục vụ một chủ mới,
Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su Ki-tô,
Đấng mà người Ki tô
giờ đây thuộc về, Đấng mà người ấy sống và chết vì Ngài; sự phục vụ vâng phục
này được thúc đẩy bởi đức tin và dẫn đến sự công chính và thánh khiết. Đây là
loại tự do mà một người con đã, một người đã được giải thoát bởi ‘luật của
Thánh Linh’. Và, người ấy phải sẵn sàng từ bỏ sự tự do của mình để phục vụ người
lân cận trong tình bác ái và sự tôn trọng nếu những nguyên tắc của người khác
đòi hỏi. Chế độ nô lệ như một thể chế xã hội có thể được dung thứ trong một xã
hội, xét cho cùng, là tạm bợ. Nó không có ý nghĩa thực sự nào trong trật tự mới
do Chúa Kitô thiết lập: nô lệ Ki tô
đã được Chúa Kitô ban cho quyền, và nô lệ cũng như chủ đều là tôi tớ của Chúa
Kitô.” (đã được biên tập và lược bỏ các tham chiếu văn bản)
Sau đó,
Phao-lô phân biệt hai loại nô lệ:
Anh em há chẳng biết rằng nếu anh
em dâng mình làm tôi tớ vâng phục ai, thì anh em là tôi tớ của người mình vâng
phục, hoặc của tội lỗi dẫn đến sự chết, hoặc của sự vâng phục dẫn đến sự công
chính sao?
Trở thành
nô lệ là bị đặt dưới ý muốn và sự kiểm soát của một người khác. Làm nô lệ cho tội
lỗi chỉ có thể dẫn đến sự chết, nhưng thực sự vâng phục sự công chính dẫn đến sự
sống.
Từ ‘vâng
phục’ chứa đựng gốc của động từ ‘lắng nghe’. Việc làm ngơ trước điều thiện và đầu
hàng điều ác dẫn đến tội lỗi và sự chết. Lắng nghe tiếng nói của điều thiện và
đầu hàng nó chính là con đường dẫn đến sự sống.
Chúng ta
có một tấm gương sáng ngời nơi Chúa Giê-su, Đấng đã vâng phục Cha Ngài, hiến
dâng toàn thân trong sự sống và cái chết để giải thoát chúng ta. Trong Thư gửi
tín hữu Phi-líp-phê,
Phao-lô nói rằng Chúa Giê-su:
... đã tự hủy mình đi, mang lấy
hình tôi tớ, trở nên giống phàm nhân. Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình
xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. (Phi-líp-phê 2,7-8)
Vì và nhờ
Chúa Kitô, chúng ta đã đổi từ thân phận nô lệ này sang thân phận nô lệ khác:
Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì trước
kia anh em làm nô lệ cho tội lỗi, nay đã hết lòng vâng phục giáo lý đã được
giao phó cho anh em, và nay đã được giải thoát khỏi tội lỗi, trở nên nô lệ cho
sự công chính.
“Vâng phục”
hàm ý sự vâng phục tự nguyện chứ không phải sự vâng phục bị ép buộc, áp đặt hay
theo khuôn mẫu luật lệ. Ki-tô hữu
đã thay đổi chủ nhân. Từ chỗ là nô lệ của tội lỗi, họ đã trở thành nô lệ của “sự
công chính”, của lòng tốt nội tâm đến từ việc mở lòng đón nhận tình yêu của
Thiên Chúa thông qua “ân sủng”.
Mặt khác,
“ở dưới luật pháp” có nghĩa là tìm kiếm sự cứu rỗi cá nhân bằng cách tuân theo
các quy tắc và quy định bên ngoài. Như chúng ta thấy trong trường hợp của nhiều
người Pharisêu, điều này dẫn đến sự kiêu ngạo và một loại tha hóa nội tâm rất
nguy hiểm. Sự tha hóa như vậy cũng có thể lây nhiễm cho chúng ta, những người
Kitô hữu, nếu chúng ta không cẩn thận. Khi chúng ta đầu hàng cuộc sống tội lỗi,
chúng ta đang hướng đến cái chết. Khi chúng ta đầu hàng Thiên Chúa, nó dẫn đến
công lý, đến lòng tốt. Nghịch lý thay, trở thành nô lệ của “công lý”, hay sự
công chính, chính là trở nên tự do.
Tự do, như
chúng ta đã nói, là khả năng đồng nhất hoàn toàn với điều tốt. Sử dụng tự do của
một người để phạm tội là một sự mâu thuẫn. Tự do đích thực cho phép chúng ta lựa
chọn hành động tốt lành và yêu thương mọi lúc và trong mọi tình huống.
Mặc dù một
số người có thể không nhìn nhận theo cách đó, nhưng không ai được hưởng tự do
thực sự hơn người hoàn toàn cam kết với Con Đường của Chúa Giêsu. Bởi vì đó là
Con Đường, là Tầm Nhìn của cuộc sống, mà chúng ta được kêu gọi bởi những nhu cầu
sâu sắc nhất của bản thể mình.
Chú giải về Luca 12,39-48
Hôm nay
chúng ta có thêm một số lời cảnh báo về sự sẵn sàng. Sự bất ngờ của việc Chúa đến
để kêu gọi lần cuối được ví như một tên trộm đột nhập vào nhà. Nếu biết trước
khi nào kẻ trộm đến, người ta sẽ chuẩn bị sẵn sàng và khóa chặt mọi thứ. Nhiều
người đã từng trải qua kinh nghiệm bị trộm đột nhập hoặc bị móc túi. Vấn đề là
chúng ta không biết ngày hay giờ:
...Con Người sẽ đến vào giờ các
ngươi không ngờ.
Phê-rô
hỏi liệu hình ảnh này chỉ dành cho các môn đồ hay cho toàn thể thế gian. Chúa
Giê-su trả lời bằng cách kể một dụ ngôn.
Một người
quản gia trung tín và có tầm nhìn xa là người được thấy đang làm công việc của
mình cho gia đình mỗi khi chủ trở về. 'Người quản gia' là người có trách nhiệm
đối với những người hầu khác, và Chúa Giê-su ở đây có thể đang ám chỉ các Tông đồ của Ngài và những người lãnh đạo
khác trong cộng đồng Ki-tô.
Một nô lệ ('người hầu') đáng tin cậy đôi khi cũng có thể được giao quản lý một
điền trang.
Nhưng nếu
người quản gia cảm thấy chủ nhân “chậm trễ” (tức là chậm trễ) và bắt đầu ngược
đãi những người hầu còn lại, lãng phí thời gian vào việc trụy lạc, anh ta sẽ bị
trừng phạt nghiêm khắc khi chủ nhân bất ngờ trở về. Chúng ta biết rằng những
người theo đạo Ki tô đầu
tiên tin rằng Chúa Giê-su sẽ trở lại trong thời gian họ còn sống, nhưng khi thời
gian trôi qua và không có dấu hiệu nào của Chúa Giê-su, các Ki tô
hữu có thể bị cám dỗ
trở nên ít cảnh giác hơn và bắt đầu “sống theo ý mình”. Đó là một điều nguy hiểm.
Sau đó,
Chúa Giê-su đưa ra một sự phân biệt. Những người biết ý muốn của chủ nhân (như
các môn đệ của Ngài), nhưng bị phát hiện cư xử không đúng mực khi Ngài trở lại,
sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Những người không biết (những người không phải là
môn đệ, người ngoài) vẫn sẽ bị trừng phạt vì làm sai, nhưng hình phạt của họ sẽ
nhẹ hơn so với những người đã nhận được sự dạy dỗ và chỉ dẫn của chủ nhân:
Ai được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi
nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
Là những Ki tô
hữu, với sự hướng dẫn
của Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta phải chịu trách nhiệm lớn
hơn nhiều về những sai trái mình gây ra so với những người khác, chẳng hạn như
những người không theo đạo hoặc không theo tôn giáo, những người ít được hướng
dẫn hơn.
Trong Giáo
Hội, có những người được đào tạo bài bản hơn và có hiểu biết hơn, và họ cũng phải
chịu trách nhiệm lớn hơn trước Chúa. Đồng thời, cũng đáng lưu ý rằng những người
có thể tận dụng sự đào tạo và thông tin đó nhưng lại không làm như vậy cũng có
thể phải chịu trách nhiệm lớn hơn. Chúng ta cần phân biệt giữa sự thiếu hiểu biết
và sự ngu dốt. Sự thiếu hiểu biết đơn giản là không biết hoặc không nhận thức
được một số chân lý hay giá trị. Sự ngu dốt là không biết những gì mình nên biết
và có mọi cơ hội để biết.
Sự ngu dốt
đôi khi có thể là một điều hạnh phúc, nhưng không phải là điều hạnh phúc khi biết
Chúa Giê-su và Phúc Âm. Và sự khôn ngoan, hoàn toàn không phải là sự dại dột,
mà là một món quà cần được trân trọng.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1294g/
Suy niệm: Tỉnh Thức Và Sẵn Sàng
Với thắc mắc
của tông đồ Phêrô: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay chỉ
về cho mọi người", Chúa Giêsu khai triển thêm về chủ đề tỉnh thức và sẵn
sàng, và có vẻ như trong lần khai triển này Ngài nhắm đến những người có trách
nhiệm trong cộng đồng.
Chủ đề tỉnh
thức và sẵn sàng được nối tiếp với những giáo huấn của Chúa Giêsu dành cho giới
có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa. Và dĩ nhiên trước tiên là những người
có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa, họ phải gương mẫu trong thái độ tỉnh thức
và sẵn sàng vì không những là sự tỉnh thức, sẵn sàng cần thiết cho ơn cứu độ của
bản thân họ mà họ còn phải tỉnh thức và sẵn sàng để người khác có được ân sủng
của Chúa nữa.
Công việc
của một người có trách nhiệm trong dân Chúa thì muôn vẻ, muôn mặt và thường là
những công việc không tên, không tuổi. Họ sống cho dân Chúa và ở giữa dân Chúa
để mọi người có thể thấy Chúa qua họ. Trong cuộc sống rao giảng của Chúa Giêsu,
Ngài liên tục kiếm tìm, khuyên lơn, an ủi, thánh hóa và giải cứu cho con người.
Ngài không có thời khóa biểu cho công việc của mình mà trọn vẹn Ngài sống là
cho đi, là trao ban, là sứ mệnh. Dĩ nhiên, chúng ta không thể đòi hỏi những người
có trách nhiệm của chúng ta làm như Chúa Giêsu được, nhưng đòi hỏi phải tỉnh thức
và sẵn sàng hơn những người khác để xứng đáng là môn đệ, xứng đáng là những người
gần Chúa hơn, hầu có thể đem Chúa đến cho mọi người, vì dù sao đi nữa thì các vị
ấy cũng được gọi và bản thân của họ tình nguyện để đi theo Chúa.
Anh chàng
thanh niên khi nghe Chúa nói: "Anh hãy về bán của cải cho người nghèo rồi
hãy đến theo Ta". Anh đã lẳng lặng bỏ đi vì anh không thể làm được chuyện ấy.
Chúa Giêsu có buồn đôi chút nhưng Ngài tôn trọng tự do của anh, nếu anh vẫn sống
trọn vẹn các giới răn như anh đã thưa với Chúa thì anh vẫn là người rất tuyệt.
Thế nhưng, theo rồi mà không dành tất cả cho Chúa và cho anh chị em của mình
như Chúa dạy thì thế nào cũng bị Chúa khiển trách. Thỉnh thoảng, có những vị
phân bua: "Là gì đi chăng nữa thì cũng phải có những khoản riêng cho mình
chứ, có những thứ thuộc đời tư của mình chứ". Không đâu, quí vị không còn
đời tư nữa, quí vị không còn gì là riêng rẽ nữa. Tất cả đã là của Chúa và của
anh chị em mình, ban cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều; giao phó cho ai nhiều
thì đòi kẻ ấy nhiều hơn.
Lạy Cha,
Tất cả
chúng con đều là những đầy tớ phải biết thức tỉnh và sẵn sàng, nhưng hôm nay
thì Chúa Giêsu, Con Cha, nói về những vị đầy tớ đặc biệt. Ðiều đó quá đúng, vì
dù sao thì trong một tổ chức, một cơ cấu, cũng có nhiều công tác khác nhau, và
mỗi người đều có một cách phục vụ tùy theo chỗ đứng, tùy theo công việc được
giao phó. Chúng con cầu nguyện cho những người được giao cho những trách nhiệm
đặc biệt ấy, để các ngài năng giống Con Cha hơn, không có thời khóa biểu cho
riêng mình nhưng có thời khóa biểu để phục vụ Cha nơi những anh chị em được
trao phó.
(‘Mỗi
Ngày Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét