17/10/2025
Thứ Sáu tuần 28 thường niên.
Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Giám
mục I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a đã bị án quăng làm mồi cho thú dữ, tại Rôma, quãng năm 110. Tại các chặng
dừng chân trên con đường tiến đến nơi hành hình, người đã gửi bảy thư cho nhiều
giáo đoàn. Trong các thư đó, người nói về Chúa Kitô, về Hội Thánh và về đời sống
Kitô hữu một cách khôn ngoan và thông thái. Trong các thư đó còn có một trong
những bài tình ca thốt lên từ một trái tim thấm nhuần tinh thần Kitô giáo: “Hãy
để tôi lãnh nhận ánh sáng tinh tuyền. Nơi tôi chỉ còn một dòng nước sống động đang thầm thì: Hãy đến với Chúa
Cha”.
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 4, 1-8
“Abraham
đã tin vào Thiên Chúa và điều đó kể cho ông như sự công chính”.
Trích thư
Thánh Phaolô Tồng đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em
thân mến, chúng ta phải nói gì về chuyện Abraham, tổ phụ theo huyết nhục của
chúng ta đã gặp thấy? Nếu như Abraham nhờ việc làm mà được nên công chính, thì
ông có lý mà tự hào, nhưng không phải tự hào trước mặt Thiên Chúa. Vì Thánh
Kinh nói gì? Abraham đã tin vào Thiên Chúa, và điều đó được kể cho ông như sự
công chính.
Ðối với
người thợ làm việc, tiền công không kể được là ân huệ, nhưng là một món nợ. Còn
đối với người không làm việc, nhưng tin vào Ðấng làm cho người ác nên công
chính, thì đức tin của kẻ ấy được kể như là sự công chính, theo ơn Thiên Chúa
phân định.
Cũng như
Ðavít tuyên bố là phúc đức con người được Thiên Chúa kể là công chính, không cần
có việc làm, mà rằng: “Phúc cho những ai được tha thứ sự gian ác, và được che lấp
các tội lỗi. Phúc cho người Chúa không chấp nhất sự tội”.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 31, 1-2.
5. 11
Ðáp: Chúa là chỗ dung thân; Chúa đùm bọc
tôi trong niềm vui ơn cứu độ
Xướng: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm,
và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi
lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian.
Xướng: Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của
tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: “Con thú thực cùng
Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con”.
Xướng: Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân
hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng!
Alleluia: Dt 4, 12
Alleluia,
alleluia! – Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và ý
muốn của tâm hồn. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 1-7
“Mọi sợi
tóc trên đều các con cũng đã được đếm cả rồi”.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có
nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa
Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: “Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi
men biệt phái, nghĩa là sự giả hình. Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ
ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói
trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai
trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà.
“Thầy bảo
các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được
thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết
phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục.
Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.
“Chớ thì
năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ
quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm
cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ”.
Ðó là lời
Chúa.
Chú giải về Thư Rô-ma 4,1-8
Phao-lô tiếp
tục chủ đề về tính chất nhưng không của tình yêu thương và sự cứu rỗi của Đức
Chúa Trời dành cho chúng ta. Ông lấy Áp-ra-ham làm ví dụ. Áp-ra-ham là tổ phụ của
dân Do Thái, vị tộc trưởng vĩ đại của dân tộc Do Thái, là tấm gương đích thực của
một người “được xưng công chính”, nhưng ông cũng là người đi trước khi Luật
Môi-se được ban hành và không hề biết gì về luật này. Mặc dù phần lớn những gì
Phao-lô nói đều hướng đến những người Do Thái đồng hương của ông, nhưng việc
ông chọn Áp-ra-ham, tổ phụ của toàn thể dân Chúa, không phải là không có ý
nghĩa.
Liệu
Áp-ra-ham có thể được Đức Chúa Trời “xưng công chính bởi việc làm” chỉ dựa trên
những gì ông đã đạt được trong đời mình? Thực ra, truyền thống Do Thái, vốn
luôn đề cao lòng trung thành và sự kiên cường của Áp-ra-ham trước thử thách, đã
biến ông thành tấm gương sáng ngời về sự xưng công chính bởi việc làm. Người Do
Thái tin rằng sự vĩ đại của ông nằm ở những gì ông đã đạt được. Phao-lô đồng ý
rằng Áp-ra-ham chắc chắn có cơ sở để đưa ra tuyên bố đó. Tuy nhiên, ông khẳng định
rằng sự xưng công chính và những việc làm này bắt nguồn từ đức tin của
Áp-ra-ham. Và Phao-lô tin rằng Kinh Thánh đứng về phía ông. Ông trích dẫn từ sách Sáng Thế:
Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và điều
đó được kể là công chính cho ông.
(Sáng Thế 15,6)
Ở đây
không đề cập đến việc ông đã làm bất cứ điều gì. Ông được ban thưởng hoàn toàn
vì đức tin tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham không tuân giữ luật pháp nào
(lúc đó luật pháp chưa có), không phụng sự và không thực hiện bất kỳ nghi lễ
thường lệ nào để được ghi nhận trước mặt Đức Chúa Trời. Chính đức tin của ông
nơi Đức Chúa Trời, Đấng đã hứa với ông, mới được kể là công chính.
Có ba cách
để hiểu đoạn trích dẫn này:
1. Nhờ đức
tin, Áp-ra-ham được xem là người ngay thẳng, mặc dù thực tế ông không phải vậy.
2. Nhờ đức
tin, Đức Chúa Trời đã ban cho ông sự ngay thẳng mà ông không có khi mới tin
(nhưng có thể đã có sau này).
3. Trong mắt
Đức Chúa Trời, đức tin và sự ngay thẳng phụ thuộc lẫn nhau đến mức chúng thực sự
không thể tách rời.
Chỉ có điều
cuối cùng trong ba điều này dường như phù hợp với lời dạy của Phao-lô. Một người
đã hoàn toàn đầu phục Chúa Giê-su và Con Đường của Ngài bằng đức tin và sự tin
cậy sẽ trở thành một người tốt và yêu thương, hoặc ít nhất, chắc chắn sẽ tiến triển
theo hướng đó.
Câu chuyện
về Áp-ra-ham đưa ra một số ví dụ về đức tin và sự tin cậy này. Ban đầu, ông được
yêu cầu rời bỏ quê hương và đến một vùng đất xa xôi nơi con cháu ông sẽ sinh sống,
và ông đã làm như vậy. Mặc dù vợ ông đã quá tuổi sinh con, nhưng Đức Chúa Trời
đã hứa rằng con cháu của Áp-ra-ham sẽ đông như sao trên trời hay như cát dưới
biển. Áp-ra-ham đã đặt niềm tin vào lời Chúa và ông quả thực đã có một người
con trai, I-sa-ác.
Sau đó, một
thời gian sau, Đức Chúa Trời đã yêu cầu Áp-ra-ham hy sinh đứa con trai duy nhất
của mình, người thừa kế hợp pháp duy nhất có thể sinh ra con cháu cho ông, và
Áp-ra-ham đã làm theo lời Chúa, nhưng khi đức tin của ông được chứng minh, Đức
Chúa Trời đã ngăn cản ông vào phút cuối.
Khi một
người làm việc, Phao-lô nói, tiền công của người ấy không phải là quà tặng; đó
là điều người ấy đáng được hưởng:
Nhưng đối với người không làm việc
nhưng tin cậy Đấng xưng công chính cho người có tội, thì đức tin đó được kể là
công chính.
Người ta
không làm gì cả, không phải vì lười biếng, mà vì biết rằng chỉ có Chúa mới có
thể tạo ra kết quả. Mặt khác, như đã nói, người đầy đức tin, bởi chính hành động
đó, cũng sẽ đầy việc lành.
Phao-lô kết
thúc bằng cách trích dẫn lời của Đa-vít (Thánh Vịnh 32,1-2) áp dụng cho “những người
mà Đức Chúa Trời kể là công chính, không xét đến việc làm”:
Phước cho người nào được tha thứ tội
lỗi,
được che đậy tội lỗi.
Phước cho người nào Chúa không kể tội,
và trong lòng không có sự dối trá.
Cứ như thể
Chúa không còn nhìn thấy hoặc không muốn nhìn thấy những điều xấu xa mà chúng
ta đã làm, và xóa bỏ khỏi chúng ta mọi tội lỗi. Nhưng điều đó không có nghĩa là
chúng ta có thể ngồi yên và thư giãn. "Sao phải lo lắng? Tôi chỉ cần nói
'Tôi tin Chúa Giê-su'
và Chúa sẽ che phủ mọi tội lỗi của tôi." Không, về phần tôi, tôi cần mở
lòng mình ra với lòng trắc ẩn yêu thương của Chúa đã được bày tỏ qua việc Chúa Giê-su đổ huyết trên thập tự giá. Điều đó
phải tác động đến hành vi của tôi.
Tôi phải
nói một tiếng "Vâng" lớn và vô điều kiện với lời mời gọi của Chúa Giê-su để chủ động theo Ngài, mặc dù điều
đó sẽ chỉ xảy ra với sự giúp đỡ của Ngài trên suốt chặng đường. Điều đó cũng có
nghĩa là nói một tiếng "Không" lớn không kém với nhiều điều mà tôi biết
là mâu thuẫn với Con Đường của Chúa Giê-su.
Điều quan
trọng nữa là phải nhớ rằng gốc rễ của tội lỗi không nằm ở hành động, mà nằm ở mối
quan hệ của một người với Chúa. Một khi tôi hoàn toàn hòa giải với Chúa Giê-su
bằng cách phủ phục dưới chân Ngài trong đức tin và nỗi buồn, Ngài sẽ đón tôi trở
về, y như cách người cha của đứa con hoang đàng đón đứa con hư hỏng của mình trở
về. Mọi chuyện đã được quên lãng; sự chữa lành đã diễn ra. Mối quan hệ được phục
hồi hoàn toàn, mặc dù hậu quả của hành động của tôi vẫn còn đó. Chúa chỉ nhìn
thấy tôi như tôi hiện tại. Và tôi đáp lại Ngài bằng đức tin—ngay bây giờ.
Chú giải về Luca 12,1-7
Sau cuộc đối
đầu với những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, Chúa Giê-su quay sang đám đông.
Chúng ta được biết rằng họ đang tụ tập quanh Ngài hàng ngàn người, đông đến nỗi
giẫm đạp lên nhau. Rõ ràng là họ khao khát được nghe một người đã nói những lời
phi thường và táo bạo như vậy với các nhà lãnh đạo tôn giáo của họ.
Nhưng Chúa
Giê-su bắt đầu bằng cách nói trước tiên với các môn đồ của Ngài.
Hãy coi chừng men của người
Pha-ri-sêu, tức là sự giả hình của họ.
Người Do
Thái coi đặc tính lên men của men là một tác nhân gây hư hỏng. Đó là lý do tại
sao họ chỉ dùng bánh không men trong Lễ Vượt Qua.
Tác nhân
gây hư hỏng ở người Pha-ri-sêu chính là sự giả hình của họ. Bề ngoài, họ giả vờ
là chính mình nhưng bên trong thì không:
Không có gì che giấu mà không bị vạch
trần và không có gì bí mật mà không bị phát hiện.
Điều này
có thể có nghĩa là sự giả hình của người Pha-ri-sêu cuối cùng sẽ bị phơi bày.
Ngược lại, những người theo Chúa Giê-su phải thực hành sự minh bạch. Và mặc dù
phần lớn giáo lý mà các môn đệ nhận được là riêng tư, nhưng cuối cùng tất cả sẽ
phải được công khai.
Giáo hội
không phải là một hội kín, mặc dù nó có những 'bí ẩn', những giáo lý và nghi lễ
đặc biệt, mà chỉ những người 'bên trong' mới hiểu hết được. Bản chất của Giáo hội
là truyền giáo. Mục đích của nó là chia sẻ khải tượng của Chúa Kitô với toàn thế
giới. Điều này rất quan trọng đối với việc thiết lập Vương quốc, vương quốc được
Đức Chúa Trời chấp nhận trên thế giới.
Vì vậy, bất cứ điều gì bạn nói
trong bóng tối sẽ được nghe thấy trong ánh sáng, và những gì bạn thì thầm sau
cánh cửa đóng kín sẽ được công bố trên mái nhà.
Tất nhiên,
điều này sẽ tiềm ẩn những nguy hiểm. Phúc âm sẽ bị chống đối; nó sẽ bị coi là một
mối đe dọa nguy hiểm đối với những quan điểm sống khác. Các Ki-tô
hữu sẽ chết và trên thực
tế, hàng ngàn người đã hy sinh mạng sống của mình chỉ vì họ là những người theo
Chúa Giê-su.
Nhưng cái
chết thể xác không phải là kẻ thù tồi tệ nhất - đó là hậu quả của việc sống. Đó
là kết cục mà tất cả chúng ta sẽ phải đối mặt một ngày nào đó, sớm hay muộn,
theo cách này hay cách khác. Nhưng Phao-lô nói:
Tôi sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ
ai: hãy sợ Đấng sau khi giết người rồi lại có quyền quăng vào địa ngục.
Chỉ có Đức
Chúa Trời, là Đấng Phán Xét Tối Cao, mới có quyền năng này. Dĩ nhiên, người duy
nhất mà Đức Chúa Trời “ném vào địa ngục” là người đã chọn cách xa cách Ngài
hoàn toàn.
Địa ngục
(trong tiếng Do Thái, ge-hinnom có
nghĩa là ‘Thung lũng Hinnom’ hoặc ge-ben-hinnom,
‘Thung lũng Con trai Hinnom’) ám chỉ một khu vực nằm ở phía tây nam
Giê-ru-sa-lem. Vào thời các vua, nơi đây là trung tâm của một giáo phái thờ
cúng trẻ em (xem 2 Các Vua 23,10 và Giê-rê-mi-a 7,31), và do đó bị coi là một nơi
ghê tởm. Từ Híp-ri
được phiên âm sang tiếng Hy Lạp là gaihenna,
xuất hiện trong một số bản dịch Tân Ước là gehenna.
Hình phạt
lửa dành cho tội nhân sau khi chết lần đầu tiên xuất hiện trong văn học khải
huyền của Do Thái giáo, nhưng tên gehenna
chỉ hình phạt này xuất hiện trong Tân Ước. Thuật ngữ này chỉ được sử dụng trong
Mát-thêu, Mác-cô, Thư Gia-cô-bê và ở đây. Không nên
nhầm lẫn từ này với Hades, vốn là tên
gọi chung cho nơi của người chết.
Kẻ mà
chúng ta thực sự phải sợ là kẻ có thể khiến chúng ta chối bỏ Chúa Kitô và tất cả
những gì Chúa Kitô muốn nói, và chết trong trạng thái chối bỏ. Nhưng dù có bất
kỳ mối đe dọa nào treo lơ lửng trên đầu, chúng ta cũng không nên sợ hãi. Chúng
ta có tấm gương của nhiều người trước chúng ta, những người đã ra đi trong bình
an và không chút do dự. Họ biết rằng họ không còn lựa chọn nào khác: hoặc là chết
hoặc là Chân Lý. Chúa Giê-su phán:
Chẳng phải năm con chim sẻ đã bán
được hai đồng xu sao? Thế mà không một con nào bị lãng quên trước mặt Thiên
Chúa. Ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Đừng sợ, các con
còn quý giá hơn muôn vàn con chim sẻ.
Vì vậy, bổn
phận của chúng ta rất rõ ràng: rao giảng Tin Mừng với sự cởi mở và chính trực,
và không sợ hậu quả. Chúng ta không đơn độc.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1286g/
Suy niệm: Men Pharisiêu
Ðoạn Tin Mừng
chúng ta nghe hôm nay là những câu đầu tiên trong chương 12 Phúc Âm theo thánh
Luca. Nơi chương này, tác giả quy góp lại những lời dạy của Chúa Giêsu cho các
môn đệ, mặc dù đám đông dân chúng đang hiện diện nơi đó không bị loại ra bên
ngoài. Như chúng ta đọc thấy ngay câu thứ nhất của chương 12: "Dân chúng
qui tụ quanh Chúa đông đảo đến độ dẫm chân lên nhau. Họ đến để nghe Lời Chúa giảng
dạy và được gặp Chúa". Tuy nhiên nơi câu kế tiếp (tức câu thứ hai), tác giả
sách Phúc Âm cho thấy là Chúa Giêsu chú ý nhiều hơn đến các môn đệ, nên ghi
thêm chi tiết: "Chúa Giêsu bắt đầu nói trước hết với các môn đệ", lời
giảng của Chúa Giêsu là cho tất cả mọi người nhưng đối với các môn đệ thì càng
có giá trị bắt buộc nhiều hơn nữa.
Nếp sống
mà Chúa muốn cho các môn đệ Ngài sống là hoàn toàn mới mẻ, khác với nếp sống của
những biệt phái và thông luật bị Chúa nặng lời khiển trách trước đó: "Các
con hãy giữ mình đừng bị men Pharisiêu tức sự sống giả hình". Các môn đệ
Chúa sẽ dấn thân sống sự thật và phục vụ cho sự thật với hết lòng thành thật.
Những hành
động, nếp sống hàng ngày của môn đệ cần phải phù hợp với tâm hồn bên trong,
không thể nào che đậy giấu diếm tâm hồn xấu xa mãi được, không gì ẩn khuất bên
trong mà không bị lộ ra; nhưng không phải chỉ có nếp sống thành thật không mà
thôi. Nếp sống đó là một chứng tá công khai cho Chúa: "Ðiều tốt tự nhiên
được loan truyền phổ biến". Ðiều các môn đệ nghe, nhận lãnh từ Chúa cần được
loan báo cho mọi người. Người Kitô môn đệ Chúa không thể giấu diếm tài năng, những
nén bạc Chúa ban cho mà cần phải rao giảng trên mái nhà, công khai cho mọi người
được biết. Nếp sống chứng tá này không phải là điều dễ dàng đối với Chúa cũng
như đối với các môn đệ. Sự hăm dọa và bách hại đã không thiếu trong đời sống của
môn đệ làm cho các ngài nhiều khi phải có thái độ im lặng làm ngơ, không dám
lên tiếng trình bày sự thật, làm chứng cho sự thật.
Chúa Giêsu
khuyên các môn đệ hãy can đảm và tin tưởng vào sự chăm sóc của Thiên Chúa:
"Chúng con đừng sợ những kẻ chỉ làm hại được trên thể xác, nhưng hãy có
lòng kính sợ Chúa". Ðây là sự kính sợ của lòng yêu thương con thảo đối với
Thiên Chúa Cha, là Ðấng luôn luôn hiện diện với con người, với những môn đệ:
"Này, Ta sẽ ở cùng chúng con mỗi ngày cho đến tận thế". Lo sợ trước
những thử thách, những bách hại, là phản ứng tự nhiên của con người, nhưng Chúa
Giêsu muốn cho chúng ta vượt qua những phản ứng tự nhiên này bằng tình yêu mạnh
mẽ đối với Chúa.
Lạy Chúa,
Chúng con
cảm tạ Chúa vì đã muốn và huấn luyện chúng con trở thành những chứng nhân của
Chúa nhưng chúng con tự nhiên lo sợ trước những thử thách. Xin thương giúp
chúng con tin tưởng vào lời Chúa và sẵn sàng tuân theo ơn soi sáng của Chúa
Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, sống đức tin và niềm hy vọng trong mọi hoàn cảnh.
(‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)



.webp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét