Trang

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2025

12.10.2025: CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN Năm C

 12/10/2025

 CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN năm C.

 


Bài Ðọc I: 2 V 5, 14-17

“Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng Chúa”.

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria, xuống tắm bảy lần ở sông Giođan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.

Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông”.

Tiên tri trả lời rằng: “Có Chúa hằng sống, tôi đang đứng trước mặt Người: Thật tôi không dám nhận đâu”. Naaman cố nài ép, nhưng tiên tri không nghe. Naaman nói thêm rằng: “Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác”.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4

Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).

Xướng: Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. 

Xướng: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. 

Xướng: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! 

 

Bài Ðọc II: 2 Tm 2, 8-13

“Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Ðức Kitô”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Ðavít, đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích! Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Ðức Giêsu Kitô.

Ðây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời! – Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 17, 11-19

“Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Thấy họ, Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.

Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”. Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về 2 Các Vua 5,14-17; 2 Ti-mô-thê 2,8-13; Lu-ca 17,11-19

Có một số chủ đề đồng thời và liên quan xuyên suốt các bài đọc hôm nay. Tất cả đều có thể liên hệ với những trải nghiệm cá nhân của chúng ta, và hy vọng rằng chúng ta sẽ thấy chúng tác động như thế nào trong cuộc sống của mình, dù là hạn chế hay giải phóng. Những chủ đề này có thể được liệt kê như sự tiêu cực, ô uế, bệnh phong, sự tẩy chay, tù đày, cũng như sự tích cực, sự thanh tẩy, chữa lành, sự trọn vẹn và lòng biết ơn.

Ở giai đoạn này trong Phúc Âm Lu-ca, chúng ta thấy Chúa Giê-su đang trên đường về phía nam, đến Giê-ru-sa-lem, hướng đến mục tiêu sứ mệnh của đời mình. Ngài vừa đến biên giới phía nam của tỉnh Galilê phía bắc (nơi Ngài xuất thân) và Sa-ma-ri, nằm giữa Galilê ở phía bắc và Giu-đê ở phía nam. Mười người phong cùi

Khi Chúa Giêsu vào một ngôi làng, Ngài được mười người phong cùi ra đón (nhân tiện, tất cả họ đều là đàn ông—tiếng Hy Lạp là andres):

Họ đứng cách Ngài một khoảng cách xa…

Là những người phong cùi, họ buộc phải kêu lên “ô uế” và rung chuông khi thấy có người đến gần. Người ta thời đó không biết nhiều về nguyên nhân hay bản chất của bệnh phong cùi, nhưng họ biết rằng nó có tính lây nhiễm. Không có phương pháp chữa trị nào được biết đến và nó dần dần dẫn đến sự biến dạng của người bệnh. Vì vậy, những người được cho là mắc bệnh phong cùi phải giữ khoảng cách an toàn với tất cả những người khác. Do đó mới có câu nói: “Họ đối xử với Ngài như một người phong cùi”. Rất có thể, một số người bất hạnh mắc các bệnh ngoài da không lây nhiễm cũng bị xếp chung với họ. Tất cả họ đều bị đối xử như những kẻ bị ruồng bỏ, bị buộc phải sống bên lề xã hội, là đối tượng của cả sự sợ hãi và khinh miệt.

Vẫn còn cách Chúa Giêsu một khoảng cách, họ kêu lên trong tuyệt vọng—những từ chúng ta dùng trong mỗi Thánh lễ—Kyrie! Eleison! Nghĩa là:

Lạy Chúa Giêsu, Lạy Thầy! Xin thương xót chúng tôi!

Họ không còn ảo tưởng về tình cảnh bất lực của mình. Niềm hy vọng duy nhất của họ giờ đây là lòng thương xót của Chúa Giê-su, Thầy và Chúa của họ, Đấng là hiện thân sống động của lòng thương xót và trắc ẩn của Thiên Chúa—một lòng thương xót và trắc ẩn mà họ đã từ lâu không còn mong đợi từ những người đồng hương.

Chúa Giê-su không hề làm ầm ĩ. Ngài chỉ đơn giản bảo họ:

Hãy đi trình diện với các tư tế.

Trên đường đi thực hiện lời chỉ dẫn này, họ phát hiện ra mình đã được sạch và lành bệnh. Liệu đây có phải là phần thưởng cho sự đáp lại tin tưởng và không chút nghi ngờ của họ đối với lời chỉ dẫn của Chúa Giê-su không? Liệu đó có phải là phần thưởng cho đức tin của họ nơi Ngài? Và tại sao Chúa Giê-su bảo họ đến gặp các tư tế? Bởi vì được chữa lành thôi là chưa đủ—họ còn phải được các nhà chức trách tôn giáo chính thức tuyên bố là sạch. Chỉ khi đó, họ mới có thể hoàn toàn hòa nhập trở lại với xã hội “bình thường”.

Chỉ có một người trở về

Nhận thấy mình được chữa lành, chỉ một người trong nhóm quay trở lại “lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”, phủ phục dưới chân Chúa Giê-su và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất về những gì đã xảy ra với Ngài. Và:

Ông là người Sa-ma-ri.

Phần lớn sức nặng của câu chuyện nằm ở bốn từ đó. Là một người Sa-ma-ri, ông thuộc về một nhóm người bị ghét bỏ và khinh miệt. Trong trường hợp của ông, ông đã bị ruồng bỏ gấp đôi. Ngay cả các môn đồ của Chúa Giê-su cũng từng nói những lời cay nghiệt với người Sa-ma-ri. Và điều đó nói lên rất nhiều điều về số phận khốn khổ của những người phong hủi khi có thể có cả người Do Thái và người Sa-ma-ri cùng chung sống trong một nhóm. Trong nỗi đau khổ chung của họ, những định kiến ​​khác đã bị lãng quên.

Tuy nhiên, sau khi họ được chữa lành, không phải những thành viên của dân Chúa được Chúa chọn đã trở về để tạ ơn Chúa, mà chính là người bị ruồng bỏ này, một người sẽ bị xã hội Do Thái coi là kẻ bị ruồng bỏ, ngay cả khi anh ta không mắc bệnh phong hủi. Đó là điềm báo trước cho sự hình thành các cộng đồng Ki-tô giáo trong tương lai.

Phản ứng của Chúa Giêsu

Chúa Giêsu nhấn mạnh sự kiện này bằng chính phản ứng của Người:

Mười người đã được sạch, phải không? Chín người kia đâu rồi? Chẳng lẽ chỉ có người ngoại bang này trở lại tạ ơn Thiên Chúa sao?

Người khách lạ này, người ngoài cuộc này, và ngụ ý là người ngoại giáo vô thần này (hay ít nhất là kẻ dị giáo thâm căn cố đế), một người bị cho là xa cách Thiên Chúa, lại là người nhận thức sâu sắc nhất về hành động của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Trong thời đại của chúng ta, hẳn chúng ta cũng đã gặp những người ngoài Kitô giáo có cảm nhận rõ ràng hơn về sự hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời họ so với một số người trong chúng ta mang nhãn hiệu 'Công giáo'.

Chúa Giêsu nói với anh ta:

Hãy đứng dậy và đi; đức tin của anh đã cứu anh.

Người đàn ông được kêu gọi phục sinh, đến với cuộc sống mới và bước đi trên Con Đường của Chúa Giêsu. Sự thấu hiểu sâu sắc về những gì anh đã trải qua là một kinh nghiệm cứu rỗi đối với anh. Có nhiều điều hơn là sự chữa lành về thể xác. Toàn bộ con người đã được phục hồi hoàn toàn trong mối quan hệ của anh với Thiên Chúa, với hàng xóm và cộng đồng.

Thông điệp cho chúng ta

Khi suy ngẫm, đoạn văn này có thể nói lên rất nhiều điều trong cuộc sống của chính chúng ta. Tạ ơn Chúa, bệnh phong, từng là một căn bệnh đáng sợ, đã phần lớn biến mất khỏi nhiều nơi trên trái đất. Ở những nơi vẫn còn tồn tại, các loại thuốc hiện đại có thể kiểm soát và thậm chí chữa lành bệnh. Giờ đây, chúng ta cũng biết rằng, mặc dù bệnh phong có khả năng lây nhiễm, nhưng việc thỉnh thoảng tiếp xúc với người bị phong không hề nguy hiểm.

Tuy nhiên, các loại bệnh phong khác nhau vẫn còn lưu hành trong mọi xã hội, dù xã hội đó có phát triển đến đâu. Ở một số nơi trên thế giới, cả một cộng đồng bị bỏ rơi, khinh miệt, bóc lột và xa lánh. Trong mọi xã hội đều có những người bị gạt ra ngoài lề, đôi khi bởi "sự bỏ rơi vô hại", đôi khi bởi sự phân biệt đối xử và áp bức trắng trợn. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và "chủ nghĩa cộng đồng" (phân biệt đối xử dựa trên bản sắc tôn giáo) lan tràn khắp nơi, đôi khi rất công khai, đôi khi theo những cách tinh vi hơn, nhưng đều gây tổn thương như nhau.

Và chúng ta cần nhớ rằng định kiến ​​và sự không chấp nhận xảy ra ở mọi hướng, không chỉ từ đa số trở xuống. Các nhóm thiểu số cũng có thể có định kiến ​​tương tự đối với đa số xung quanh. Có thể có sự chia rẽ giữa các nhóm thiểu số. Tất cả chúng ta đều có thể mắc tội biến người khác thành người phong cùi.

Trong xã hội của chúng ta, một số nhóm chủng tộc rất ý thức được việc bị coi là khác biệt và thấp kém. Những người nhập cư mới đến có thể rơi vào nhóm này, ngay cả khi họ có những đóng góp đáng kể bằng cách thường làm những công việc mà người dân địa phương không muốn làm. Ở Hồng Kông trong những năm 1980, thật trớ trêu khi nhiều "thuyền nhân" Việt Nam, những người không được ai chào đón, lại được đưa vào các trại tị nạn vốn trước đây là nơi ở của những người phong cùi thực sự. Ngay cả những cộng đồng nhập cư đã ở lại một quốc gia qua nhiều thế hệ đôi khi cũng không được tất cả mọi người chấp nhận hoàn toàn.

Bệnh phong cùi mới

Thật đáng để suy ngẫm về việc ai là những "người phong cùi" mới trong xã hội ngày nay. Có rất nhiều người có lối sống và lựa chọn khác với chúng ta. Liệu điều này có khiến họ "kém cỏi" hơn chúng ta theo một cách nào đó không? Khi đến giờ chúc bình an trong Thánh lễ, liệu tôi có bắt tay người đó không? Ngoài ra, liệu họ có quá sợ bị chính chúng ta - những người Công giáo tốt đi lễ - từ chối và lên án đến mức họ không đến dự lễ không?

Sợ hãi và sự thiếu hiểu biết

Nhưng dù chúng ta đang nói về ai, dù họ là nạn nhân của bệnh tật, hay những người thuộc chủng tộc, tôn giáo hay văn hóa khác, giới tính hay khuynh hướng tình dục khác, chúng ta cần nhận thức được thái độ của mình và các giá trị mà Chúa Giê-su thể hiện trong cách Ngài tương tác với mọi người. Chúng ta cần nhận thức được vai trò của cả sợ hãi và sự thiếu hiểu biết trong thái độ và phản ứng của chúng ta đối với những người "khác biệt" với mình. (Định kiến, bắt nguồn từ tiếng Latin, pre-judicium, có nghĩa là đi đến kết luận dựa trên cảm xúc chứ không phải dựa trên dữ liệu hoặc sự kiện đầy đủ dẫn đến một phán đoán khách quan, hợp lý.)

Là những người theo Chúa Giê-su, chúng ta không chỉ cần nhận thức mà còn phải thúc đẩy phẩm giá và quyền lợi của những người "khác biệt" do chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, lựa chọn lối sống, hoặc bất kỳ khuyết tật thể chất hay tinh thần nào. Thực ra, không phải những người khác biệt cần "trình diện trước các linh mục", mà chính chúng ta, những nạn nhân của căn bệnh định kiến, mới là những người cần được thanh tẩy khỏi nỗi sợ hãi, sự thiếu hiểu biết và sự không khoan dung. Chính những người truyền bá sự không khoan dung chứ không phải nạn nhân của họ mới là những người cần được giúp đỡ và chữa lành nhất.

Tin mừng của Chúa không thể bị xiềng xích

Vì vậy, trong Bài đọc II, trích từ Thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi Timôthê, Thánh Phaolô nói về những khó khăn mà ngài phải chịu đựng để rao giảng Tin Mừng:

…Tôi phải chịu đau khổ, thậm chí đến mức bị xiềng xích, như một tên tội phạm.

Thật đáng kinh ngạc khi thấy mọi người, kể cả chúng ta, chống đối việc nghe Tin Mừng biết bao! Nhưng cũng đáng chú ý không kém, Thánh Phaolô nói:

…lời Chúa không bị xiềng xích.

Ngày nay, ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn còn những người đang mòn mỏi trong tù, phải chịu những cực hình và sự sỉ nhục không thể diễn tả được vì đã chia sẻ Tin Mừng. Nhưng điều đó không ngăn cản Tin Mừng được truyền bá. Không gì và không ai có thể ngăn cản điều đó. Những người này, cùng với Thánh Phaolô, thể hiện xiềng xích và án tù của họ với niềm tự hào và niềm vui. Nguy hiểm hơn nhiều là xiềng xích của nỗi sợ hãi và sự ngu dốt mà rất nhiều người đang bị trói buộc.

Những người ngoài cuộc là ai?

Hôm nay, chúng ta cần tự hỏi bản thân, cả với tư cách cá nhân lẫn gia đình hay cộng đồng: Chúng ta công khai hay âm thầm gạt bỏ ai là “người ngoài cuộc”, “không phải là một trong số chúng ta”, những người mà chúng ta muốn con cái mình tránh xa – những người mà chúng ta đối xử, trên thực tế, như những người phong hủi.

Đúng vậy, tất cả chúng ta, giống như người Sa-ma-ri, đều cần được thanh tẩy, được chữa lành, được giải thoát khỏi mọi chất độc hại trong cơ thể, những thứ làm méo mó các mối quan hệ và cách chúng ta nhìn nhận những người xung quanh. Chúng ta cần thấy rằng đối với Chúa, hoàn toàn không có người phong hủi, không có người ngoài cuộc. Tất cả đều là gia đình, tất cả đều có chung một Cha, tất cả đều là con cái của Người, tất cả đều là anh chị em của nhau. Tất cả chúng ta cần được trao tặng cho nhau cùng một tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng ta.

https://livingspace.sacredspace.ie/oc281g/

 


Hãy là người có lòng biết ơn – Chúa nhật XXVIII Thường niên – Năm C

(Lc 17, 11-19)

Sống trong một xã hội ngày càng bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cá nhân, sự cạnh tranh và thực dụng, lòng biết ơn, một nhân đức nền tảng của đời sống con người và Ki-tô hữu, đang dần bị xói mòn. Người ta dễ dàng đón nhận ơn lành nhưng lại chậm trễ, thậm chí vô cảm, trong việc bày tỏ lòng biết ơn.

Trên mặt báo và xung quanh ta, thấy những câu chuyện đau lòng như con giết cha, hại mẹ, bỏ nhà đi, đánh đuổi cha mẹ, ấy chưa nói tới người coi trời bằng vung, hoặc sống như thể không có Thiên Chúa. Con người hôm nay đang bị lu mờ sự biết ơn trong tâm khảm mình.

Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn, vì thế, họ vô ơn.

Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác. Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ. Tạ ơn là lời cầu nguyện tốt nhất mà bất cứ ai cũng có thể dùng. Lời tạ ơn thể hiện lòng biết ơn, sự khiêm tốn và hiểu biết.

Bắt chước ông Na-an-man

Đoạn sách Các Vua quyển thứ hai (2 V 5, 14-17) thuật lại câu chuyện cảm động về Na-a-man, một vị quan lãnh binh quyền thế của vua Syria, đã được chữa lành bệnh phong cùi nhờ vâng phục lời dạy của tiên tri Ê-li-sa, người của Thiên Chúa.

Ban đầu, Na-a-man đến với tâm thế ngờ vực và kiêu căng. Là một người ngoại bang, ông không dễ dàng tin tưởng vào lời khuyên đơn giản: “Xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan” (x.2 V 5, 14). Tuy nhiên, nhờ lòng kiên nhẫn của các tôi tớ mình và cuối cùng là sự khiêm nhường, ông đã làm theo. Phép lạ xảy ra, ông được chữa lành hoàn toàn, “da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ” (x.2 V 5, 14). Đây không chỉ là một sự phục hồi thể lý mà còn là dấu chỉ của một cuộc hoán cải nội tâm sâu sắc.

Việc Na-a-man quay lại để cảm ơn và tuyên xưng: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Ít-ra-en” (2 V 5, 16) là lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ. Từ một người ngoại giáo, ông đã nhận ra quyền năng và sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa. Dù muốn dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn, nhưng tiên tri từ chối nhận thể hiện sự trong sạch, không lợi dụng quyền năng Thiên Chúa vì tư lợi.

Na-a-man xin mang một ít đất Ít-ra-en về, cử chỉ mang tính biểu tượng, thể hiện lòng tôn kính Thiên Chúa của Ít-ra-en và ý muốn gắn bó với đức tin mới tìm thấy. Qua câu chuyện, ta thấy được lòng biết ơn sâu sắc dành cho Thiên Chúa.

Lòng biết ơn của người Sa-ma-ri-a

Trình thuật Tin Mừng (Lc 17,11-19) kể lại phép lạ Chúa Giê-su chữa lành cho mười người phong cùi, những người bị xã hội loại trừ vì bị xem là ô uế cả về thể lý lẫn thiêng liêng. Họ đã cùng nhau cất tiếng kêu xin: “Lạy Thầy Giê-su, xin thương xót chúng tôi!” (Lc 17,13). Chúa Giê-su không chữa lành tại chỗ, nhưng truyền họ “hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14). Họ vâng nghe, lên đường, họ được sạch. Nhưng chỉ một người quay lại, sấp mình dưới chân Chúa và tạ ơn.

Người ấy là người Sa-ma-ri-a, một dân ngoại, bị coi thường bởi người Do Thái. Anh không chỉ được chữa lành thể xác, mà còn được Chúa tuyên bố: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi” (Lc 17,19).

Qua câu chuyện này, Chúa Giê-su nhấn mạnh đến giá trị của lòng biết ơn, không chỉ là phép lịch sự, mà là dấu chỉ của một tâm hồn nhận ra hồng ân Thiên Chúa và đáp lại bằng đức tin sống động.

Bài học cốt lõi về lòng biết ơn

Cả ông Na-a-man, một tướng quân người Syria, và người Sa-ma-ri-a, một bệnh nhân phong cùi, đều là những người ngoại giáo. Thế nhưng, chính họ lại là những người biết quay về, cúi mình, và tạ ơn sau khi được Thiên Chúa chữa lành.

Ông Na-a-man, sau khi được khỏi bệnh, đã trở lại với ngôn sứ Ê-li-sê và tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa quyên năng duy nhất (x.2 V 5,15). Còn người Sa-ma-ri-a, sau khi được lành, “quay lại, lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn” (Lc 17,15-16).

Điều đáng chú ý là cả hai đều nhìn nhận ơn họ được Chúa chữa lành. Ơn này trở thành điểm khởi điểm của đức tin, thay đổi tâm hồn. Họ không chỉ vui vì được khỏi bệnh, mà vui vì họ đã gặp được Thiên Chúa, Đấng yêu thương.

Trong khi đó, những người Do Thái trong Tin Mừng hay triều thần xung quanh Na-a-man lại không được nhấn mạnh đến lòng tin hay lòng biết ơn.

Trong một thế giới dễ quên ơn, chúng ta được mời gọi sống như Na-a-man và người Sa-ma-ri-a: biết ơn và biết quay về với Chúa.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét