23/07/2020
Thứ năm tuần 16
thường niên
BÀI ĐỌC I: Gr 2, 1-3.
7-8. 12-13
“Họ đã bỏ Ta là nguồn nước hằng
sống, để đào giếng rạn nứt”.
Trích sách Tiên tri
Giêrêmia.
Đây lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Ngươi hãy đi và hãy la vào tai
Giêrusalem rằng: Đây Chúa phán: Ta đã nhớ mối tình thanh xuân của ngươi, nhớ đến
tình yêu thời đính hôn của ngươi, khi đó ngươi theo Ta trong sa mạc, trong phần
đất chưa gieo trồng. Lúc ấy Israel đã được thánh hiến cho Chúa, và là hoa quả đầu
mùa của Người; những ai động đến nó, phải đắc tội và phải chuốc lấy tai hoạ”.
Chúa phán như vậy.
“Ta đã dẫn dắt các ngươi vào đất phì nhiêu, để các ngươi hưởng dùng hoa
quả của nó; nhưng vừa ở đó, các ngươi đã làm dơ bẩn đất của Ta và biến cơ nghiệp
Ta thành nơi ghê tởm. Các tư tế không nói: ‘Chúa ở đâu?’; (các kẻ) nắm giữ lề
luật không nhìn biết Ta, còn các chủ chăn thì phản bội Ta, và các tiên tri lại
nhân danh Baal mà nói tiên tri và chạy theo các bụt thần giả trá”.
Chúa lại phán: “Hỡi tầng trời, hãy kinh ngạc về điều này, và hỡi các cửa
trời, hãy ưu sầu thảm não! Vì chưng, dân Ta đã phạm hai tội xấu xa: Họ đã từ bỏ
Ta là nguồn nước hằng sống, để đào những giếng rạn nứt không giữ nước được”. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 35, 6-7ab.
8-9. 10-11
Đáp: Lạy Chúa, nguồn
sống là ở như nơi Chúa (c. 10a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, đức từ bi Ngài chạm tới trời cao; lòng trung tín của Ngài
vươn tới ngàn mây. Đức công minh của Ngài như núi non Thiên Chúa; sự phán quyết
của Ngài như biển thẳm sâu. – Đáp.
2) Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài; con người ta tìm nương tựa
trong bóng cánh của Ngài. Họ được ăn no đồ bổ dưỡng nơi nhà Chúa, và Chúa cho họ
uống bởi nguồn vui thú của Ngài. – Đáp.
3) Bởi chưng nguồn sống là ở như nơi Chúa, và trong sự sáng của Ngài,
chúng con nhìn xem sự sáng. Xin Chúa dành để tình thương cho những ai thờ Chúa,
và đức công minh Ngài cho những kẻ lòng ngay. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết
nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 10-17
“Về phần các con, đã cho biết
những mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không cho biết”.
còn họ thì không cho biết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: “Tại sao Thầy dùng dụ
ngôn mà nói với họ?” Người đáp lại: “Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm
Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư
dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn
mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu
chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: ‘Các ngươi lắng
tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra
chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và
lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành’.
“Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con
vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công
chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe
điều các con nghe, mà không được nghe”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Tại Sao Dùng
Dụ Ngôn
Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do
chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc
khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước
Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có
diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả
giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng
thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy
không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn,
vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu
xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống
trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan
trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu đã nói với các môn đệ: "Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu
nhiệm Nước Trời, còn họ thì không". Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp
nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu
rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì
kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi
nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của
Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài
cuộc: "Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng
tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các
con có phúc vì được nghe".
Ước gì chúng ta được vào số những người mà Chúa Giêsu cho là có phúc, tức
là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi
biến cố cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Jer 2:1-3, 7-8, 12-13; Mt 13:10-17
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Nếu những nhà lãnh đạo không nói và làm chứng cho Thiên Chúa, nhân loại sẽ quên
Ngài.
Có một câu truyện kể khi Chúa Giêsu khải hoàn trở về trời, sứ thần
Gabriel ra đón Chúa Giêsu và hỏi: “Loài người có nhận biết những gì Ngài làm
cho họ không?” Chúa Giêsu trả lời: “Các môn đệ của tôi sẽ nói cho họ biết.” Sứ
thần hỏi tiếp: “Điều gì sẽ xảy ra nếu họ quên không rao giảng?” Chúa Giêsu trả
lời: “Tôi tin là các môn đệ của tôi sẽ không làm chuyện đó.”
Bổn phận quan trọng nhất của các người lãnh đạo và các ngôn sứ là nói về
Chúa và làm mọi cách cho dân nhận biết Chúa; nhưng trong thực tế, nhiều người
lãnh đạo đã lãng quên bổn phận quan trọng này. Thay vào đó, họ chạy theo những
bụt thần và dạy cho dân làm theo như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo trong xã hội chúng
ta đang cố gắng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới: Họ cấm đọc kinh hay thinh
lặng nhớ đến Chúa trước giờ học; họ muốn cất đi bảng 10 điều răn trong các tòa
án …
Các bài đọc hôm nay muốn nhắc nhở cho mọi người bổn phận làm ngôn sứ của
Thiên Chúa. Trong bài đọc I, Thiên Chúa kết tội hàng lãnh đạo của Israel vì họ
đã không làm tròn bổn phận dạy dỗ dân. Trong Phúc Âm, khi các môn đệ hỏi Chúa
Giêsu lý do Ngài dùng dụ ngôn mà nói chuyện với dân chúng, Chúa Giêsu trả lời:
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì
không.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những người lãnh đạo của
Jerusalem đã không chu toàn bổn phận của mình.
1.1/ Hãy đi mà thét vào tai Jerusalem: Dân chúng rất mau quên; vì thế,
họ cần được các nhà lãnh đạo tinh thần nhắc đi nhắc lại tất cả những gì Thiên
Chúa đã làm cho họ. Nếu không, chỉ cần qua một thế hệ là những thế hệ đi sau sẽ
không còn biết gì đến Thiên Chúa nữa. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không ngừng nhắc
nhở cho dân chúng về tình thương của Thiên Chúa, được biểu lộ qua biến cố Xuất
Hành, 40 năm trong sa mạc, và đưa vào Đất Hứa.
Trong trình thuật hôm nay, chúng ta có thể nghe một sứ điệp tương tự. Đức
Chúa phán với Jeremiah: “Hãy đi mà thét vào tai Jerusalem như sau: Đức Chúa
phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu
của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất
chẳng ai gieo trồng. Bấy giờ Israel là của thánh thuộc về Đức Chúa, là phần hoa
lợi đầu mùa của Người; tất cả những ai ăn lạm vào đó đều phạm lỗi, chúng phải
mang tai mắc hoạ” – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta đã đưa các ngươi vào miền đất
xanh tươi để các ngươi được ăn hoa trái thổ sản của nó.” Mục đích của các ngôn
sứ khi nhắc lại những lời này là muốn dân chúng kiểm điểm lại nếp sống hiện tại
của họ, và quay trở về với tình thương trung thành của Thiên Chúa. Jeremiah viết:
“Nhưng một khi vào rồi (Đất Hứa), các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta, và biến
gia sản của Ta thành đồ ghê tởm.”
1.2/ Các nhà lãnh đạo không còn biết đến Thiên Chúa: Con cái Israel
được lãnh đạo bởi 4 thành phần chính sau khi lập nghiệp trong Đất Hứa. (1) Thoạt
đầu họ không có vua, vì Thiên Chúa chính là vua của họ; nhưng dần dần dân chúng
đòi các ngôn sứ phải đặt một vị làm vua cai trị họ. Ngôn sứ Samuel, sau khi
tham khảo ý Thiên Chúa đã đặt Saul làm vua đầu tiên cai trị Israel. Trong trình
thuật hôm nay, Jeremiah có lẽ gọi vua là các mục tử. Họ chống lại Thiên Chúa bằng
cách thiết lập các bàn thờ cho thần ngoại, và bắt dân chúng thờ lạy.
(2) Hàng tư tế: Họ chuyên lo việc thờ phượng trong Đền Thờ Jerusalem. Khi
vua Jeroboam đúc hai con bê bằng vàng cho dân chúng thờ, ông cũng thiết lập
hàng tư tế riêng để lo việc thờ phượng, mà không cần theo dòng tộc Levi. Hàng
tư tế, trong trình thuật hôm nay, cũng chẳng thèm hỏi: “Đức Chúa ở đâu?”
(3) Các kinh sư: là những người chuyên học hỏi Lề Luật và dạy dỗ cho dân
chúng. Nhưng dần dần, họ cũng chẳng còn biết Luật để dạy cho dân chúng tuân
theo.
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
Tất cả các nhà lãnh đạo này đã hoàn toàn gạt Chúa ra ngoài cuộc sống, và
đi theo những lợi lộc vật chất. Họ đã bỏ quên Chúa là nguồn nước hằng sống; để
thay bằng những giếng không giữ được nước. Vì thế, họ sẽ kinh hoàng khi nhìn thấy
hậu quả của những hành động này; tất cả những gì họ chạy theo sẽ hoàn toàn bị hủy
hoại.
2/ Phúc Âm: Những câu hỏi khó trả lời
(1) Tại sao dùng dụ ngôn? Trước hết chúng ta cần biết chút ít về dụ ngôn:
Dụ ngôn là những câu truyện dùng những hình ảnh bình dân và quen thuộc để diễn
tả những thực tại về luân lý. Chúng là những ví dụ đưa ra để giúp làm sáng tỏ
những gì đã đề cập tới. Vì thế, dụ ngôn không cần thiết nếu khán giả đã hiểu những
gì mà tác giả muốn nói. Dụ ngôn thích hợp với khán giả bình dân để người nói có
thể dẫn khán giả từ cái họ đã hiểu đến cái họ chưa hiểu, từ cái cụ thể đến cái
trừu tượng, từ cái thấy được trong hiện tại đến cái sẽ tới trong tương lai.
Chúa trả lời cho các môn đệ: phần các con đã được ban cho để thấu hiểu
các mầu nhiệm Nước Trời, nhưng họ thì chưa được. Để hiểu các mầu nhiệm Nước Trời,
các tông đồ đã được Chúa hướng dẫn từ các kiến thức căn bản trước khi có thể đi
xa hơn để hiểu các kiến thức cao sâu hơn.
(2) Tại sao người có lại cho thêm? Người không có sẽ bị tước đi những gì
họ đang có? Thoạt nghe qua có vẻ như là Chúa bất công, nhưng điều này rất đúng
trong lãnh vực tri thức: những ai đã có kiến thức căn bản, họ sẽ dùng những kiến
thức này để càng ngày càng hiểu biết những kiến thức khác nhiều hơn; những ai
chưa đạt được những kiến thức căn bản họ không thể tiến xa hơn. Những ai đã có
kiến thức căn bản mà không dùng tới thì lâu ngày sẽ mất đi. Điều này rất đúng
cho việc học ngoại ngữ. Có những người mặc dù đã học tiếng Spanish ở trung học,
nhưng nếu họ không dùng tới, những chữ đã biết rồi cũng mất đi; nhưng nếu có cơ
hội dùng tới thì càng ngày sẽ càng biết nhiều hơn.
(3) Tại sao Chúa làm cho mắt chúng mù, tai chúng điếc, và tim chúng ra
chai đá? Nếu Thiên Chúa làm như thế, họ còn trách nhiệm cho tội cứng lòng
không?
Trước tiên, chúng ta cần biết đây chỉ là một lối nói của người Do Thái vì
họ đã quá quen trong việc tin tưởng mọi sự xảy ra trong thế giới là do bởi
Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không tin Chúa là tác giả làm cho con người phạm tội,
vì con người có đầy đủ ý thức và tự do để làm những gì họ muốn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
Để tin Chúa cần phải biết về Ngài, nhưng làm sao biết nếu không có người
rao giảng về Chúa? Nếu cha mẹ và những người dạy dỗ đức tin không chu toàn bổn
phận quan trọng này thì làm sao thế hệ mai sau biết Chúa và tin vào Ngài?
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
23/07/2020 – THỨ NĂM TUẦN 16 TN
Th. Bi-ghít-ta, nữ tu
Mt 13,10-17
NƯỚC TRỜI LÀ CHÚA GIÊ-SU
“Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có
phúc vì được nghe.” (Mt 3,16)
Suy niệm: Một sinh viên đang gặp khủng
hoảng đức tin, tìm đến một vị thầy đáng kính. Nghe xong câu chuyện, vị thầy chỉ
phán một câu cụt ngủn: “Chúa có thật đấy!” rồi chấm dứt buổi gặp gỡ. Câu trả lời
‘trớt quớt’ lúc đầu không làm anh hài lòng, nhưng sau đó đọng lại mãi trong tâm
trí. Từ đó chân lý Chúa có thật trở nên rõ ràng hơn với anh. Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa nói về Nước Trời đang hiển hiện tỏ tường trước mắt các môn đệ: “Mắt
anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” Thế
nhưng, điều tỏ tường ấy lại là điểm mù đối với nhiều người. Bởi vì Nước Trời mà
Chúa rao giảng trước hết được bày tỏ nơi chính bản thân Ngài. Qua lời giảng dạy
khôn ngoan, qua các phép lạ kỳ diệu Ngài làm, Ngài tỏ mình ra là hiện thân của
Nước Trời tình yêu, sự thật, công lý và bình an. Do đó, ai không đón nhận Ngài
là từ khước Nước Trời, từ chối hạnh phúc vĩnh cửu của đời mình.
Mời Bạn: Người Việt Nam mình ai
cũng tin có Trời. Vậy tại sao đa số chưa tin Đức Giê-su là Chúa, là Trời? Thưa,
có nhiều lý do, mà một trong những lý do ấy là người Ki-tô hữu chưa chứng tỏ
mình là chứng nhân cụ thể, sống động của Tin Mừng Nước Trời. Nếu từng gia đình,
hội đoàn, hội dòng, giáo xứ, sống điều răn mến Chúa yêu người thì có thể sẽ có
nhiều người tin Chúa Ki-tô hơn.
Sống Lời Chúa: Tôi cố gắng thực hành điều
răn mến Chúa yêu người để giới thiệu Chúa cho người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con được
phúc vì nghe Tin Mừng Nước Trời. Xin cho con biết quý trọng và loan báo Tin Mừng
ấy mỗi ngày. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Anh em thật
có phúc
Suy niệm
:
Tiền định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.
Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân
sủng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.
“Bởi vì anh em
thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì
không” (c. 11).
Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một câu khác cũng cần được hiểu đúng: “Người đã có lại được cho thêm,
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo
đi.
Vào buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.
Còn một đám đông lớn người Do thái không tin nhận Ngài.
Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Như các môn đệ xưa, các Kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.
Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG BẢY
Thông Dự Vào Ánh
Sáng
Chúng ta đọc thấy trong Thư Cô-lô-sê: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha,
đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh
trong cõi đầy ánh sáng. Ngài đã giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa
vào Vương Quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ
tha tội lỗi” (Cl 1,12-14).
Vương Quốc của Thiên Chúa là Vương Quốc của “Thánh Tử chí ái”, theo một
nghĩa rất đặc biệt, bởi vì chính nhờ công cuộc của Người mà “ơn cứu chuộc” và
việc “thứ tha tội lỗi” được hoàn thành. Những lời của Tông Đồ Phao-lô ám chỉ đến
tội lỗi của con người. Vì thế, sự tiền định tác động hiệu năng không duy chỉ do
mối quan hệ của con người với việc sáng tạo thế giới và chỗ đứng của con người
trong thế giới. Một cách căn bản, sự tiền định đối với con người có liên hệ với
công cuộc cứu chuộc của Chúa Con – là Đức Giê-su Kitô.
Công cuộc cứu chuộc ấy trở thành một diễn tả cụ thể sự quan phòng cứu độ
của Thiên Chúa. Chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa, Cha chúng ta, cai quản mọi sự
một cách đầy quan tâm, nhất là đối với những thụ tạo mà Ngài đã trao ban cho sự
tự do.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23/7
Thánh Birgitta, nữ
tu
Gr 2, 1-3.7-.12-13;
Mt 13, 10-17.
LỜI SUY NIỆM: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có
phúc, vì được nghe.”
Trong Cựu ước dân
riêng của Thiên Chúa, chỉ được nghe tiếng của Ngài qua tiếng sấm và chỉ nhìn
tháy Ngài qua hình lửa: “Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám
lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh (Xh
19,18). Trong Chúa Giêsu, Người vừa là Thiên Chúa thật, vừa là con người thật,
đã đến trên thế gian để nói những lời của Thiên Chúa nói và làm những việc
Thiên Chúa làm. Nên Chúa đã loan báo cho những con người đang đi theo Chúa: Họ
là những con người thật có phúc, vì mắt được thấy những việc Thiên Chúa làm, và
tai được nghe những lời của Thiên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Nhờ có Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội với ơn ban của Chúa Thánh
Thần, mà chúng con nhận ra sự hiện hữu của Chúa khắp nơi và trong đời sống
chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn yêu mến Lời Chúa và siêng năng học hỏi
suy niệm Lời Chúa để ngày sống của chúng con nên tốt hơn.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 23-07: Thánh
BRIGITTA
(1303 – 1373)
Thánh Brigitta (hay là Birgitta) sinh ngày 14 tháng 6 năm 1303 tại
Upland, Thụy Điển, nơi cha Ngài cai quản, Mẹ Ngài, bà Ingeborg Phinsta, là con
của vị quan cai quản miền đông Goythland. Brigitta là con út trong số 7 người
con.
Truyền thuyết mặc cho cuộc sinh hạ của thánh nữ nhiều biến cố siêu nhiên.
Ngay trước khi sinh ra thánh nữ, mẹ Ngài đã thoát chết cách lạ lùng trong
một cuộc đắm tàu. Một linh mục được thị kiến, thấy “tiếng nói của con trẻ được
mọi người nghe theo”. Thực tế, Brigitta tới 3 tuổi mới nói được, nhưng lại nói
rất sõi làm cho láng giềng phải kinh ngạc.
Lúc lên 7 tuổi, một buổi sáng có bà mặc áo trắng hiện đến đầu giường, tay
cầm triều thiên và nói: – Brigitta, con có muốn thiên thần này không ?
Đứa trẻ đáp lời: – Dạ con muốn lắm chứ.
Và Đức trinh nữ đã đội triều thiên lên đầu Brigitta.
Buổi lên mười, Brigitta đã được nghe giảng về cuộc khổ nạn của Chúa,
Thánh nữ rất cảm động. Đêm sau, Chúa Giêsu hiện ra, mình đầy thương tích bê nết
máu. Chúa nói: – Con xem cha bị đối xử tàn tệ thế nào.
Đau đớn thánh nữ hỏi: – Lạy Chúa, ai làm cho Chúa bị thương tích như vậy
?
Chúa nói: – Những người khinh thường các giới luật và quên lãng tình yêu cha.
Chúa nói: – Những người khinh thường các giới luật và quên lãng tình yêu cha.
Những hình ảnh này không bao giờ phai mờ trong tâm trí Brigitta. Năm 1314
mẹ thánh nữ từ trần. Ngài sống với người dì. Năm 1316, vì vâng lời và ngược với
khuynh hướng tự nhiên, thánh nữ kết hôn với Ulj Gudmarsson, 18 tuổi, nghị viên
tương lai của vương quốc. Họ sinh được tám người con, 4 trai, 4 gái.
Hai người con trai chết sớm. Karl, người con trưởng nặng tinh thần thế tục,
nhưng lại rất kính mến Đức Mẹ. Birger, người con gái thứ hai, lập gia đình.
Nhưng sau này trở thành người cộng sự của mẹ và sẽ đem xác mẹ từ Roma về chôn cất
tại Thụy Điển. Ba người con gái khác đều lập gia đình Merita và Cêcilia ở lại
Thụy Điển. Còn Catarina sau khi mất chồng đã sống với mẹ (Brigitta tạ thế năm
1381 và được tuyên thánh năm 1476).
Người con trai thứ tư, Ingebord đã trở thành tu sĩ dòng Xitô.
Vua Magour vời thánh nữ vào làm cố vấn cho hoàng hậu Blanche. Ngài trở
thành người quản gia thứ hai trong triều sau hoàng hậu, nhưng đã cố gắng một
cách vô hiệu trong nỗ lực biến cải đời sống của hoàng hậu lẫn của nhà vua.
Sau một cơn bệnh nguy ngập và được Đức Trinh Nữ chữa lành, thánh nữ
khuyên chồng rời bỏ triều đình lui về nhà riêng họ đã sống đời gia đình gần như
sống trong tu viện.
Brigitta cùng chồng đi hành hương đền thờ thánh Giacôbê ở Compostella.
Trên cùng về, ông Ulf lâm trọng bệnh tại tu viện Alvasta. Năm 1943, nghĩa là 28
năm sau ngày cưới, ông qua đời và Brigitta sống đời sám hối gần tu viện Xitô ở
Alvasta. Khi sống tại đây thánh nữ soạn một bộ luật dòng, Ngài được kêu gọi
thành lập, nhưng sinh thời Ngài không bao giờ thấy được dòng ấy thành hình.
Chính Cararina, ái nữ Ngài, sẽ hướng dẫn nhà dòng phát triển mạnh mẽ, sau
khi được Đức Urbanô V châu phê năm 1370 và sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh nữ Brigitta được ơn tiên tri và thực hiện nhiều cuộc chữa trị lạ
lùng cho Giáo hội và xã hội. Chúng ta biết rằng: khi đã trở thành goá phụ,
thánh nữ đã sống đời khổ hạnh, ít ăn, ít ngủ và cầu nguyện không ngừng. Ngài
theo đuổi một luật sống nghiêm ngặt và thực hiện đủ công trình bác ái, đến nỗi
chính Ngài phải đi ăn xin. Dù vậy, Ngài không rút lui hoàn toàn vào cô đơn.
Ngài được linh ứng và cha tuyên úy của Ngài viết lại bằng tiếng La-tinh
dưới tựa đề “mạc khải”. Ngài cũng viết nhiều thư tín cho các Đức giáo hoàng,
các Đức Hồng y, các nhà cầm quyền để vạch trần những tật xấu của họ, cũng như
chỉ vẽ cách thế canh tân đời sống họ. Đối với nhà vua, Ngài chỉ trích các hà khắc
và khuyên sống với địa vị của mình. Ngài còn nhờ một giám mục mang thư khuyên
hai vua Anh và Pháp hòa giải với nhau. Đối với Đức giáo hoàng Clêmentê VI đang ở
Avignon, Ngài xin vị cha chung trở về Roma.
Năm 1349, thánh nữ đi hành hương Roma để dự năm thánh. Nhân dịp này, Ngài
xin toà thánh châu phê luật dòng, nhưng từ năm 1215 công đồng Lateranô IV đã cấm
lập thêm dòng mới. Đức giáo hoàng Urbanô V lại bỏ Roma sang Avigno sau khi châu
phê luật dòng của Ngài, năm 1370. Được ơn soi sáng, năm 1372, thánh Brigitta đi
hành hương thánh địa để cầu nguyện cho Giáo hội.
Năm 1373, thánh nữ trở về Roma và từ trần ngày 23 tháng 7. Mười tám năm
sau, Ngài được tuyên thánh, ngày 7 tháng10 năm 1391.
(daminhvn.net)
23 Tháng Bảy
Những Lọ Ðựng Muối Tiêu
Sưu tầm là một giải trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem,
nhãn hiệu, lon bia, chai lọ, sách quý… và lâu lâu đem triển lãm.
Tại một nhà thờ nọ tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật
sưu tầm, người ta thấy có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một
ông khách nọ vừa bước vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở cửa vào, đã vội
vã đi một vòng quan sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực
nhớ ra cái Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc
nhiều lần. Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải
trở lại cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: “Gần hai trăm cái lọ muối
thế kia mà không có lấy một hột muối”.
Ðó là hình ảnh của cuộc đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất,
nhưng lắm lúc chúng ta chỉ là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho
khỏi ươn thối. Muối dùng để sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm
cho thức ăn được thêm đậm đà…
Trong một xã hội đang thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là
muối để thanh tẩy và đem lại cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một
hành động của chúng ta, nếu có chút muối của Ðức Tin, Ðức Ái sẽ mang lại cho những
người xung quanh niềm vui và sức sống.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét