31/07/2020
Thứ sáu tuần 17
thường niên.
Thánh I-nha-xi-ô
Lôi-ô-la, linh mục.
Lễ nhớ
* Sinh năm 1491 tại Lôiôla miền Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên,
Inhaxiô theo binh nghiệp, phục vụ trong triều đình. Khi đã trở lại, người học
thần học ở Pari. Tại đây, cùng với mấy người bạn, người đã sáng lập
dòng Chúa Giêsu, thường gọi tắt là Dòng Tên (1534). Nhưng chính tại
Rôma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng khắp châu Âu và hăng hái truyền
giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh, hết lòng tuân phục Đức Giáo Hoàng.
Phương pháp linh thao của người vạch ra một con
đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang Thiên Chúa ngày một sáng ngời
hơn.
Người qua đời ở Rôma năm 1556.
BÀI ĐỌC I: Gr 26, 1-9
“Toàn thể dân chúng tập họp trước
Thiên Chúa”.
Trích sách Tiên tri
Giêrêmia.
Khi Gioakim, con của Giosia vua nước Giuđa mới lên cai trị, thì Chúa phán
rằng: “Đây Chúa phán: Ngươi hãy đứng giữa tiền đàng đền thờ Chúa, và bảo mọi
thành phố nước Giuđa đến thờ lạy trong đền thờ Chúa, hãy nói cho họ biết tất cả
những lời Ta truyền cho ngươi nói với họ: ngươi chớ bớt một lời; may ra ai nấy
nghe mà trở lại, và bỏ đàng tội lỗi của mình, mong Ta hối tiếc tai hoạ Ta định
giáng xuống họ, vì sự gian ác họ ưa thích. Và ngươi hãy bảo họ rằng: Đây Chúa
phán: Nếu các ngươi không nghe Ta để bước đi trong lề luật Ta đã ban cho các
ngươi, để nghe lời các tiên tri tôi tớ Ta mà ban đêm Ta chỗi dậy và điều động
sai đến các ngươi, và các ngươi không nghe, thì Ta sẽ để đền thờ này như Silô,
sẽ khiến thành này bị hết thảy các dân trên địa cầu nguyền rủa”.
Các tư tế, các tiên tri, toàn dân đều nghe Giêrêmia nói những lời ấy
trong đền thờ Chúa. Khi Giêrêmia nói hết những lời Chúa truyền cho ông nói với
toàn dân, thì các tư tế, các tiên tri, và toàn dân bắt ông và nói rằng: “Ngươi
phải chết! Tại sao ngươi nhân danh Thiên Chúa mà nói tiên tri rằng: ‘Đền thờ
này sẽ như Silô, thành này sẽ hoang vu không ai cư ngụ’?” Và toàn dân tập họp
phản đối Giêrêmia trong đền thờ Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 68, 5. 8-10.
14
Đáp: Lạy Chúa, xin
nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).
Xướng:
1) Những kẻ thù ghét con vô cớ, chúng nhiều hơn số tóc trên đầu con.
Chúng thực là mạnh thế hơn con, những con người phản hại con trái lẽ: điều mà
con không lấy, con cũng phải đền ư? – Đáp.
2) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con
bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như
kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi; điều tủi nhục
người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. – Đáp.
3) Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa con. Ôi Thiên Chúa,
đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo
ơn phù trợ trung thành của Chúa. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và
5a
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong
chân lý của Ngài. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 54-58
“Nào ông chẳng phải là con bác
thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?”
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội
đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: “Bởi đâu ông này được sự khôn
ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao?
Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải
là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta
sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?” Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: “Không tiên tri nào mà không được
vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình”. Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì
họ chẳng có lòng tin. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Tâm Thức Thời
Ðại
Dư luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách
bàn về tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai",
trong đó tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con
người khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con
người thích những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định
và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi
nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại
hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.
Tâm thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật
trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là
Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và
hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con
bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và
đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật,
như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu
luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa
hoặc tin nhận, hoặc chối từ.
Chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu
có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì
quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng
ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin
nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
Xin Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để
chúng ta nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những
biến cố hằng ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 17 TN2
Bài đọc: Jer
26:1-9; Mt 13:54-58
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự Thật thường bị bóp méo!
Con người thường không
muốn nghe và chấp nhận sự thật vì “sự thật mất lòng!” Chẳng hạn, các dân biểu sẽ
không muốn nghe các linh mục nói tới công bằng khi họ đang đối xử bất công để
tước đoạt quyền lợi của dân nghèo. Để che đậy tội lỗi của mình, con người thường
bóp méo sự thật bằng cách thêm vào hay bớt đi những lời dạy của Thiên Chúa, của
các ngôn sứ, hay của các đối thủ của họ.
Các bài đọc hôm nay
nêu bật những lý do làm con người không muốn chấp nhận sự thật. Trong bài đọc
I, Đức Chúa truyền cho ngôn sứ Jeremiah phải cẩn thận loan báo cho nhà Judah tất
cả những gì Ngài truyền và ông đã làm như thế; nhưng họ không những không muốn
nghe những lời ông loan báo, mà còn xúm lại bắt ông vì dám tuyên bố những thiệt
hại sẽ xảy đến cho Đền Thờ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu về Nazareth để dạy dỗ dân
chúng những sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Dân chúng tuy nhận ra sự khôn ngoan
tiềm ẩn nơi Ngài; nhưng vì kiêu ngạo và thành kiến, họ đã chối bỏ những gì Ngài
dạy dỗ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy tìm hiểu Sự Thật
1.1/ Sự thật đến từ Đức
Chúa qua tiên tri Jeremiah: Để tìm hiểu đâu là sự thật, chúng ta hãy cẩn thận
xem xét những gì Chúa truyền cho tiên tri Jeremiah nói và những gì tiên tri đã
loan báo:
– Lời Chúa phán: “Hãy
đứng ở tiền đình Nhà Đức Chúa và ngươi sẽ loan báo cho mọi người của Judah và
những người đang đến cầu nguyện trong Nhà Đức Chúa.Hãy loan báo cho chúng mọi lời
Ta truyền cho ngươi, đừng bớt lời nào. Có lẽ chúng sẽ nghe và quay trở lại, mỗi
người từ con đường xấu xa của mình, và Ta sẽ ngưng những tai hoạ mà Ta đang định
giáng trên chúng vì những hành vi gian ác của chúng đã làm.” Ngươi hãy bảo
chúng: “Đức Chúa phán như sau: Trừ phi các ngươi chịu nghe Ta mà sống theo Lề
Luật Ta đã thiết lập trước các ngươi, và vâng nghe những lời dạy bảo của các
ngôn sứ, tôi tớ của Ta, những người Ta sai đến với các ngươi mỗi sáng sớm, Ta
đã sai nhưng các ngươi đã chẳng chịu nghe Ta; Ta sẽ đối xử với nhà này như với
Shiloh, còn thành này Ta sẽ cho trở nên lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp
nơi trên trái đất.”
– Sau đó, bài đọc I tường
thuật: “Các tư tế, các ngôn sứ giả và toàn dân đã nghe ông Jeremiah loan báo những
lời này trong nhà Đức Chúa.” Điểm đáng chú ý ở đây là Chúa đã cẩn thận dặn
Jeremiah: “Hãy loan báo cho chúng mọi lời Ta truyền cho ngươi, đừng bớt lời
nào.”
1.2/ Sự thật Shiloh:
Trước khi hòm bia của Thiên Chúa được Vua David di chuyển về Jerusalem, hòm bia
của Thiên Chúa được giữ lâu năm ở Shiloh. Trong sách I Samuel, từ chương 4 đến
chương 6 có thuật lại lịch sử tại sao hòm bia Thiên Chúa bị di chuyển khỏi
Shiloh: Khi quân Israel bị quân Philistine đánh bại ở Êben-ha-Ezer, các kỳ mục
của Israel cố vấn cho dân chúng: “Hãy đi lấy hòm bia Thiên Chúa ở Shiloh đặt ở
giữa ta để cứu ta khỏi tay quân thù,” và họ đã đi lấy hòm bia. Tuy nhiên, họ đã
bị bại trận ngày hôm đó và hòm bia của Thiên Chúa đã rơi vào tay quân thù. Quân
Philistines mang hòm bia về Ashdod về đặt bên cạnh đền thờ của họ là Dagon. Cứ
mỗi sáng họ thấy thần Dagon nằm xấp mặt trước hòm bia Thiên Chúa của Israel,
còn đầu và hai tay của Dagon bị quăng nơi thềm cửa. Chúa còn giáng hoạ trên dân
chúng Ashdod bị sưng hạch khiến họ sợ phải gọi người Israel để trả lại hòm bia.
Từ Ashdod hòm bia được di chuyển tới Bet-Shemesh, và ở lại Kiriat-Yearim một thời
gian lâu trước khi được Vua David di chuyển hòm bia về Jerusalem.
1.3/ Sự thật bị bóp
méo bởi người nghe: Sau khi ông Jeremiah đã nói mọi điều Đức Chúa đã truyền cho
ông phải loan báo cho mọi người, thì các tư tế, các ngôn sứ giả, và toàn dân
túm lấy ông mà bảo: ‘Ông sẽ phải chết!’ vì ông đã dám nhân danh Đức Chúa mà
tuyên sấm rằng: ‘Nhà này sẽ nên như Shiloh, còn thành này sẽ ra điêu tàn, không
ai cư ngụ!’
Nếu chúng ta cẩn thận
đối chiếu những gì Chúa đã truyền cho tiên tri Jeremiah phải nói và những gì
toàn dân đã tố cáo ông, chúng ta nhận ra những điều sau:
– Họ đã không đá động
gì đến vế đầu của sấm ngôn: “Trừ phi các ngươi chịu nghe Ta mà sống theo Lề Luật
Ta đã thiết lập trước các ngươi, và vâng nghe những lời dạy bảo của các ngôn sứ,
tôi tớ của Ta, những người Ta sai đến với các ngươi mỗi sáng sớm, Ta đã sai
nhưng các ngươi đã chẳng chịu nghe Ta;” mà chỉ chú trọng đến hậu quả của sấm
ngôn, “Ta sẽ đối xử với nhà này như với Shiloh, còn thành này Ta sẽ cho trở nên
lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất.”
– Ngay cả việc lặp lại
các hậu quả họ cũng đã bóp méo sự thật. Chúa nói: “thành này Ta sẽ cho trở nên
lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất,” trong khi họ nói
“thành này sẽ ra điêu tàn, không ai cư ngụ!”
– Tại sao họ không chịu
đá động gì đến vế đầu của lời sấm ngôn? Có thể vì họ không nhận ra tội lỗi của
họ hay không muốn ai tố cáo tội lỗi của họ. Có thể vì họ ghét Jeremiah đến độ
chỉ muốn tìm sơ hở của những gì ông nói để có cớ kết tội ông!
2/ Phúc Âm: Sự Thật bị chết ngạt vì thành kiến và kiêu ngạo
2.1/ Tại sao người đồng
hương của Chúa Giêsu không nhận ra sự thật?
(1) Sự thật được hiểu
bởi người cùng quê hương Chúa: Chính những người cùng quê hương với Chúa đã nhận
ra ngay từ đầu sự khôn ngoan và uy quyền của Chúa khi họ sửng sốt và nói: “Bởi
đâu ông ta được khôn ngoan và uy quyền như thế?” Điều họ muốn tìm ra là “bởi
đâu” Chúa học được khôn ngoan và uy quyền như vậy?
(2) Sự thật bị gạt bỏ
vì kiêu ngạo và thành kiến: Thay vì tìm cho ra nguồn gốc “bởi đâu” để tin vào
Chúa họ lại bị kiêu ngạo và thành kiến che khuất để không còn nhìn ra sự thật.
Họ kiêu ngạo vì họ không muốn ai hơn mình, và thành kiến vì thói quen khinh thường
những người họ đã từng biết và chung sống với. Họ nói: “Ông không phải là con
bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải
là các ông James, Joseph, Simon và Judah sao? Và chị em của ông không phải đều
là bà con lối xóm với chúng ta sao?”
2.2/ Hậu quả của việc
chống lại sự thật:
Thay vì tìm hiểu bằng
cách hỏi Chúa để được Ngài cho biết lý do bởi đâu Ngài có được khôn ngoan và uy
quyền như thế, họ đã để kiêu ngạo và thành kiến che khuất sự thật; và phải lãnh
nhận hậu quả do chính họ gây nên. Thay vì “một người làm quan trăm họ được nhờ,”
họ đã vấp ngã vì Người. Chúa Giêsu đã nói với họ: “Không có tiên tri nào được
hưởng danh dự ở quê hương và trong gia đình mình.” Và Chúa Giêsu rời họ đi chỗ
khác vì họ cứng lòng tin.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Chúng ta hãy luôn
khiêm nhường đi tìm sự thật trước hết. Chúng ta đừng bóp méo sự thật vì bất cứ
lý do gì; nếu không, chúng ta phải lãnh nhận những hậu quả tai hại
– Chúng ta đừng để bất
cứ thành kiến nào che lấp sự thật. Hãy can đảm bênh vực và sống cho sự thật, vì
sự thật sẽ giải thoát.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
31/07/20 – THỨ SÁU TUẦN 17 TN
Th. I-nha-xi-ô Lôi-ô-la, linh mục
Mt 13,54-58
TRÂN TRỌNG CÁC MẦU NHIỆM
“Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như
thế?” (Mt 13,54)
Suy niệm: “Chúa ăn với một cái chén thường, và yêu cầu các
môn đệ ngồi trên cỏ. Ngài rửa chân họ, với một chiếc khăn choàng quanh ngực. Vậy
mà Ngài là Chúa của cả vũ hoàn” (Th. Clê-men-tê giám mục A-lê-xan-ri). Không
riêng chi người đồng hương Na-da-rét, bao người đã ngạc nhiên về cung cách của
Đức Giê-su, vị Thiên Chúa làm người. Dân chúng thán phục các phép lạ kỳ diệu
Ngài làm, lời lẽ khôn ngoan từ miệng Ngài phán ra. Thế nhưng, họ dừng lại ở đó,
vì bị thiên kiến về gốc gác của Ngài. Là người đồng hương, họ biết rõ gia thế,
nghề nghiệp, lý lịch của Ngài. Họ đâu ngờ nhờ Ngài, tên làng Na-da-rét từ nay
được cả thế giới biết đến. Họ sẽ càng bất ngờ hơn nữa về lý lịch thần tính của
người đồng hương: Vị Cứu thế của nhân loại, là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm
người.
Mời Bạn: Là người Ki-tô hữu, bạn xác tín Chúa Giê-su là nơi
gặp gỡ giữa vĩnh cửu và thời gian, sự hòa điệu giữa thần tính và nhân tính, sự
nối kết giữa trời và đất. Niềm xác tín ấy giúp bạn thêm lòng phó thác, cậy
trông, cũng như vững tâm bước theo Ngài, vì biết Ngài có quyền năng cứu độ
mình, vừa là người bạn thân thiết bên cạnh bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi tránh thái độ quen quá hóa nhàm, gần chùa gọi bụt
bằng anh trong đời sống đức tin. Luôn giữ cung cách thờ phượng, trang nghiêm
khi dâng thánh lễ, vừa cảm nhận sự sốt sắng khi được gần gũi Chúa như vậy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa buồn lòng vì thái độ coi thường
của người đồng hương Na-da-rét. Xin giúp con luôn cung kính, trân trọng các mầu
nhiệm thánh con cử hành mỗi ngày.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Đức Giêsu
về quê
Suy niệm :
Sau khi đã chịu phép Rửa,
vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức
Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại
ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã
sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này,
Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét như một ngôi
trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã
là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ
theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề
và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người
thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất
vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc
giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần
với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nadarét, đời
sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu
nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng
thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi
chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối
với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc
và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở
về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường
quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có
lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở
về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân
làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi:
Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu
được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa
họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng
Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng
gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng
anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà
họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình
thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng
Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức
Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ
về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến
sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của
Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu
nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn
ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nadarét đã
không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được
giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc
khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã
không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông
thợ thủ công.
Các môn đệ đã không
tin Chúa
khi thấy Chúa chịu
treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin
Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một
con người,
Cũng có lúc chúng con
không tin Chúa
hiện diện dưới hình
bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu
đuối,
trong một Hội thánh
còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn
mình
nơi những gì thế gian
chê bỏ,
để chúng con tập nhận
ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho
chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao
Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
31 THÁNG BẢY
Ngay Cả Sự Chết
Cũng Phục Vụ Cho Sự Sống
Chúng ta nhận thấy Cựu
Ước – trong khi nhìn nhận sự có mặt của nhiều loại sự dữ và đau khổ trong đời –
đã làm chứng hùng hồn rằng sự khôn ngoan và lòng từ ái của Thiên Chúa (biểu hiện
qua sự quan phòng thần linh của Ngài) tất thắng trên mọi sự dữ và đau khổ.
Cảm nhận này được
trình bày trong Sách Gióp, cuốn sách xoáy trọn vào chủ đề sự dữ và tiếng kêu ai
oán thất vọng. Cuốn sách quan trọng này (về chủ đề sự dữ) đôi khi được thấy như
một kiểm nghiệm hùng hồn ‘đo lòng’ người công chính. Nhưng đây chỉ là một khía
cạnh phụ thuộc của quyển sách mà thôi. Cốt lõi của quyển sách chính là sự đúc kết
vừa rõ ràng vừa công phu của tác giả rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Qua Sách
Gióp, chúng ta nắm bắt những giới hạn và bản chất phù du của mọi tạo vật. Chúng
ta nhận ra rằng một số hình thức của sự dữ thể lý có thể là do bản chất sa ngã
của thế giới gây ra.
Chúng ta cũng ý thức rằng
tất cả những gì thuộc vật chất đều ở trong một mối quan hệ hỗ tương gần gũi
nhau – như câu nói xưa: “Đây chết thì kia sống”. Như vậy, xét một mức nào đó,
ngay cả sự chết cũng phục vụ cho sự sống. Qui luật này cũng không loại trừ con
người – vì con người vừa là xác thịt vừa là tinh thần, vừa khả diệt vừa bất tử.
Trong chiều hướng này,
những ý tưởng của Thánh Phao-lô càng vén mở các chân trời rộng hơn nữa: “Dù con
người bên ngoài chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi
ngày càng đổi mới” (2Cr 4,16). Rồi ngài nói thêm: “Thật vậy, một chút gian
truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang
vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4,17).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 31/7
Thánh Ignatiô
Loyôla, linh mục
Gr 26, 1-9; Mt 13,
54-58.
LỜI SUY NIỆM: “Bởi đâu ông
ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông ta không phải là con
bác thợ mộc sao?
Người đồng hương của Chúa Giêsu, khi gặp lại Người tại quê nhà Nadarét; mặc dầu
họ có nghe biết bao phép lạ Người đã làm cho dân chúng, tại Galilê, khắp vùng xứ
Xy-ri, vùng thập tỉnh, thành Giêrusalem, miền Giuđê và bên kia sông Giođan (Mt
4,23-25) và mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa; giúp cho tất cả chuẩn bị tâm hồn
để đó nhận ơn cứu độ: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4,17)
giúp cho dân chúng chuẩn bị nhận lãnh ơn cứu độ. Nhưng người đồng hương của Người
không nhận ra Người. Mà chỉ nhìn qua gia đình của Người, một gia đình không có
gì hơn họ, để rồi dánh giá và không tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con ơn đức tin, tin để học hỏi về Chúa, và học hỏi
để tin vào Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
31-07: Thánh IGNATIÔ LOYOLA
Linh Mục (1491 –
1556)
Don Inigo Lopez de
Recalde sinh khoảng năm 1481 tại miền đồi núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là
con út trong số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa tội với tên
Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng thánh Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường
dùng tên Ignatiô thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người giúp việc cho một
người bạn quí tộc của một gia đình là Giuan Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần,
Ngài lại phục vụ bá tước Najera, phó vương miền Navarre. Ngài được giáo dục một
cách hời hợt. Thời đó, Ngài chỉ ham chơi, thích những chuyện hào hùng, nhất là
những ngày lễ duyệt binh.
Trong cuộc chiến Pháp,
Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân đội pháp đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa
Pampeluna. Nhiều người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết cầm cự.
Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị trúng đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển
về lâu đài ỏ Loyola. Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi đã bị xếp trật,
phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã can đảm chịu đựng cơn đau.
Thời gian dưỡng bệnh
lâu dài tiếp theo sau đó, không có sách vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc
hạnh các thánh. Gương mẫu đời sống các thánh làm mủi lòng Ignatiô. Ngài nói: –
Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?
Năm 1522, sau khi bình
phục, Ngài đi hành hương kính Đức bà Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc
xưng tội trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn xin, đặt gươm trên
bàn thờ Đức Mẹ và tới thành Manresa kế cận để phục vụ trong một nhà thương. Đã
một thời Ngài bị nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh quá độ. Ngài Ngài đã thoát
hiểm nhờ sự vâng phục hoàn tòan đối với cha giải tội. Chính tại Manresa, Ngài
được Thiên Chúa soi sáng, sự soi sáng hứơng dẫn trọn những ngày còn lại của cuộc
đời Ngài. Ngài viết cuốn linh thao, trong đó vạch ra những nguyên tắc mà một
người công giáo phải theo để “điều khiển đời sống mình” một đời sống nhằm ca tụng
Chúa, tôn kính và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài phác họa một giáo thuyết
của mình về sự chọn lựa và đòi hỏi để làm mọi sự để “vinh danh Chúa” (Ad
Majorem dei gloriam)
Thánh nhân ở lại
Manresa khoảng một năm và từ đó hành hương đi Palestina, trên đường đi có dừng
lại ở Roma. Sau khi đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài trở về
Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến trường, ngồi chung ghế với các
em nhỏ, để sữa chữa lại kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có thể dự lớp
tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả hai nơi này, đã Ngài bị truy tố ra tòa
án tôn giáo và bị tống giam ít ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết của Ngài đã thắng.
Năm 1528, Ngài bỏ
Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở Paris 7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được
sáu môn sinh đầu tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1534 bảy anh em đã long trọng
hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ đức nghèo khó và trong sạch, tại đền thờ
thánh Denis tại Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và hiến thân cho
việc cứu rỗi các linh hồn trong các miền còn ngoại giáo.
Ignatiô trở về Tây Ban
Nha. Năm 1535, tu hội đã lên tới 10 người. Họ gặp nhau ở Venitia, định cùng đáp
tàu đi hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa Trug Hải không cho
phép. Bù lại một số đi Roma, để Ignatiô tại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III
ưu ái tiếp họ. Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức Giáo hoàng cho Ignatiô
và 6 anh em được thụ phong linh mục.
Một năm sau, thấy rằng:
không thể tới thánh địa được, Ignatiô kết luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành
hương này. Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu “dòng Chúa Giêsu” dưới
quyền xử dụng của toà thánh. Họ đi Roma và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu
vào dịp lễ Giáng sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài soạn thảo hiến pháp
của dòng mới và đến trình diện Đức giáo hoàng Phaolô III. Đức giáo hoàng đã
phát biểu khi gặp họ: – Đây là bàn tay Thiên Chúa.
Và trong sắc lệnh
Regimini Militantis Ecclesioe, ban hành tháng 9 năm 1540 Ngài đã chính thức
công nhận hội dòng. Hội dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng lời, trong
sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo hoàng.
Trong hiến pháp đầu
tiên, hội dòng giới hạn con số có 60 tu sĩ. Ignatiô được đồng thanh bầu làm bề
trên ngày 7 tháng 4 năm 1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút lại bởi sắc
lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm 1543.
Ignatiô khó rời bỏ
Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng đã lan rộng tới mọi miền trên thế giới,
dưới quyền hướng dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào ngày 3
tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng với 101 nhà và gần 1000 phần tử.
Thánh Ignatiô được suy
tôn hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622.
(daminhvn.net)
31 Tháng Bảy
Tiếng Kêu Của Ếch
Một vị ẩn sĩ đạo đức
nọ nổi tiếng là người có thể sai khiến được thú vật.
Một buổi tối nọ,
ông đang tịnh niệm cầu nguyện, một con ếch không biết từ đâu cất tiếng kêu lên
inh ỏi. Vị ẩn sĩ cố gắng tập trung ý chí vào lời cầu nguyện để không còn nghe
tiếng ếch kêu nữa. Nhưng ông càng cố gắng, tiếng ếch càng kêu to. Không còn tự
chế được nữa, vị ẩn sĩ quát lên: “Hãy câm miệng cho ta cầu nguyện được không?”.
Mệnh lệnh đầy uy lực
của nhà ẩn sĩ đã bịt miệng được chú ếch. Thinh lặng trở lại với không gian.
Nhưng cũng chính lúc đó, nhà ẩn sĩ như nghe vang vọng trong tâm hồn ông một tiếng
kêu khác. Ông nghe như có người nói với ông rằng: “Có lẽ Chúa cũng ưa thích tiếng
kêu của ếch như lời cầu kinh của ngươi”. Vị ẩn sĩ hỏi vặn lại: “Tiếng kêu của ếch
mà cũng làm cho lỗ tai của Chúa vui được sao?”. Tiếng kêu trong tâm hồn ông đáp
trả: “Vậy thì ngươi có biết tại sao Chúa tạo ra âm thanh không?”.
Vị ẩn sĩ chợt hiểu
được bài học từ trong nội tâm… Ông đến bên cửa sổ và ra lệnh cho chú ếch: “Nào,
hãy hát lên đi”. Tiếng kêu của chú ếch vang lên, mấy chú ếch xung quanh cũng
hòa theo một nhịp tạo thành một bài ca lúc trầm lúc bổng, lúc dặt dìu, lúc tha
thiết… Ðêm vắng bỗng trở nên vui hơn.
Với sự khám phá
trên đây, trái tim của nhà ẩn sĩ bỗng trở nên hài hòa với vũ trụ và lần đầu
tiên trong đời, ông hiểu được thế nào là cầu nguyện.
Sự cầu nguyện thường cần
phải có một khung cảnh thích hợp. Có một không gian đặc biệt dành cho cầu nguyện,
có một quãng thời gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một bầu khí đặc biệt
dành cho cầu nguyện. Ðó là điều thiết yếu dành cho cuộc sống con người… Ðó là
lý do hiện hữu của một bàn thờ nhỏ trong nhà, đó là mục đích của các ngôi thánh
đường.
Tuy nhiên, sự cầu nguyện
sẽ đánh mất của nó, nếu con người đóng khung nó trong một khung cảnh và bầu khí
đặc biệt. Cầu nguyện là một gặp gỡ với Chúa và đồng thời cũng là một giao kết với
tha nhân. Thiên Chúa, chúng ta không thể đóng khung trong bốn bức tường vắng lặng
của nhà thờ. Con người, chúng ta phải gặp gỡ ngay trên chợ đời.
Thành ra, lời cầu nguyện
đích thực phải là lời cầu nguyện mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa trong
bất cứ hoàn cảnh nào, trong bất cứ lúc nào, bằng tất cả cuộc sống. Lời cầu nguyện
đích thực là lời cầu nguyện được thốt lên trong thời thuận tiện cũng như không
thuận tiện. Lời cầu nguyện đích thực là cả một cuộc sống tuân phục ý Chúa, một
cuộc sống hài hòa với tha nhân, một cuộc sống “xin vâng” trong từng phút giây.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét