11/07/2020
Thứ Bảy tuần 14
thường niên.
Thánh Bênêđictô,
viện phụ.
Lễ nhớ.
* Chào đời quãng năm 480 tại
Noóc-xi-a (Um-ri-a). Sau một thời gian theo học ở Rôma, Bênêđictô rút lui vào một
hang ở Xu-bi-a-cô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ các đồ đệ rồi
chuyển đến Montê Cátxinô. Tại đây, người lập một đan viện thời danh, chính người
soạn tu luật cho đan viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp
châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương
Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547.
Từ cuối thế kỷ 8, người đã được
kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.
Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức
Giáo Hoàng Phaolô 6 ra tông thư “sứ giả hòa bình” (Pacis nuntius), đặt người
làm bổn mạng toàn châu Âu.
Bài Ðọc I: (Năm II) Is 6,
1-8
"Lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi
trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn
thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ. Các Thần Sốt
Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh phủ
chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng: "Thánh, Thánh,
Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang
Chúa!" Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền thờ đầy
khói.
Tôi nói rằng: "Vô phúc cho
tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là
Chúa các đạo binh". Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi,
tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ. Ngài đặt than
lửa vào miệng tôi và nói: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi
ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ". Và tôi nghe tiếng
Chúa phán bảo: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng Ta?" Tôi liền
thưa: "Này con đây, xin hãy sai con".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5
Ðáp: Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc
thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ
không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có
Chúa. - Ðáp.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất
đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn
đời. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa
cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ
lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 24-33
"Các con đừng sợ những kẻ giết
được thân xác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ
được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ
nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những
người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm
mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh
sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ kẻ giết được
thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả
xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền
đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần
các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con
còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước
mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời.
Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là
Ðấng ngự trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðừng Sợ Người Ðời
Mahatma Gandhi, nhà tranh đấu bất
bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần nhắn nhủ các
môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ điều
đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo lực đáp trả
bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người dùng bạo lực.
Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng thái thú hóa của
họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực có thể đánh đập
và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh thần và quyền lợi
của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình thương sẽ chiến
thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương, bởi vì nếu sống
theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù lòa".
Ðã từng vào tù ra khám, đã từng bị
đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt.
Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá khích. Cái chết của
ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm chứng cho sự
thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con người, Mahatma
Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng
hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực sự dữ, không sợ
hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được linh hồn; sống
trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào tình trạng hóa
thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, mà
không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta
nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ
chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn
trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng và
chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những thực tại
ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật chất hay
là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn Thầy, tôi
tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt,
bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ
đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường,
là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài,
chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng
ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn
chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Bảy Tuần 14 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Isa 6:1-8; Mt 10:24-33
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn sứ phải nói những gì Thiên
Chúa truyền.
Các bài đọc hôm nay tập trung
trong ơn gọi ngôn sứ và những gì ngôn sứ phải làm. Trong bài đọc I, Isaiah tường
thuật ơn gọi ngôn sứ của chính mình. Ơn gọi ngôn sứ bắt nguồn từ Thiên Chúa,
không do bởi con người, nhưng họ có tự do đáp trả. Họ được thánh hiến và giáo
huấn trước khi được sai đi để làm phát ngôn viên cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ những gì phải làm và những gì không được làm trước
khi sai các ông lên đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa gọi Isaiah làm ngôn sứ cho Ngài.
1.1/ Ngôn sứ nhận thức được sự thánh
thiện của Thiên Chúa và tội lỗi của mình.
Ngôn sứ Isaiah hoạt động tích cực
tại Jerusalem trong 4 đời vua: Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Triều đại của
vua Uzziah cai trị trong 50 năm chấm dứt một triều đại an lành và hạnh phúc. Từ
đó trở đi, các vua Judah kế tiếp và toàn thể dân chúng cũng chẳng khác gì các
vua của Israel. Họ sống kiêu ngạo xa Thiên Chúa, sống hưởng thụ, và sống bất
công với người nghèo.
Một trong những điểm đặc biệt
trong Sách của ngôn sứ Isaiah là muốn làm nổi bật sự thánh thiện của Thiên Chúa
và sự tội lỗi của con người. Trình thuật hôm nay là một điển hình. Thị kiến hôm
nay có lẽ xảy ra trong Đền Thờ Jerusalem. Hình ảnh các Seraphim có 6 cánh rất
phổ thông trong các quốc gia vùng Cận Đông. Khi các Seraphim tung hô
"Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất
rạng ngời vinh quang Chúa!" các Ngài tuyên dương sự thánh thiện tuyệt đỉnh
của Thiên Chúa, không một ai trên bầu trời này thánh thiện như Ngài. Đền Thờ tỏa
khói mịt mù nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài người, như Ngài đã từng
hiện diện với con cái Israel trong Cột Mây và Lều Hội Ngộ, khi họ lang thang 40
năm trong sa mạc.
Khi nhận diện ra sự thánh thiện
vô cùng của Thiên Chúa cũng là lúc Isaiah nhận ra sự tội lỗi bất xứng của mình,
đến nỗi Isaiah phải thốt lên: "Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một
người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy
Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!" Truyền thống Do-thái tin không một ai
nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống (Exo 33:20). Isaiah tin chắc ông sẽ phải chết
nếu Thiên Chúa không can thiệp.
1.2/ Ngôn sứ được thánh hiến bằng lửa: Trình thuật kể: “Một trong các thần Seraphim bay về phía
tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ.” Thánh
hiến bằng than hồng có lẽ là một hành động biểu trưng cho sự thánh hiến tâm hồn
của Isaiah. Chính hành động này đã làm cho ngôn sứ Isaiah được sạch tội và khỏi
phải chết, như lời sứ thần Seraphim tuyên bố: "Đây, cái này đã chạm đến
môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội." Miệng lưỡi của ngôn sứ là khí
cụ quan trọng nhất trong sứ vụ của ngôn sứ; có lẽ đây là lý do sứ thần đưa hòn
than ấy chạm vào miệng ngôn sứ.
Ơn gọi ngôn sứ là ơn gọi hoàn
toàn tự nguyện: Thiên Chúa gọi và người được gọi đáp trả. Thiên Chúa mời gọi
ngôn sứ qua việc đặt câu hỏi: "Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng
ta?" Isaiah được sự thúc đẩy từ bên trong đã mạnh dạn thưa: "Dạ, con
đây, xin sai con đi."
2/ Phúc Âm: Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban
ngày.
2.1/ Ba thái độ phải có của người
môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ trung thành của
Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
(1) Sẵn sàng chấp nhận gian khổ:
"Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Người môn đệ Đức Kitô
chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu
muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: "Trò không hơn thầy, đầy tớ
không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ
nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà."
Trong khi rao giảng hay làm việc
tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống đối, đe dọa
và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời không muốn
nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người môn đệ nói phải
tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả ngồi dưới đã từng
ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang khi khán giả gởi
cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con cái cho nhiều
đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
(2) Không được sợ hãi người đời:
Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống đối,
người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng; ngược lại,
ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều này không phải
là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ: "Vậy anh
em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ,
không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm
hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái
nhà rao giảng."
Khi làm chứng cho sự thật, các
môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường hợp của
các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật, vì
các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các
ngài được sống đời đời.
(3) Phải tin tưởng nơi sự quan
phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ:
Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải
không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh
em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." Thứ hai, tóc trên đầu:
Ngài nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi." Tóc
trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô nghĩa
rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là số phận
của những người môn đệ Chúa.
Trong sự quan phòng của Thiên
Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của con
người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người
không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
2.2/ Phần thưởng cho những môn đệ sống
trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói
rõ ràng với các môn đệ: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ,
thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời."
Ngược lại, "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy
trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Người nào không dám tuyên xưng
danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là
môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận những người
như thế trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Ngôn sứ phải nói những gì Thiên
Chúa truyền, cho dù lời ấy người đời không thích. Khi người ngôn sứ nói ngược lại
những lời Thiên Chúa truyền, ông tuyên án cho chính mình.
- Mỗi tín hữu đều nhận ơn gọi làm
ngôn sứ cho những người có trách nhiệm. Chúng ta phải chu toàn bổn phận được
giao bằng việc trao ban cho tha nhân những lời dạy của Ngài.
Lm Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
11/07/20 Thứ Bảy Tuần
14 Thường Niên
Th. Bê-nê-đi-tô, viện
phụ
Mt 10,24-33
Mt 10,24-33
CÁI GIÁ CỦA CON NGƯỜI
“Ngay đến tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi...
Anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt
10,30-31)
Suy niệm: Không
có gì lạ dưới ánh mặt trời, nhất là dưới con mắt của Thên Chúa toàn năng. Thế
nhưng con người vẫn thấy sợ hãi mỗi khi phải đối diện với những khó khăn xảy ra
cho mình, chẳng hạn như chuyện đau ốm, mất việc làm, chuyện thi cử... Thế mới
hay con người là một sinh vật biết mình phải sợ cũng như biết mình phải chết vậy.
Chúa hiểu thấu thân phận con người nên không ít lần Ngài an ủi chúng ta đừng
quá lo âu sợ hãi trước số phận “hẩm hiu” của kiếp làm người. Nếu chúng ta có
đáng giá hơn muôn vàn chim sẻ thì cũng chẳng có là bao. Thực ra “con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm
nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,5) Chúng ta đáng giá vì được Chúa
quan tâm đến độ Ngài biết từng sợi tóc trên đầu ta, nghĩa là chúng ta “có sao”
với Chúa thì Chúa mới làm như thế chứ!
Mời Bạn: Biết
mình được Chúa thương yêu và chăm sóc đặc biệt để rồi chúng ta biết quí trọng
chính sự sống của mình và tôn trọng sự sống của tha nhân. Hằng ngày có biết bao
nhiêu chuyện xảy ra làm tổn thương sự sống: từ chiến tranh, khủng bố đến nhậu
nhẹt, nghiện hút, đánh nhau, phá thai... Bạn hãy ra sức ngăn ngừa và khuyên nhủ
những anh chị em đang vô tình hay hữu ý đánh mất cái giá của con người mà Chúa
đã dựng nên và cứu chuộc.
Sống Lời Chúa: Tham
gia vào một hoạt động bài trừ những tệ nạn trên trong khu xóm của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa,
xin cho con hiểu rằng hạnh phúc của con người chính là vinh quang của Chúa để
con biết bảo vệ sự sống.
(5 phút Lời Chúa)
Anh em đừng sợ
Vấn đề không phải là trở nên vô
cảm, không biết sợ là gì. Nhưng là biết sợ ai.
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim
con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui
bất diệt
của người một lòng theo
Chúa.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng 7
11 THÁNG BẢY
Con Đường Tiến Tới Thành Toàn
Sự quan phòng bao trùm một cách đặc biệt những
tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài – tức con người.
Con người nhận được “sự tự trị của những hữu thể thụ tạo” trong ý nghĩa đầy đủ
nhất theo diễn tả của Công Đồng Vatican II (MV 36). Nhưng không chỉ con người
mà thôi – vì còn phải kể đến các tạo vật có bản tính tinh thần thuần túy nữa.
Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau – vấn đề liên quan đến thế giới vô
hình.
Trong thế giới hữu hình, đối tượng đặc biệt của
sự quan phòng thần linh là con người. Theo ngôn ngữ của Công Đồng Vatican II,
“con người là tạo vật duy nhất trong thế giới được Thiên Chúa yêu thương vì
chính nó” (MV 24). Vì thế, “con người không thể hoàn thành chính mình nếu không
chân thành trao hiến chính mình” (MV 24).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thứ Bảy 11-07
Thánh Bênêđictô, viện phụ
Is 6,1-8 ; Mt
10, 24-33
LỜI SUY NIỆM: “Anh em
đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn anh em hãy
sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.”
Với Đức tin của chúng ta, Chúng ta tin trong
con người có hai phần, một phần xác là tro bụi, là đất, nó sẽ chết, để trở về với
bụi tro, với đất; còn một phần nữa là phần linh hồn, linh hồn là thiêng liêng
nó bất tử. Chính sự bất tử này trong ngày tận thế, nó sẽ kết hợp với xác của
mình đã sống chung, để nhận lãnh án phạt hay sẽ được thưởng hạnh phúc muôn đời
với Chúa. Nên Chúa muốn chúng ta phải biết giá trị đích thực để phải sợ những
gì và không sợ những gì.
Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa ban cho mọi thành
viên trong gia đình chúng con ơn biết Kính Sợ Chúa, yêu mến Chúa trên hết mọi sự,
và biết quý trong thân xác và linh hồn của mình cũng như của người anh em.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-07:
Thánh BÊNÊDITÔ
Tu Viện Trưởng (480 - 547)
Thánh Bênêditô, tổ phụ các dòng tu bên tây
phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia. Hai nguồn chính về cuộc đời thánh
Bênêđitô là cuốn Dialogne (đối thoại) của thánh Grêgôriô Cả và cuốn qui luật của
chính thánh nhân. Cuốn Dialogne thâu thập các phép lạ được coi là do thánh nhân
thực hiện. Giá trị của các phép lạ này tùy theo thẩm quan và theo cách thức phê
phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho chúng ta những sự kiện quí giá. Cha mẹ
Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền quê. Ngài lớn lên tại gia đình. Năm 14
tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc việc học hành. Các độc giả ngày nay có
thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi Cyrilla của Ngài đi theo.
Sự suy đồi của Roma làm cho người thiếu niên
nhà quê này khiếp sợ. Dầu có vú nuôi đi theo, thánh nhân trốn khỏi kinh thành
hai hay ba năm sau đó. Ngài biết rằng: Thiên Chúa muốn gọi mình sống đời tu
trì. Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu lại ít lâu ở Enfide, cách Roma 35 dặm.
Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống đời ẩn dật tu trì. Tại Subianô, Ngài gặp
một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi: - Bạn ơi, bạn đi đâu vậy ?
- Tôi trốn thế gian và đi tìm cô tịch.
Rômanô khen ngợi ý định đạo đức của thánh
nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những lời khuyên nhủ quí báu. Thầy
cho Ngài một bộ áo nhà tu, là một tấm da cừu và chỉ cho Ngài một cái hang. Nhận
bộ áo nhà tu, Bênêditô lần mò tới cái hang ở giữa triền dốc Montê Calvô. Ngài
đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Thực phẩm
Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi tới bằng một cái thúng cột
giây thả xuống.
Quỉ dữ tức giận vì các nhân đức của thầy dòng
trẻ tuổi. Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để lôi kéo Ngài bỏ sa mạc trở về thế
gian. Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi các cơn cám dỗ. Một lần kia bị
cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài liền cởi áo và lăn mình vào bụi gai đến
chảy máu ra. Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè nén và không còn khuấy khuất
Ngài nữa.
Tuy nhiên, các mục đồng đã khám phá ra Ngài và
danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng. Một tu viện gần đó mời Ngài về làm bề
trên. Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng và muốn áp dụng một qui luật,
Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu. Họ còn đi đến quyết định hãm hại
người khác nữa. Đến bữa ăn thánh Bênêditô làm dấu thánh giá trên chén rượu như
thói quen, chén liền vỡ tan. Ngài nói với họ: - Xin Chúa tha thứ cho các anh. Tại
sao các anh làm như vậy ? Tôi đã chẳng nói với các anh rằng : chúng ta không thể
sống chung được với nhau là gì ? Vậy các anh hãy đi tìm một bề trên khác hợp ý
các anh hơn.
Rồi thánh nhân tìm lại cô tịch để sống thân mật
một mình với Thiên Chúa. Dầu vậy danh tiếng của thánh nhân lan rộng tới Roma.
Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa. Nhiều người tìm đến xin làm môn đệ
Ngài. Tiếp nhận họ, Ngài đã phải thiết lập 12 tu viện nhỏ. Có những gia đình
quí phái mang con đến gởi thánh nhân. Chúng ta phải kể đến trong số này hai thiếu
niên Placidê và Maurô là những người sau này đã trở nên các vị thánh.
Nhân đức các phép lạ của thày dòng cao cả này
đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu oan nữa. Thánh Grêgôriô cho chúng ta
biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét xua đuổi, Bênêditô phải dời bỏ Subianô.
Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được Chúa gọi đến Cassinô. Dầu sự thực có thế
nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm 520 và 530, thánh Bênêditô cùng với vài người
bạn đã rời bỏ Subiacô tới Cassinô. Trên núi Cassinô có một ngôi đền cổ và một
cánh rừng dâng kính thần Apollô. Ngài rao giảng Tin Mừng cho dân cư vùng này và
phá rừng khai hoang. Sau khi triệt hạ ngôi đền cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà
nguyện kính thánh Gioan tẩy giả và thánh Martinô. Đó là nguồn gốc của tu viện nổi
danh Montê Cassinô.
Thánh Bênêditô đã sống tại đây cho tới hết đời.
Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ luật dòng ảnh hưởng rất lớn trong đời sống
tu trì của Giáo hội. Theo luật sống này, một ngày của tu sĩ được phân phối cho
ba hoạt động chính là cầu nguyện, học hành và lao động.
Mọi hoạt động của thánh nhân đều nhằm thi ân.
Người ta còn kể lại nhiều phép lạ Ngài đã thực hiện. Chẳng hạn như Ngài chữa
cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều người chết sống lại, Ngài
còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về tương lai. Chúng ta ghi lại
giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua Totila. Nhà vua muốn kiểm
chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều bí mật. Ông cho biết mình sẽ
đến thăm thánh nhân. Nhưng thay vì đích thân đến, ông lại sai một viên chức tên
là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng đông đảo. Thánh nhân vẫn ngồi
khi thấy ông tới và nói với ông: - Con ơi ! Cởi áo ra đi. Nó không phải là của
con,
Đến luợt Tôtila, ông đến thăm người của Chúa,
ông quỳ mọp dưới chân thánh nhân, nhưng đã ngạc nhiên khi nghe Ngài nói: - Hãy
giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã gây quá nhiều sự dữ. Ong sẽ tiến vào
Roma, cai trị trong chín năm. Năm thứ 10 ông sẽ từ trần.
Lời tiên báo của thánh nhân đã được thể hiện đầy
đủ. Ngài còn cho biết rằng tu viện Monte Cassinô sẽ bị tàn phá. Lời tiên báo
này cũng đã xảy ra. Năm 590, tu viện bị người Combarde cướp phá. Năm 1943, bọn
đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.
Thánh nhân tiếp tục làm nhiều phép lạ, do lòng
bác ái thúc đẩy. Vào cuối đời, Ngài được thị kiến, thấy địa cầu chói sáng và
linh hồn của thánh Germain được các thiên thần đưa về trời.
Ngài cũng đã thấy linh hồn của em mình là
thánh nữ Scolastica về trời như vậy. Bốn mươi ngày sau cái chết của người em
gái thánh nhân cho biết về cái chết của em mình. Sau khi đào mộ cho mình, thứ bảy
ngày 21 tháng 3 năm 543 Ngài từ trần như lời loan báo trước.
(Daminhvn.net)
11 Tháng Bảy
Một Quy Luật Ðơn Sơ
Hôm nay Giáo hội tôn kính nhớ
thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn thể Châu Âu.
Vào cuối thế kỷ thứ 5, đế quốc
La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người mà thế giới Kitô tại Âu Châu
gọi là dân man di.
Một người thanh niên thuộc dòng
dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc loạn nhiễu
nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Subiaco để dìm mình trong cuộc sống ẩn dật.
Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy mà chàng đã nghe được tiếng Chúa phán
trong tâm hồn: có nhiều giá trị của đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn. Càng
ra sức làm việc để đem lại sự thống nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.
Lấy những thôi thúc ấy làm lý tưởng
cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ xung quanh mình
một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện đầu tiên tại Montecassino.
Chàng đã nói với Mauro, Placido
và những người môn đệ đầu tiên như sau: "Chúng ta giam mình trong bốn bức
tường kiên cố không phải là để xa cách những người khác, nhưng là để tiếp nhận
từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế giới, để học hỏi một cách
sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo vừa nhân bản và làm cho nền văn minh ấy
chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta. Tôn chỉ của chúng ta là thập
giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và lớn lên với sự cầu
nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động".
Những điểm chính trong quy luật
của chúng ta là: Hát bảy lần một ngày để ca tụng Chúa và làm cho màn đêm tăm tối
cũng được ấm cúng với lời ca tụng này. Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra nhiều giờ để lao
động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và dịch lại những tác phẩm cổ
điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em của nhau, nhất là tại bàn
ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng thức chút rượu.
Vị thánh đã đưa ra chút quy luật
đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể Âu Châu, bởi vì nền văn
minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của thế giới ngày nay đã
phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung trong yêu thương để ca tụng
Chúa và phục vụ con người.
Giữa cơn khủng hoảng của đời sống
tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu hết các nước Tây phương,
người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện sống đời chiêm niệm vẫn
tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới dư dật, nhưng trống rỗng,
hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu phải cầu nguyện,
phải sống kết hợp với Chúa.
Ðời sống tu trì, dù bất cứ dưới
hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ hãi trước thế gian...
Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh con người. Người tu
sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến tạo một xã hội
nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.
Ðó không chỉ là sứ mệnh của người
được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện, mà cũng là sứ mệnh của mọi
người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để thoát tục, để đi ngược lại
tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức mạnh của sự dữ để ra sức
kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa thế giới, nhưng không thuộc về
thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi và sứ mệnh của họ là kiến tạo
Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên chính những cái
chóng qua ở đời này.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét