03/07/2020
Thứ sáu đầu tháng, tuần
13 thường niên
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ.
Lễ kính.
* Vào lúc Đức Giêsu chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh
Tôma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của Tôma, Đức Giêsu nói:
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức
Giêsu đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức
Giêsu cho Tôma thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, Tôma mới tuyên xưng: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn
Độ. Từ thế kỷ 4, người ta mừng ngày rước hài cốt của ngài về Ê-đét-xa, tức
là ngày 3 tháng 7.
Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không
còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các
Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các
Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong Người,
tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả
anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự
trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi
khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.
2) Vì lòng từ bi Người vững bền
trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! - Tôma, vì
con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 24-29
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ,
có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến.
Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa".
Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở
tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay
vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp
nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa
Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người
nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn
tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma
thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với
ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không
thấy mà tin".
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Thánh Tôma Tông Đồ
Khi nói đến ai đồng dạng với
“Tôma”, điều đó không có gì là nâng bi. Đó là thái độ bình thường của bất cứ
tín hữu nào, bất cứ Kitô hữu nào.
Tôma không tin các bạn tông đồ,
đúng thế; nhưng ông không do dự khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho tin. Không phải
là lời chứng của các tông đồ làm chúng ta tin Đức Kitô Phục Sinh, Con Thiên
Chúa, và phúc cho chúng ta, chính Đức Kitô làm chúng ta tin.
Các sách Tin Mừng...
Chúng ta biết chắc rằng các sách
Tin Mừng không được Đức Giêsu viết ra. Chúng ta biết chắc rằng những bài giảng
của Đức Giêsu chỉ là những bản tóm tắt, sơ sài biết bao. Tuy nhiên, khi Gioan,
Luca, Matthêu hay Mác-cô viết rằng: “và Đức Giêsu nói....”, chúng ta tin những
lời các thánh sử Tin Mừng truyền lại cho chúng ta, những lời đó chúng ta nghe
chính miệng Đức Kitô.
Tôma...
Chính Ngài làm chứng cho chúng
ta về Đức Kitô Phục Sinh, nhưng cũng nói cho mỗi người chúng ta rằng, chúng ta
cũng có thể tin các thánh sử Tin Mừng, các Ngài là những chứng nhân chính thức,
còn chính Đức Kitô cho chúng ta đức tin nhờ các Ngài và nhờ Giáo Hội.
Khi Giáo Hội dạy, Giáo Hội nói lời
Chúa cho chúng ta. Giáo Hội chỉ là người mang tiếng nói của Ngôi Lời. Chính
Ngôi Lời nói, luôn luôn là thế. Các Giám Mục là người kế vị các tông đồ, không
phải là các nhà thần học. Nên chúng ta phải chú ý nghe các Ngài, thì không nhất
thiết phải luôn luôn nghe theo các Ngài. Đức tin không lay chuyển nhưng khoa học
thì liên tục tiến triển.
Tôma còn nhắc nhở chúng ta chỉ
có một tiếng nói chính thức và chúng ta cũng phải biết kính trọng trí khôn
chúng ta và đức tin chúng ta, đừng để bất cứ ai, bất cứ cái gì nhồi sọ chúng
ta, coi chừng nhiều tiên tri giả chung quanh chúng ta.
J.M
Lời Chúa Mỗi Ngày
Kính Thánh Tôma Tông Đồ.
Bài đọc: Eph 2:19-22; Jn 20:24-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho những ai tuy không thấy
mà tin!
Thánh Thomas Tông Đồ thường được
gọi là "Cha của những kẻ cứng lòng tin;" nhưng cũng nhờ ngài mà chúng
ta có thêm những lời dạy dỗ của Đức Kitô, và mở mắt cho chúng ta thấy có nhiều
cách thức khác để con người phải tin vào Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung
trong những cách thức khác nhau một người có thể dùng để tin vào Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô xác tín đức tin của chúng ta được xây dựng
trên Đá Tảng là Đức Kitô, và nền móng là niềm tin của các tông-đồ và các
tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách Thomas đã chỉ dựa vào kinh nghiệm
giác quan, mà không chịu tin vào lời Ngài đã loan báo trước Cuộc Khổ Nạn và lời
chứng của các tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin của chúng ta dựa trên niềm tin nền tảng của các Tông-đồ.
1.1/ Vị thế của người Kitô hữu
trong gia đình Thiên Chúa: Tác giả Thư Ephesô xác định:
"Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng
hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa." Một
sự phân tích của 4 từ ngữ dùng trong câu này, cho chúng ta hiểu ý của tác giả:
(1) Người xa lạ (xenos):
người ngoại kiều, không có một chút liên hệ nào với người bản xứ, cũng không được
bảo vệ bởi luật pháp bản xứ. Đó là tình trạng của Dân Ngoại, khi họ chưa biết Đức
Kitô.
(2) Người tạm trú (paroikos):
người ngoại kiều được phép trong một quốc gia, nhưng chỉ tạm thời trong một thời
gian. Họ chỉ được hưởng một số những quyền lợi của người bản xứ, và phải ra khỏi
xứ khi thời gian hết hạn.
(3) Người đồng hương (sumpolithi):
người cùng sinh ra trong một làng, một nước; có cùng chung niềm tin, thói quen,
truyền thống, và văn hóa. Những người này có thói quen lập Hội Ái Hữu để giúp đỡ
nhau khi phải di chuyển đi nơi xa hay nơi đất khách quê người. Ví dụ: Hội Ái Hữu
Thức Hóa, qui tụ những đồng hương của làng Thức Hóa, Bùi Chu, Bắc Việt Nam. Tác
giả Thư Ephesô gọi các tín hữu là những "đồng hương với các người thuộc
dân thánh," vì họ có cùng niềm tin nơi Đức Kitô, và cùng được kêu gọi để
trở nên thánh thiện.
(4) Người nhà (onkeios):
người có liên hệ ruột thịt hay hoàn cảnh đặc biệt, liên kết thành một nhóm rất
thân mật, sống chung trong một mái nhà. Những người này được gọi là những thành
viên của một nhà. Họ được chung hưởng mọi quyền lợi và có bổn phận bảo vệ nhà
mình. Tác giả gọi các tín hữu là những "người nhà của Thiên Chúa;" vì
họ cùng được hưởng ơn cứu độ Thiên Chúa đã dọn sẵn. Họ cùng chung bổn phận làm
sao cho mọi người trong nhà đạt được ơn cứu độ.
1.2/ Tòa nhà của Thiên Chúa: được nhân cách hóa để chỉ vị thế và bổn phận của mỗi thành phần
của Dân Chúa. Một tòa nhà gồm những phần sau đây:
(1) Đá Tảng góc tường (avkrogwniaios):
là chính Đức Giêsu Kitô. Đá Tảng là viên đá góc, viên đá quan trọng nhất nối
hai bức tường của tòa nhà và sàn nhà với nhau, trong kiến trúc xây nhà của người
Do-thái. Nhiều người cho hai bức tường này tượng trưng một cho Do-thái và một
cho Dân Ngoại. Đức Kitô hay niềm tin vào Đức Kitô là Đá Tảng cho tòa nhà này. Nếu
không được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, tòa nhà của Thiên Chúa sẽ không
thành hình được.
(2) Nền móng (themelios):
là các Tông Đồ và ngôn sứ. Cấu trúc quan trọng thứ hai của tòa nhà là nền móng,
trên đó tòa nhà được xây dựng lên. Chúa Giêsu đã từng cho chúng ta một ví dụ về
việc xây nhà trên đá thay vì trên cát. Các ngôn sứ và các tông-đồ được ví như nền
móng của tòa nhà Thiên Chúa, vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Nhờ những cố gắng
rao giảng và máu của họ đổ ra, mà đức tin được lan tràn ra cho mọi người.
(3) Các phần khác: là toàn thể
các tín hữu. Có thể ví mỗi tín hữu như một viên gạch được xây trong tòa nhà của
Thiên Chúa; tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết để hoàn thành. Trong Đức Kitô,
"toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền
thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những
người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí."
2/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin!
2.1/ Đức tin dựa trên kinh nghiệm: Có những người chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe, và tay sờ mó được.
Thomas là một trong những người này. Vì ông không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra
với các tông-đồ lần thứ nhất, nên họ nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy
Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin."
2.2/ Đức tin dựa trên các điều
khác: Ngoài đức tin dựa trên kinh nghiệm giác quan như Thomas đòi hỏi,
chúng ta còn ít nhất 3 cách khác để tin một điều là sự thật:
(1) Thế giá của người nói: Đây
là cách mà chúng ta vẫn áp dụng hằng ngày: con cái tin cha mẹ, học sinh tin thầy
cô, nhân viên tin chủ mình ... Chúng ta tin vì chúng ta nghĩ những người này
không thể đánh lừa chúng ta. Tòa án các cấp cũng thường áp dụng điều này khi
đòi phải có hai hoặc ba nhân chứng để xác định một điều xảy ra là sự thật. Chúa
Giêsu trách Thomas cứng lòng tin, vì đã không tin lời của 10 nhân chứng là các
tông-đồ.
(2) Hậu quả xảy ra: Nguyên lý
nhân quả là nguyên lý mà chúng ta vẫn thường dùng trong cuộc sống hằng ngày. Ví
dụ, khi chúng ta thấy khói bốc lên, chúng ta biết ngay có lửa đang cháy. Tuy
chúng ta không thấy điện chạy, nhưng chúng ta không dám rờ vào ổ điện, vì chúng
ta sợ điện giật. Cũng vậy, tuy chúng ta không thấy Thiên Chúa; nhưng nhìn mọi sự
vật do tay Chúa sáng tạo, chúng ta tin có Thiên Chúa.
(3) Ghi chép lịch sử: Khi học lịch
sử, chúng ta tin những người ghi chép lại những biến cố lịch sử đã xảy ra. Nếu
có nghi ngờ, chúng ta có thể đối chiếu các nguồn lịch sử khác nhau, và dùng trí
phán đoán để xác định sự trung thực của các biến cố. Khi đọc Kinh Thánh, chúng
ta cũng dựa trên lịch sử để xác định sự trung thực của các biến cố xảy ra. Chẳng
hạn, chúng ta thường gặp những câu trong Tân Ước như: "để ứng nghiệm lời
Kinh Thánh đã nói," hay "để làm tròn lời Kinh Thánh đã chép" ...
2.3/ Ông Thomas tuyên xưng đức tin:
Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả
ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các
ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa
của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy,
nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Đức tin dựa trên
kinh nghiệm là cách thấp nhất để một người tin, Chúa Giêsu khiển trách Thomas
vì đã không chịu dùng các cách khác nữa. Thánh Thomas, tuy cứng lòng tin; nhưng
một khi đã xác tín niềm tin vào Đức Kitô, ông không bao giờ lui gót nữa. Ông
không chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Thầy, mà còn là Thiên Chúa của ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là những viên đá sống
động trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là lo sao cho Đền Thờ
này luôn sống động và tăng trưởng mỗi ngày.
- Đức tin của chúng ta không chỉ
dựa trên kinh nghiệm của giác quan; nhưng còn dựa trên Kinh Thánh, lịch sử, hậu
quả, và những lời làm chứng của bao nhiêu chứng nhân trong lịch sử.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
03/07/20 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG
TUẦN 13 TN
Th. Tô-ma, tông đồ
Ga 20,24-29
Th. Tô-ma, tông đồ
Ga 20,24-29
TÔ-MA CỦNG CỐ ĐỨC TIN
“Vì
đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20,29)
Suy niệm: Tô-ma
bị mang tiếng là cứng lòng tin chỉ vì trong buổi chiều ngày Chúa Ki-tô phục
sinh hiện ra cùng các môn đệ ông đã không có mặt, dù họ đã làm chứng cho ông rằng:
“Chúng tôi đã thấy Chúa!” Đối với ông, cái gì ông trực tiếp kiểm chứng
được, thì mới đáng tin; ông đòi hỏi những điều kiện khả giác, chắc chắn như
nhìn thấy vết đinh, như thọc ngón tay vào lỗ đinh rồi mới tin. Chúa Giê-su chiều
theo thách thức của Tô-ma, nên cũng vào ngày thứ nhất của tuần sau đó, Ngài lại
hiện ra với các tông đồ, có sự hiện diện của Tô-ma và mời ông hãy đặt ngón tay
vào lỗ đinh, đặt tay vào cạnh sườn Thầy. Chỉ lúc đó, sự hoài nghi của Tô-ma được
hoàn toàn biến đổi thành niềm tin sắt đá. Không chỉ tin Thầy đã sống lại, ông
còn tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con!”
Mời Bạn: Chuyện
của Tô-ma cũng là chuyện của chúng ta, những người không tận mắt thấy Đấng Phục
Sinh. Đức Giê-su gọi những người không thấy mà tin là những người có phúc. Có
phúc vì như Tô-ma cứng tin nhưng một khi đã tin thì tin chắc. Đức tin của ông
trở lời chứng thuyết phục cho đức tin của những người không thấy Chúa Phục Sinh
mà vẫn tin.
Sống Lời Chúa: Đọc lại
với lòng xác tín lời trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin… Ngày thứ ba Người sống lại
như lời Thánh Kinh.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con đức tin
và củng cố đức tin của chúng con nhờ đức tin của thánh Tô-ma tông đồ. Xin cho
chúng con luôn vững tin dù đang sống trong một thế giới đề cao thực nghiệm.
(5 phút Lời Chúa)
Đừng cứng lòng nữa (3.7.2020 – Thứ hai: Thánh Tôma, Tông đồ)
Trong tập thể chúng ta đang sống,
vẫn
có những
Tôma: hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi,
xa cách với
cộng
đoàn... Thầy
Giêsu dạy
chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết
án.
Suy niệm:
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông Tôma đã không ở với nhóm
môn đệ
khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Có vẻ có một sự xa cách nào đó giữa Tôma và mười ông
kia.
Chuyện này trở nên rõ hơn khi ông Tôma từ chối tin vào
lời của họ:
“Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25).
Ông đòi tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay.
Thấy dấu đinh nơi bàn tay Thầy, xỏ ngón tay mình vào
lỗ đinh,
thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy: đó là những điều kiện
ông đòi để tin.
Tôma không đứng dưới chân thập giá như người môn đệ
Chúa yêu,
nhưng ông đã được nghe chuyện Thầy bị đóng đinh, bị
đâm nơi cạnh sườn.
Đối với ông, nếu Thầy thực sự phục sinh,
thì thân xác Thầy vẫn còn phải mang những vết thương
đó.
Phục sinh không làm mất đi những vết sẹo của tình yêu
cứu độ.
Đấng phục sinh lại có ý chiều ông, đó mới là chuyện
lạ.
Ngài biết óc thực tiễn của ông, và Ngài không muốn mất
ông (Ga 17, 12).
Ngài dám thỏa mãn những đòi hỏi táo bạo và cụ thể của
ông,
để đưa ông về với đức tin, về với cộng đoàn.
Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu phục sinh đến như thể cho một mình ông thôi,
và mời ông làm những điều ông đòi hỏi.
Chẳng rõ Tôma có dám thực hiện hay không,
nhưng chính thái độ bao dung và yêu thương của Thầy đã
chinh phục ông.
Môi ông bật lên lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong
Tân Ước:
“Lạy Chúa của tôi; lạy Thiên Chúa của tôi” (c.28).
Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có
thể cảm nhận.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai
không thấy mà tin!”
Chúng ta ngày nay tuy không được hưởng kinh nghiệm như
thánh Tôma,
nhưng chúng ta lại được hưởng một mối phúc mà ngài
không có được.
Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận
mắt,
mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (Ga 17, 20),
trong đó có Tôma.
Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tôma, cám ơn lời
chứng của ngài.
Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để
tin,
vì chúng ta biết chuyện Chúa phục sinh không do một ảo
giác tập thể.
Tôma là một người hoàn toàn tỉnh táo.
Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những Tôma:
hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng
đoàn...
Thầy Giêsu dạy chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ
không kết án.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người chưa biết Chúa,
họ cũng đòi thấy và đụng chạm đến Thiên Chúa.
Kitô hữu chúng ta phải có kinh nghiệm sâu xa như các
tông đồ xưa,
để làm chứng được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (c.
25).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm
kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên
chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc
lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với
chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với
hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng
giữa chúng con
như Chúa đã đến đem
bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn
và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không
bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa
sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng
bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy
Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là
Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần
bên chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG BẢY
Nguồn Thiện Hảo Bất Tận Của
Thiên Chúa
Vị Thiên Chúa hằng săn sóc chúng
ta ấy là ai vậy? Sách Gióp mô tả Ngài là Đức Chúa của mọi tạo vật: “Hãy xem:
Thiên Chúa cao cả khi bày tỏ quyền năng, tôn sư nào sánh được với Ngài? … Các
giọt nước mưa, Ngài gom góp lại, rồi đem nghiền nát thành sương mù. Các tầng
mây đổ mưa xuống trên phàm nhân hết thảy… Quả thật, Ngài dùng nước mà nuôi dưỡng
chư dân – cho họ có lương thực dồi dào” (G 36,22.27-28.31).
“Ngài dùng hơi nước tạo thành
mây, và từ mây, Ngài làm cho chớp lóe. Mây lang thang xoay đủ mọi chiều, theo
đúng chương trình Ngài hoạch định, để trên toàn cõi đất chúng thực thi mọi lệnh
Ngài truyền” (G 37,11-12).
Sách Huấn Ca âm vọng lại những lời
của Sách Gióp – và nói về Thiên Chúa của tạo vật: “Ngài ra lệnh truyền, tuyết
liền sa xuống. Ngài phóng những tia chớp làm phán quyết của Ngài” (Hc 43,13).
Tác giả Thánh Vịnh cũng tán dương “sức mạnh đáng sợ của Ngài”, “sự tốt lành vô
lượng của Ngài”, “uy phong rạng rỡ của Ngài”, Ngài là “Đấng thành tín và đầy
yêu thương trong mọi việc Ngài làm”. Tác giả Thánh Vịnh thốt lên: “Lạy Chúa,
muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng
mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê. (Tv 145,6-7.15-16).
Hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh
nhắc đến tình yêu và sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho tất cả những gì mà
Ngài đã dựng nên: “Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi
thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất họ kiếm ra cơm bánh, chế rượu
ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tuơi, nhờ cơm
bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104,14-15).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 03-7
Thánh Tôma Tông Đồ
Ep 2, 19-22; Ga 20, 24-29.
Lời suy niệm: “Đức Giêsu đến, đứng
giữa các ông và nói: Bình an cho anh em. Rồi Người bảo ông Tôma: Đặt ngón tay
vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng
lòng nữa, nhưng hãy tin. Ông Tôma thưa: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con!”
Tôma một Tông đồ không thiếu sự
can đảm, nhưng nơi ông vẫn có một cái gì đó bi quan, khi Chúa Giêsu muốn đi đến
Bêtania đánh thức Ladarô. Tôma nói: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng
chết với Thầy.” (Ga 11,16). Với tính bi quan sẵn có nơi Tôma, nên khi các Tông
Đồ kể lại chuyện Chúa Giêsu đã phục sinh, ông đã không tin. Nhưng đối với Chúa
Giêsu, Người không muốn mất một ai, nên tám ngày sau Chúa Giêsu Phục Sinh lại đến
với lời quở trách đầy yêu thương đối với Tôma. Với điều này đã làm Tôma sám hối
và đã tuyên xưng Người là Chúa của ông và là Thiên Chúa của ông.
Lay Chúa Giêsu. Chúng con đang
hưởng lời chúc phúc của Chúa; qua sự cứng lòng của Tôma: “Phúc thay ai
không thấy mà tin.” Xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhạn
ra Chúa và trung thành với Chúa cho đến trọn đời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-07: THÁNH TÔMA TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)
Tôma là người Do thái, miền
Galilê, sống nghề chài lưới, Chúa Giêsu đã chọn Ngài vào số mười hai tông đồ,
và Ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ còn thuộc về thầy chí thánh mà thôi. Tôma tỏ ra
đơn sơ, nhiệt thành và tận tụy. Khi Lazarô chết các tông đồ run sợ vì thấy Chúa
Giêsu về Giêrusalem, nơi các tông đồ biết rõ là bọn biệt phái đang tìm cách giết
Người.
Các tông đồ ngăn cản: - Thưa Thầy,
vừa đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại qua đó nữa sao ?
Nhưng Tôma trung tín và có phần
bi quan. Ông góp ý: - Cả chúng ta nữa, hãy đi qua để chết với Ngài (Ga 11, 8-16)
Trong cuộc đàm thoại trước khi
Chúa chịu tử nạn, Chúa Giêsu tìm cách an ủi các tông đồ. Ngài nói: - Lòng các
con xao xuyến... Ta đi dọn chỗ cho các con, và Ta đi đâu, các con biết đường rồi.
Tôma thưa lại với nhiệt tình muốn
theo Chúa: - Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao mà biết đường
?
Và Chúa Giêsu đã trả lời ông: -
Đường, sự thật và sự sống chính là Ta (Ga 14,1-6)
Rồi biến cố khổ nạn xảy ra. Đoàn
ngũ tông đồ tan tác. Tội nghiệp Tôma: ông đã không cùng "chết với
Ngài" (!). Trái lại, khi Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với các bạn khác,
có lẽ Tôma còn đang ôm đầu than khóc cho nỗi cay đắng.
Nghe các bạn nhiệt thành làm chứng
rằng: Chúa đã sống lại, sự cứng tin được biểu lộ bằng sự bực bội: - Nếu nơi tay
Người, tôi không thấy các dấu đinh, và tay tôi tra vào lỗ đinh, cùng tra bàn
tay tôi vào cạnh sườn Người tôi không tin.
Tiếp sau là một tuần buồn thảm.
Đơn độc đối với Tôma trong khi các bạn ông hạnh phúc. Chỉ có một mình Chúa
Giêsu có thể thuyết phục nổi Tôma thôi. Tám ngày sau lần hiện ra trước, Chúa
Giêsu lại đến, lần này có Tôma. Chúa Giêsu thân ái nói với ông: - Hãy đem ngón
tay ngươi đặt đây, này tay Ta, hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở
như người cứng tin, mà là như người thành tín.
Không cần gì nữa, không còn nghi
ngờ được, Tôma lớn tiếng tuyên xưng: - Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi.
Chúa Giêsu trả lời ông: - Bởi thấy
ta ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin (Ga 2,24-29).
Đây là lời khích lệ dành cho những
người biết đón nhận đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã không bao giờ bảo người ta phải
nhắm mắt lại. Thánh Grêgôtiô ghi nhận rằng: sự nghi ngờ của Tôma giúp ích cho
chúng ta hơn là đức tin của những người khác. Đức tin vượt trên lý trí, nhưng
lý trí dẫn tới đức tin.
Sau ngày lễ hiện xuống, các tông
đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Theo Eusêbiô, thánh Tôma đi giảng đạo ở
Parthia. Theo một truyền thuyết khác, thánh nhân đã được gặp các đạo sĩ, đã
kính viếng Chúa Hài Đồng thuở trước, và rửa tội cho họ. Một truyền thống sớm sủa
và mạnh mẽ hơn cho rằng Ngài là vị tông đồ của dân An Độ.
(daminhvn.net)
03 Tháng Bảy
Vị Tiên Tri Cô Ðộc
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện
ngụ ngôn sau đây:
"Vì tội lỗi của loài người,
Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ
rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống
vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem
thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng
ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn
của cuộc đời...
Ðộng đất đã xảy đến, bao nhiêu
sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri trở lại
đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe dọa của
Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay,
loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn
ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại...
uồn tình, vị tiên tri trở lại chốn
núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy
nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy
không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường
với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần
nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt hủi của
những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống
lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ..."
Con đường dẫn đến chân lý không
phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc...
Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh
tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại của
Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin...
Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn
cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm chứng được, nếu tôi không
sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là thái độ
thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin tưởng,
tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải
tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng
thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng hơn trong
lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải vì
chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các
tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm
khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô
độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược dòng.
Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối với
người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của người
Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của người
Kitô.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét