16/03/2017
Thứ năm tuần 2 Mùa Chay
Bài Ðọc I: Gr 17, 5-10
"Khốn thay cho
kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".
Trích sách Tiên tri
Giêrêmia.
Ðây Chúa phán:
"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người,
còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy
khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không
người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy
trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt,
không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà
vẫn sinh hoa kết quả luôn. Lòng người nham hiểm khôn dò, nào ai biết được? Còn
Ta, Ta là Chúa, Ta thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can, trả công cho mỗi người
tuỳ theo cách sống và hậu quả hành vi của họ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4
và 6
Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39,
5a).
Xướng: 1) Phúc cho ai
không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân,
không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa,
và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng
bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả
công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được
như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công
chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta
không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".
Phúc Âm: Lc 16, 19-31
"Con đã được sự
lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm
vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là
Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ
bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến
liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các
thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem
chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng
xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:
"Lạy Cha Abraham,
xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi
tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: "Hỡi con,
suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây
giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các
ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua
đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được".
Người đó lại nói:
"Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người
anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này".
Abraham đáp rằng: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các
Ngài". Người đó thưa: "Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai
trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải". Nhưng Abraham bảo người ấy:
"Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại
đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Người giầu có
và Ladarô.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể
lại rằng một lần nọ đặt chân đến Ethiopi, Mẹ đã ngỏ ý với một vị Bộ trưởng để
xin một khu đất xây bệnh viện cho những người cùng khốn nhất. Ông Bộ trưởng trả
lời: “Thưa bà, việc săn sóc bệnh nhân và người nghèo là trách nhiệm của chính
phủ, không một cá nhân hay đoàn thể nào có thể gánh được công việc này”. Mẹ liền
nói: “Nhưng tôi thấy chính phủ các ông đã không chu toàn được trách nhiệm ấy; vả,
việc săn sóc người nghèo khổ là trách nhiệm của mỗi người”. Và ông Bộ trưởng đã
phải chấp nhận đề nghị của Mẹ.
Câu trả lời và việc
làm của Mẹ Têrêxa là một minh hoạ cho giáo huấn của Chúa Giêsu về người giầu có
và Ladarô nghèo khổ. Quan tâm đến người anh em, nhất là những người cùng khổ là
một bổn phận, một bổn phận mà Chúa Giêsu cũng khẳng định trong diễn từ về ngày
chung thẩm. Nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra rằng số phận mai hậu của họ gắn
liền với một bát nước lã, một chén cơm họ chia sẻ cho một kẻ vô danh.
Dửng dưng trước khổ đau
của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người
giầu có trong Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến nguồn gốc của sự giầu
có mà người phú hộ đang hưởng. Ngài cũng không nói đến một hành động gian ác
nào của ông. Thế nhưng, sự dửng dưng đến độ mù loà của ông trước một người hành
khất lê lết trước cửa nhà ông, một thái độ như thế cũng là một tội ác rồi. Mỗi
người đều có trách nhiệm về người anh em, nhất là người nghèo khổ trong xã hội.
Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay có lẽ cũng gợi lại câu hỏi
Thiên Chúa đặt ra cho Cain sau khi Cain giết Abel em mình: “Cain, em ngươi
đâu?”. Cain trả lời: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”. Câu trả lời ấy có lẽ
cũng là thái độ của chúng ta khi đứng trước nỗi khổ đau của người khác. Thiên
Chúa đã tạo dựng nhân loại như một gia đình, trong đó tất cả chúng ta đều có bổn
phận và trách nhiệm đối với nhau.
Mùa Chay, mùa trở về với
Chúa và cũng là mùa trở về với anh em. Nhận ra mỗi người, nhất là người cùng khổ
như người anh em con cùng một cha, đó là lời mời gọi mà Cha trên trời luôn ngỏ
với chúng ta, và đó cũng là thông hành để chúng ta về gặp gỡ Cha trên trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần II MC
Bài đọc: Jer
17:5-10; Lk 16:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin
Thiên Chúa hơn tin người đời.
Nếu một người tin ai
hay tin điều gì thì họ sẽ cậy dựa vào điều đó. Ví dụ, nếu một người tin có tiền
mua tiên cũng được, họ sẽ ra sức làm sao cho có nhiều tiền; hay nếu một người
tin có uy quyền sẽ có tất cả, họ sẽ lo làm sao cho được một địa vị cao trong xã
hội. Nhưng nếu một người tin hạnh phúc không lệ thuộc vào những lợi lộc vật chất,
họ sẽ đi tìm những giá trị tinh thần qua những lời khôn ngoan của bậc thánh hiền.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong việc phải tin và cậy dựa vào Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri
Jeremiah đưa ra hai mẫu người với hai niềm tin khác nhau. Tiên tri nói: Phúc
thay cho những ai cậy dựa vào Thiên Chúa. Họ như cây trồng bên suối nước, sẽ
luôn sinh hoa kết quả và không bao giờ bị khô héo. Nhưng khốn thay cho kẻ tin
vào sức phàm nhân, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, và lúc nào cũng như
đang sống trong đồng khô cỏ cháy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đưa ra hai mẫu
gương để dạy cho dân một bài học: một người giàu có và Lazarus, người nghèo
khó. Người giàu có dùng tiền bạc của mình để sống phung phí trên sự nghèo khó của
Lazarus. Khi cả hai chết đi, cuộc sống hai người bị đảo ngược: Lazarus được ngồi
trong lòng tổ-phụ Abraham trên trời; trong khi người giàu có phải chịu cực hình
trong lửa đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải đặt niềm tin nơi nào cho đúng.
1.1/ Hai niềm tin: Tục ngữ Việt Nam có câu: “chọn mặt gởi vàng, chọn người
để tin.” Để lập gia đình cũng thế, nếu một người biết lựa chọn kỹ lưỡng người để
kết hôn theo những giá trị tinh thần, cuộc sống gia đình tương lai sẽ bền vững;
nhưng nếu chỉ “vơ bèo vạt tép,” làm sao có thể ở với nhau suốt đời được? Tương
tự như thế trong khi chọn người để ký thác cả phần hồn lẫn phần xác, con người
phải lựa chọn giữa Thiên Chúa, phàm nhân, hay của cải vật chất. Khi con người
chọn tin vào ai, họ sẽ làm quyết định theo niềm tin của họ. Tiên tri Jeremiah
đưa ra hai lựa chọn căn bản và những hậu quả của chúng.
(1) Tin ở người đời:
“Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa,
và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được
thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi
đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người.”
Tiên tri Jeremiah sống
trong thời gian lịch sử mà đa số dân tộc Israel, vua cũng như dân, quay lưng lại
với Thiên Chúa. Hezekiah, Vua Judah đã chọn tin tưởng nơi Vua Ai-cập hơn là tin
tưởng nơi Thiên Chúa. Hậu quả là vương quốc bị rơi vào tay Vua Babylon và tòan
dân bị lưu đày. Điều khờ dại nhất của con người là chọn những tạo vật của Thiên
Chúa làm ra thay vì chọn chính Đấng đã tạo dựng nên mọi sự. Điều ma quỉ dùng để
cám dỗ con người là làm cho con người chỉ chú trọng đến hậu quả hiện tại tạm thời,
mà quên đi quá khứ và không cần nhìn đến tương lai.
(2) Tin ở Thiên Chúa:
“Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người
ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến
cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại,
và không ngừng trổ sinh hoa trái.”
Khi một người khôn
ngoan sống theo niềm tin của mình, chọn Thiên Chúa là điều quá hiển nhiên, vì
Ngài là nguồn gốc mọi sự. Làm sao một người có uy quyền để bảo vệ một người như
Thiên Chúa? Thánh Polycarp, khi được quyến dũ để bỏ Thiên Chúa, đã khẳng khái
trả lời: “Trong 86 năm tôi đã phục vụ Ngài, Ngài đã không bao giờ gây ra bất kỳ
thiệt hại gì cho tôi: Làm sao tôi có thể xúc phạm đến Vua và Đấng Cứu Chuộc của
tôi?”
1.2/ Thiên Chúa thấu suốt
lòng con người: Tin thế nào sẽ sống như vậy;
cuộc sống con người biểu tỏ những gì con người tin. Họ sẽ phải ra trước tòa
phán xét để trả lời với Thiên Chúa về cuộc sống của họ. Khi đó, họ không thể
nói họ đã tin Thiên Chúa trong lòng hay tuyên xưng Ngài bằng miệng lưỡi được,
vì đời sống của họ sẽ là bằng chứng tố cáo họ. Lời tiên tri Jeremiah cũng cảnh
cáo những con người hai lòng: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai
dò thấu được? Ta là Đức Chúa, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ
thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm.”
2/ Phúc Âm: Lazarus tin nơi Thiên Chúa.
2.1/ Ông nhà giàu tin nơi
sự giàu có của mình: Chỉ trong ít lời ngắn
ngủi, Thánh sử Lucas đã lột tả được sự bất công giữa lòai người: một ông nhà
giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người,
vừa nghèo khó lại vừa bệnh tật, tên là Lazarus, nằm trước cổng ông nhà giàu.
Lazarus thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại
thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Cuộc đời sau đảo lộn
thứ tự của cuộc đời này. Người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng
ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới âm phủ, đang
khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và
thấy anh Lazarus trong lòng tổ phụ. Ông kêu cứu: "Lạy tổ phụ Abraham, xin
thương xót con, và sai anh Lazarus nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi
con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
2.2/ Lazarus tin nơi tình
yêu Thiên Chúa: Thiên Chúa dựng nên mọi sự
trong trời đất cho mọi người hưởng dùng. Con người không phải là chủ nhân, mà
chỉ là những người quản lý của cải của Thiên Chúa. Vì thế, con người không được
quyền phung phí của cải trong khi những người nghèo không có của ăn. Nếu họ
không san sẻ của cải cho người nghèo, họ sẽ phải nghe những lời như Abraham nói
với người giàu có: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần
phước của con rồi; còn Lazarus suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ,
Lazarus được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng
ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con
cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”
2.3/ Bài học cho người
còn sống: Sống thế nào sẽ phải lãnh nhận hậu
quả như vậy. Nếu chưa biết cách sống, con người phải tìm tòi học hỏi để biết sống,
nhất là qua Kinh Thánh. Việc hóan cải đòi nhiều nỗ lực và thời gian, chứ không
phải khi muốn là được. Người giàu có xin Abraham sai Lazarus đến nhà để cảnh
cáo cho năm người anh em của ông cũng đang sống bất công như vậy, nhưng Abraham
đáp: "Nếu Moses và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết
có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta chỉ có thể
lựa chọn một trong hai điều: tin nơi Thiên Chúa hay nơi phàm nhân. Chúng ta
không thể làm tôi hai chủ: “cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.”
- Tin thế nào sẽ sống
thế ấy; cuộc sống là biểu tỏ những gì con người tin. Chúng ta không thể chỉ tin
trong lòng hay nơi “chót lưỡi đầu môi.”
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Lc 16,19-31
XOÁ BỎ KHOẢNG CÁCH
“Có một ông nhà giàu kia… ngày ngày yến
tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó, tên là La-da-rô… thèm được những
thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.” (Lc 16,19-21)
Suy niệm: Trong mọi thời
đại, luôn có ‘nhà giàu’ và ‘người nghèo’, hình thành một khoảng cách ‘vô danh’,
mà muốn lấp đầy, người ta phải nỗ lực bền bỉ ‘quên mình’ và ‘nghĩ đến’ người
khác. ‘Nhà giàu’ bị lên án không phải vì ‘giàu’, mà vì không biết ‘nghĩ đến’
người khác. Chúa Giê-su đả kích giới Pha-ri-sêu vì họ chỉ nghĩ đến mình,
nên họ không thể ‘mở lòng’ ra cho tha nhân và cho sứ điệp Phúc Âm. Ông nhà giàu
cố tình quên rằng: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga
3,27), nên đã sử dụng tài sản chỉ cho riêng mình, gia đình mình, có khi sử dụng
một cách phung phí, thậm chí bất công. Chỉ có một điểm chung giữa nhà giàu và
người nghèo: đó là cả hai đều phải chết; và lúc đó, khoảng cách giàu-nghèo mà
người giàu không muốn lấp đầy trong cuộc đời này vẫn còn tồn tại mà còn gia
tăng gấp bội và đảo nghịch ngôi thứ ở đời sau: người nghèo trở nên giàu có
trong ‘yến tiệc’ đời đời, còn nhà giàu trầm luân trong ‘lửa không hề tắt’.
Mời Bạn: Bạn
đang ở trong tình trạng nào? Giàu hay nghèo? ‘Giàu của’ hay ‘giàu lòng’? ‘Nghèo
của’ hay ‘nghèo lòng’? Bạn bằng lòng với tình trạng hiện tại, hay muốn nỗ lực
vươn lên?
Sống Lời Chúa: Làm
một việc bác ái để góp phần ‘xoá bỏ khoảng cách’ với những người đang gặp khó
khăn hoạn nạn hơn mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ‘trong khi mỗi
người chúng con vất vả làm việc, cũng như lúc gia đình được vui mừng hoặc gặp
thử thách, xin cho chúng con biết luôn tin tưởng vào Chúa quan phòng’.
(5 phút lời Chúa)
Có một vực thẳm (16.3.2017 – Thứ năm Tuần 2 Mùa Chay)
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu; nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ...
Suy niệm:
Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới
còn lớn hơn tài sản của
48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.
Chỉ cần 40 tỉ đô la của
ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu
cho giáo dục cơ bản, sức
khỏe, nước sạch và vệ sinh
cho cả thế giới trong một
thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch
giữa ông nhà giàu và Ladarô,
chúng ta thấy bức tranh
hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa
giàu nghèo ở đô thị,
giữa đô thị và nông thôn,
càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang
đói nghèo cùng cực.
Hơn một tỉ Ladarô bệnh
tật không được chăm sóc.
Vẫn có bao người chết đói
mỗi ngày,
vì không được hưởng gì từ
các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ
ngôn có thấy, có biết Ladarô,
nhưng thấy mà như không
thấy có Ladarô trên đời.
Tiện nghi vật chất đã
thành bức tường kín.
Ông sống an toàn mãn
nguyện trong khoảng không gian riêng.
Chính ông đã tạo ra một
vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng
chẳng cần biết đến anh em.
Có thể nói vực thẳm đó
lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập
mình không thể đảo ngược được.
Chẳng ai có thể cho tôi
một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con
người ở đời sau
là do chính con người đã
tạo ra từ đời này.
Ông nhà giàu bị phạt,
không phải vì ông đã bóc lột ai,
nhưng vì ông không bị sốc
chút nào
trước sự chênh lệch ghê
gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức
tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ
giúp các nước nghèo,
nhưng không muốn loại bỏ
sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc
lột về tài nguyên, nhân công,
và bị nô lệ cho những món
nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt
không phải vì ông đã nhận nhiều,
nhưng vì ông đã không san
sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một
tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như
Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể
dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:
Tích trữ, tham lam, hà
tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
bị ám ảnh bởi đồng tiền,
bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng ta có thể nghèo của
cải, nhưng giàu có về các mặt khác:
giàu kiến thức chuyên
môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu sức khỏe, giàu tình
bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để
thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm,
nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho
Lời Chúa hoán cải,
để thấy trách nhiệm của
mình trước những Ladarô
nằm ngay nơi cửa, trong
khu xóm...
Chỉ cần bớt chút dư thừa,
xa xỉ của chúng ta
cũng đủ làm nhiều người
no nê hạnh phúc.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con
thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ
thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu
thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô
túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của
người khác,
có bao điều con định mua
sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép
kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã
hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất
cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi
người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san
sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người
đói nghèo
là vì chúng con giữ quá
điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG BA
Luân Lý Tính Phải Được Đo Lường Bằng Thước Đo Của Thiên Chúa
Xuyên qua việc tuân giữ Thập Giới, con người sẽ trở nên tốt. Con người sẽ
mặc lấy phẩm tính của Thiên Chúa. Còn nếu không tuân giữ Thập Giới, con người
sẽ sa vào hành động xấu. Như vậy, Thập Giới trao cho chúng ta chuẩn mực để đo
lường hành vi và đo lường chính cuộc sống của chúng ta. Trong tư cách là con
người – có thể chọn lựa giữa cái đúng và điều sai – phẩm giá của chúng ta được
nối kết một cách trực tiếp với sự vâng phục của chúng ta đối với luật luân lý
của Thiên Chúa.
Vâng phục luật luân lý – đó không chỉ là một vấn đề cá nhân mà còn là một
vấn đề xã hội. Nó cho chúng ta biết Thiên Chúa muốn chúng ta sống với tha nhân
như thế nào. Nó hình thành cho chúng ta một tiêu chuẩn sống. Nó cho ta biết
phải làm sao để bảo vệ và tôn trọng phẩm giá của người khác cũng như của mình.
Qua đó, nó giải phóng người ta khỏi sự trói buộc của sự dữ. Đây không phải là
chuyện hoa hòe, ‘tùy hỉ’chút nào; mà đây là vấn đề hết sức chủ yếu. Đấng trao
ban Thập Giới là Thiên Chúa Gia-vê, là Đấng đã dẫn đưa con cái It-ra-en ra khỏi
đất Ai-cập, ra khỏi tình cảnh nô lệ.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 16 – 3
Gr 17, 5-10; Lc 16, 19-31.
Lời suy niệm: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc
linh đình. Lại có một người nghèo tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước
cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn
cho no.”
Qua câu chuyện ông nhà giàu và người nghèo Ladarô trong Mùa Chay Đức Thánh
Cha Phanxicô có chia sẻ với chúng ta: “Để hoán cải, chúng ta không được chờ đợi
các biến cố lạ lùng, nhưng phải mở lòng cho Lời Chúa mời gọi chúng ta yêu
thương Thiên Chúa và người lân cận. Lời Thiên Chúa có thể làm sống lại một con
tim khô cằn, và chữa lành nó khỏi mù quáng. Ông nhà giàu đã biết Lời Chúa,
nhưng đã không lắng nghe, ông đã không đón nhận nó trong tim, không để nó vào
trong tim, không lắng nghe nó, và vì thế đã không có khả năng mở mắt và cảm
thương người nghèo. Không có sứ giả, sứ điệp nào có thể thay thế người nghèo mà
chúng ta gặp gỡ trên đường đời, bởi vì chính nơi họ mà Chúa Giêsu đến gặp gỡ
chúng ta.”
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa đến mở rộng con tim của chúng con để chúng con
biết quan tâm và phục vụ người nghèo như Lời Chúa đã nói: “Tất cả những gì các
ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy là làm cho chính
Thầy” (Mt 24,40)
Mạnh Phương
16 Tháng Ba
Cuộc Săn Thỏ
Ðức hồng Y Carlo Martini,
nguyên viện trưởng trường Kinh Thánh tại Roma và hiện là tổng giám mục Milano
bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải về Phúc Âm Thánh Gioan, câu chuyện
sau đây:
Vào thế kỷ thứ ba,
trong Giáo hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ cuộc sống tu trì... Ðể giải
thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã đưa ra hình ảnh của một đàn chó
đi săn thỏ. Một chú chó trong đàn đã bất chợt nhận ra một con thỏ. Thế là chú
nhanh nhẩu rời đàn chó và vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Không mấy chốc,
mấy chú chó khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó bỗng chạy
ùa theo. Tất cả mọi con chó đều chạy, nhưng kì thực chỉ có một con chó là đã
phát hiện ra con thỏ.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Vị tu sĩ đãđưa ra kết
luận như sau: "Ðã có rất nhiều tu sĩ đi theo Chúa, nhưng kỳ thực chỉ có
một hoặc hai vị là đã thực sự thấy Chúa và hiểu được họ đang đeo đuổi điều gì.
Số khác chạy theo vì đám đông hoặc vì họ nghĩ rằng họ đang làm được một điều
tốt. Nhưng kỳ thực họ chưa bao giờ thấy Chúa. Cho nên khi gặp khó khăn thử
thách, họ bắt đầu chán nản bỏ cuộc".
Cuộc sống của người
Kitô chúng ta có lẽ cũng sẽ ví được với một cuộc săn thỏ... Ở khởi đầu, ai
trong chúng ta cũng hăm hở ra đi, ai trong chúng ta cũng đều làm rất nhiều cam
kết, nhưng một lúc nào đó, khi không còn thấy gì đến trước mắt nữa, chúng ta bỏ
cuộc buông xuôi... Ða số trong chúng ta hành động theo sự thúc đẩy của đám đông
mà không cần tìm hiểu lý do của việc làm chúng ta. Người ta lập gia đình mà
không hiểu đâu là cam kết của đời sống hôn nhân. Người ta gia nhập đoàn thể
này, đoàn thể nọ, chúng ta cũng hăng hái tham gia mà không cân nhắc kỹ lưỡng
các lý do tại sao chúng ta tham dự. Và biết đâu, người ta đi nhà thờ, chúng ta
cũng đi nhà thờ mà không bao giờ tự hỏi tại sao chúng ta đi nhà thờ. Người ta
đi xưng tội rước lễ, chúng ta cũng đi xưng tội rước lễ mà có lẽ chưa bao giờ
đặt ra câu hỏi nghiêm chỉnh tại sao chúng ta làm như thế... Dĩ nhiên, Ðức Tin
của chúng ta cần phải được nâng đỡ từ gia đình, xã hội, bởi người khác. Nhưng
chúng ta không thể quên được rằng trước hết Ðức Tin là một cuộc gặp gỡ cá vị
giữa mỗi người và Thiên Chúa, Ðức tin là một cuộc hành trình trong đó mỗi con
người phải tự thấy con đường mình đang đi... Chúng ta không thể sống đạo, giữ
đạo vì người khác. Người Kitô có một đồng phục chung là Ðức Ái, nhưng cuộc sống
của mỗi người không phải vì thế mà được đúc sẵn theo một khuôn mẫu, theo những
công thức có sẵn, theo những lôi cuốn của đám đông.
Trong cuộc hành trình
Ðức Tin, chúng ta cùng đồng hành với người khác, nhưng mỗi người cần phải thấy
rõ địa điểm mình đang đi tới. Có thấy rõ như thế, mỗi khi gặp mệt mỏi, chông
gai thử thách, chúng ta mới có thể kiên vững tiếp tục tiến bước.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Luca 16:19-31
Thứ Năm, 16 Tháng 3, 2017
Thứ Năm Tuần II Mùa Chay
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con,
Nhiều người trong chúng con, cuộc đời chưa bao giờ được khá giả như thế
Vì vậy chúng con đã trở nên tự mãn và hài lòng, hạnh phúc trong thế giới
nhỏ bé của chúng con.
Lạy Chúa, nguyện xin cho tai chúng con vẫn mở ra để lắng nghe Lời Chúa
Xin cho lòng chúng con vẫn hướng về Chúa
Và hướng về anh chị em chúng con.
Xin Chúa đừng để cho chúng con quên Chúa,
Hoặc đặt để niềm tin của chúng con vào chính mình.
Xin hãy làm cho chúng con thao thức vì Chúa,
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc
Âm – Luca 16:19-31
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người Biệt Phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa
là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có
một người hành khất tên là Lagiarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc,
ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai
thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc
của người ấy.
Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên
nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia
cũng chết và được đem chôn. Trong hỏa ngục,
phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và
Lagiarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai
Lagiarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại
trong ngọn lửa này.” Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự
lành, còn Lagiarô gặp toàn sự khốn khổ.
Vậy bây giờ Lagiarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã
có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được,
cũng như không thể từ đó qua đây được.”
Người đó lại nói: “Đã vậy, tôi
nài xin cha sai Lagiarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để
ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này”. Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môisen và các tiên tri, chúng
hãy nghe các Ngài”. Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt
họ sẽ hối cải”. Nhưng Abraham bảo người ấy:
“Nếu chúng không chịu nghe Môisen và các
tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.
3.
Suy Niệm
- Mỗi khi mà Chúa Giêsu có điều
gì quan trọng cần phải thông tri, Người tạo ra một câu chuyện và kể dụ
ngôn. Bằng cách này, qua việc suy gẫm về
một thực tại vô hình, Người dẫn dắt những ai đang lắng nghe Người khám phá ra lời
mời gọi vô hình của Thiên Chúa, Đấng hiện hữu trong đời sống. Dụ ngôn được tạo nên để chúng ta nghĩ và suy
gẫm. Vì lý do này, điều quan trọng là phải
chú ý, ngay cả đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay
có ba nhân vật. Người hành khất tên
Lagiarô, nhà phú hộ vô danh và Tổ Phụ Abraham.
Trong bài dụ ngôn, ông Abraham đại diện cho tư tưởng của Thiên Chúa. Nhà phú hộ vô danh đại diện cho hệ thống tư
tưởng thống trị thời đó. Lagiarô đại diện
cho tiếng khóc thầm lặng của những người nghèo khó vào thời của Chúa Giêsu và của
tất cả mọi thời đại.
- Lc 16:19-21: Tình cảnh của nhà phú hộ và người hành khất. Hai thái cực của xã hội. Một mặt, sự giàu có thừa thãi; còn mặt khác,
một người nghèo không cơm ăn, không quyền lực, mình đầy ghẻ chốc, không ai đoái
hoài, ngó ngàng tới anh ta, ngoại trừ những con chó đến liếm ghẻ chốc của người
ấy. Vật ngăn cách giữa họ là cánh cổng
đóng kín của nhà phú hộ. Về phần nhà phú
hộ, không có sự chấp nhận cũng chẳng có lòng thương xót đến tình cảnh của người
hành khất ngoài cửa nhà ông ta. Nhưng
người hành khất thì có tên và nhà phú hộ thì không có. Có nghĩa là, người hành khất có tên mình được
viết vào trong sách hằng sống, mà nhà phú hộ thì không. Tên của người hành khất là Lagiarô. Nó có nghĩa là Thiên Chúa cứu giúp. Và qua người hành khất, Thiên Chúa giúp cho
nhà phú hộ có thể có tên trong sách hằng sống.
Nhưng nhà phú hộ không chấp nhận việc được giúp đỡ bởi người hành khất,
bởi vì cánh cổng nhà ông ta đóng kín. Khởi
đầu của bài dụ ngôn này mô tả tình trạng, là một tấm gương trung thực của những
gì đã xảy ra trong thời của Chúa Giêsu và thời ông Luca. Nó cũng là tấm gương của mọi việc đang xảy ra
hiện nay trên thế giới!
- Lc 16:22: Việc thay đổi mặc khải sự thật ẩn dấu. Người hành khất chết đi và được các thiên thần
đem lên nơi lòng tổ phụ Abraham. Nhà phú
hộ cũng chết và được đem chôn. Trong bài
dụ ngôn, người hành khất chết trước nhà phú hộ.
Đây là một lời báo trước cho nhà phú hộ.
Cho đến khi người hành khất vẫn còn sống và nằm bên cổng, thì vẫn còn cơ
hội cứu rỗi cho nhà phú hộ. Nhưng sau
khi người hành khất chết đi, công cụ duy nhất của ơn cứu rỗi cho nhà phú hộ
cũng chết theo. Giờ đây, người hành khất
được ở trong lòng ông Abraham. Lòng ông
Abraham là nguồn mạch của sự sống, từ nơi đó Dân Thiên Chúa được sinh ra. Lagiarô, người hành khất, là một phần tử của
Dân Tộc Abraham, từ nơi ấy anh ta bị loại trừ trước đó, khi anh ta nằm bên cổng
nhà phú hộ. Nhà phú hộ tin tưởng rằng
ông ta là dòng dõi của Abraham thì lại không được tiến về phía vòng tay ôm của
ông Abraham! Lời giới thiệu về bài dụ
ngôn kết thúc ở đây. Bây giờ ý nghĩa của
nó bắt đầu được mặc khải, qua ba lời đối thoại giữa nhà phú hộ và Tổ Phụ
Abraham.
- Lc 16:23-26: Lời đối thoại thứ nhất. Trong bài dụ ngôn, Chúa Giêsu mở ra một cánh
cửa ở phía bên kia của đời sống, phía bên Thiên Chúa. Đó không phải là một thắc mắc về Thiên
Đàng. Đó là một thắc mắc về sự sống mà
chỉ có đức tin mới tạo ra được và nhà phú hộ lại không có đức tin nên không thể
cảm nhận được. Chỉ dưới ánh sáng của cái
chết mà ý thức về sự khống chế bị tan rã và xuất hiện cho ông ta giá trị đích
thực của cuộc sống là gì. Về phần Thiên
Chúa, không hề có tuyên truyền lừa dối về tư duy, mọi thứ thay đổi. Nhà phú hộ trông thấy người hành khất Lagiarô
ở trong lòng Tổ Phụ Abraham và yêu cầu được giúp đỡ trong sự đau khổ của
mình. Người phú hộ khám phá ra rằng chỉ
có Lagiarô mới có thể là ân nhân của mình.
Nhưng, bây giờ thì đã quá muộn! Người
phú hộ vô danh trở nên lễ độ, vì ông ta nhận ra ông Abraham và gọi ông, Tổ Phụ
Abraham đáp lại và gọi ông ta là con.
Trong thực tế ngôn từ này của ông Abraham được gửi đến tất cả những người
giàu có còn đang sống. Khi mà họ còn
đang sống, họ có thể là con cái của ông Abraham, nếu họ biết mở cửa cho
Lagiarô, người hành khất, người duy nhất có thể nhân danh Thiên Chúa mà giúp họ. Ơn cứu rỗi cho người giàu có không ở trong việc
Lagiarô có cho ông ta một giọt nước để làm mát lưỡi ông ta hay không, mà đúng
hơn là, ông ta, nhà phú hộ, phải mở cửa nhà mình cho người nghèo khó để lấp đầy
hố sâu to lớn đang hiện hữu.
- Lc 16:27-29: Lời đối thoại thứ hai. Nhà phú hộ nài nỉ: ““Đã vậy, tôi nài xin cha sai Lagiarô đến nhà
cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa
vào chốn cực hình này”. Nhà phú hộ không
muốn anh em mình sẽ phải đến cùng một chỗ đau khổ. Lagiarô, người hành khất, là người trung gian
thực sự duy nhất giữa Thiên Chúa và người giàu có. Ông ta là người duy nhất bởi chỉ vì người
nghèo mà người giàu phải trả lại những gì họ có, và do đó, tái thiết lập nền
công lý đã bị tổn hại! Nhà phú hộ lo lắng
cho các anh em của mình, nhưng không bao giờ quan tâm đến người nghèo! Câu trả lời của ông Abraham thì rõ ràng: “Chúng
đã có Môisen và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài!” Họ có Kinh Thánh! Nhà phú hộ có Kinh Thánh. Ông ta thuộc nằm lòng nó. Nhưng ông ta không bao giờ nhận thức được sự
thật rằng Kinh Thánh có điều gì đó liên quan đến người nghèo. Chìa khóa mà nhà phú hộ có để có thể hiểu được
Kinh Thánh là người hành khất đang ngồi bên cổng nhà mình!
- Lc 16:30-31: Lời đối thoại thứ ba. “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt
họ sẽ hối cải!” Nhà phú hộ nhận ra rằng
ông ta đã sai lầm, ông ta đã phạm một lỗi, bởi vì ông ta nói đến ăn năn, một điều
gì đó mà ông chưa bao giờ nghe đến trong đời.
Ông ta muốn có một phép lạ, một sự sống lại! Nhưng kiểu sống lại này không hề có. Sự sống lại duy nhất là Chúa Giêsu. Đức Giêsu, sống lại từ cõi chết đến với chúng
ta trong con người của những người nghèo khó, những kẻ không có quyền làm người,
những kẻ không có đất đai, những kẻ không có thức ăn, những kẻ không có nhà ở,
những kẻ không có sức khỏe. Trong câu trả
lời cuối cùng, ông Abraham đã minh bạch và quả quyết, mạnh mẽ: “Nếu chúng không chịu nghe Môisen và các tiên
tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu!” Cuộc đối thoại kết thúc theo cách này! Đến đây chấm dứt bài dụ ngôn!
- Chìa khóa để hiểu được ý nghĩa
của Kinh Thánh là người hành khất Lagiarô, đang ngồi trước cổng nhà! Thiên Chúa tự giới thiệu mình trong con người
của kẻ nghèo khó, ngồi tại cửa nhà chúng ta, để giúp chúng ta lấp đầy hố sâu to
lớn mà người giàu có đã tạo ra. Lagiarô
cũng là Chúa Giêsu, kẻ nghèo khó và là Đấng Cứu Thế tôi tớ, Đấng đã không được
chấp nhận, nhưng Đấng mà cái chết đã hoàn toàn thay đổi mọi thứ từ gốc rễ. Và mọi việc thay đổi trong ánh sáng của cái
chết của người nghèo khó. Thậm chí nếu
nhà phú hộ nghĩ rằng ông ta có tôn giáo và đức tin, trong thực tế, thì ông ta
đã không ở cùng với Thiên Chúa, vì ông đã không mở cửa cho người nghèo khó, như
ông Giakêu đã làm (Lc 19:1-10).
4. Một
vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Tôi cư xử với người nghèo khó
ra sao? Họ có tên gọi cho chúng ta
không? Trong thái độ mà tôi có trước mặt
họ, tôi đã cư xử giống như Lagiarô hay giống như là nhà phú hộ?
- Khi người nghèo khó tiếp cận với
chúng ta, họ có cảm nhận được có cái gì đó khác thường không? Họ có cảm nhận được Tin Mừng không? Và tôi, tôi có xu hướng thiên về bên nào, hướng
về phép lạ hay hướng về Lời Chúa?
5. Lời
nguyện kết
Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân,
Chẳng bước vào đường quân tội lỗi,
Không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng,
Nhưng vui thú với lề luật CHÚA,
Nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày.
(Tv 1:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét