Thánh vịnh 78 B
Thánh vịnh 78 là một sáng tác mang ảnh hưởng của trường phái
Đệ Nhị Luật và nhắm mục đích khắc ghi sâu đậm nơi tâm trí những người
tham dự phụng vụ bổn phận ghi nhớ các biến cố quá khứ, là các điềm thiêng dấu lạ
Thiên Chúa đã làm cho Israel cũng như các bất trung của cha ông, để họ biết lượng
định đúng đắn giá trị các kỳ công ấy của Thiên Chúa, tránh xa các bất trung của
cha ông, và trung thành với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.
Thánh vịnh gồm phần mở đầu, các câu 2-11; các việc kỳ diệu
Thiên Chúa đã làm trong sa mạc, các câu 12-31; sự bất trung của thế hệ cha ông
và lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với họ, các câu 32-41; từ các việc kỳ diệu
Thiên Chúa thực hiện bên Ai Cập cho tới lúc chiếm được Đất Hưá, các câu 42-52;
sự bất trung của dân Chúa và việc Thiên Chúa bỏ rơi dân Israel thời các Thủ
Lãnh, các câu 56-64; việc thức tỉnh ơn huệ của Thiên Chúa với sự tuyển chọn vua
Đavít, các câu 65-72.
Phần hai của thánh vịnh, các câu 12-31 trình bầy đề tài đầu
tiên trong hai đề tài là sự toàn năng Thiên Chúa sử dụng để che chở Israel và
thái độ sống bất trung của Israel khiên cho Thiên Chúa phải đánh phạt họ.
Hai đề tài này giao thoa chặt chẽ với nhau. Các câu vv. 12-16 kể lại các
“việc diệu kỳ” Thiên Chúa đã làm cho các thế hệ cha ông, bắt đầu từ “đất Ai Cập”,
qua Biển Đỏ, nước rẽ ra cho dân Do thái đi qua, dọc đường đi trong sa mạc với cột
mây che nắng ban ngày, cột lửa soi sáng ban đêm, nước vọt ra từ đá tảng. Các
câu 17-22 kể lại cuộc nổi loạn của dân Do thái vì thiếu ăn thiếu uống, không
tin nơi quyền năng và tình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, khiến cho
Thiên Chúa nổi giận. Các câu 23-29 kể lại phép lạ kép là bánh manna và thịt
chim cút. Các câu 30-31 miêu tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa liên quan tới việc
nuôi dân bằng bánh manna.
“Trước mắt cha ông họ, Người đã làm bao việc lạ lùng tại
cánh đồng Xô-an bên Ai-cập. Người rẽ Biển Đỏ cho họ vượt qua, dồn nước lại như
tường thành sừng sững; dùng cột mây hướng dẫn họ ban ngày và ban đêm lấy lửa hồng
soi sáng. Người xẻ đá giữa sa mạc hoang vu, khiến nước tuôn tràn cho dân được uống,
từ khe đá, Người khơi dòng suối chảy, nước đổ dạt dào như những con sông. Nhưng
dân lại càng phạm tội mất lòng Chúa,
phản nghịch cùng Đấng Tối Cao tại miền hoang địa; họ chủ tâm thách thức cả Chúa Trời, đòi được ăn cho vừa sở thích. Họ kêu trách Thiên Chúa rằng trong sa mạc này, liệu Chúa Trời có thể dọn gì cho ta ăn? Người đập vào tảng đá làm cho nước chảy ra như thác lũ lan tràn, nhưng liệu còn có thể cung cấp cho dân Người bánh và thịt nữa chăng? Nghe thấy thế, Giavê liền phẫn nộ, bừng lửa giận với nhà Gia-cóp, nổi trận lôi đình với Ít-ra-en, vì họ đã không tin ở Chúa Trời, chẳng cậy trông ơn Người cứu độ.
Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực. Trên trời cao, Người giục gió đông thổi tới,
dùng sức mạnh đưa ngọn gió nam về. Người cho mưa thịt xuống nhiều như bụi, chim chóc ê hề như cát đại dương; Người cho rớt vào ngay doanh trại, chung quanh lều dân ở. Họ được ăn, ăn thật no nê, thèm thứ gì, Người đãi cho thứ đó. Nhưng khi họ chưa kịp đã thèm, khi miếng ăn còn chưa kịp nuốt, thì cơn giận Chúa Trời đã bừng lên phạt họ. Chúa giết ngay những người khoẻ nhất Ít-ra-en. Chúa giết liền bọn trai trẻ ấy.
phản nghịch cùng Đấng Tối Cao tại miền hoang địa; họ chủ tâm thách thức cả Chúa Trời, đòi được ăn cho vừa sở thích. Họ kêu trách Thiên Chúa rằng trong sa mạc này, liệu Chúa Trời có thể dọn gì cho ta ăn? Người đập vào tảng đá làm cho nước chảy ra như thác lũ lan tràn, nhưng liệu còn có thể cung cấp cho dân Người bánh và thịt nữa chăng? Nghe thấy thế, Giavê liền phẫn nộ, bừng lửa giận với nhà Gia-cóp, nổi trận lôi đình với Ít-ra-en, vì họ đã không tin ở Chúa Trời, chẳng cậy trông ơn Người cứu độ.
Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực. Trên trời cao, Người giục gió đông thổi tới,
dùng sức mạnh đưa ngọn gió nam về. Người cho mưa thịt xuống nhiều như bụi, chim chóc ê hề như cát đại dương; Người cho rớt vào ngay doanh trại, chung quanh lều dân ở. Họ được ăn, ăn thật no nê, thèm thứ gì, Người đãi cho thứ đó. Nhưng khi họ chưa kịp đã thèm, khi miếng ăn còn chưa kịp nuốt, thì cơn giận Chúa Trời đã bừng lên phạt họ. Chúa giết ngay những người khoẻ nhất Ít-ra-en. Chúa giết liền bọn trai trẻ ấy.
“Trong đất Ai Cập”: ở đây tác giả không nói tới các điềm
thiêng dấu lạ Giavê Thiên Chúa đã thực hiện qua bàn tay của ông Môshê, trước biến
cố dân Do thái băng qua Biển Đỏ. Chúng sẽ được nhắc tới một cách rộng rãi hơn
trong các câu 42-51 của thánh vịnh. Việc nhắc đến “đất Ai Cập” được dùng như điểm
quy chiếu lịch sử địa lý cần thiết cho việc bắt đầu trình bầy, đồng thời cũng
như là điểm khởi hành của loạt các việc diệu kỳ đã được gợi lại.
“Soan” là thánh phố San, hay Tanis theo các tài liệu Hy lạp,
nằm dọc phiá đông bờ sông Nilo, trên bờ Địa Trung Hải. Nó đã là thủ đô của Ai Cập
vào triều đại thứ XXI, tức khoảng giữa các năm 1090 tới 945 trước công nguyên.
Nó được nhắc tới trong chương 13 câu 22 sách Dân Số và trong vài văn bản ngôn sứ.
Chương 19 sách ngôn sứ Isaia viết về việc Thiên Chúa hạch tội Ai Cập như sau:
“Các thủ lãnh Xô-an ngu si đần độn,
những mưu sĩ khôn ngoan nhất của Pha-ra-ô bày mưu kế điên rồ.
Sao các ngươi lại nói với Pha-ra-ô: "Tôi là con của bậc hiền nhân, thuộc dòng dõi tiên đế"? Bậc hiền nhân của ngươi nay đâu rồi? Ước chi chúng cứ thông báo cho ngươi và ước chi mọi người được biết điều Giavê các đạo binh đã quyết định về Ai-cập! Các thủ lãnh Xô-an đã ra ngớ ngẩn,
các thủ lãnh Nốp đã sai lầm; những người đứng đầu các chi tộc của chúng
đã làm cho Ai-cập ngả nghiêng.” (Is 19,11-13). Còn ngôn sứ Edekiel thì miêu tả việc Thiên Chúa trrừng phạt Ai Cập như sau:”Giavê là Chúa phán thế này: Ta sẽ huỷ diệt các ngẫu tượng, sẽ loại trừ khỏi Nốp các tà thần. Đất Ai-cập sẽ không còn ông hoàng nữa. Ta sẽ làm cho Ai-cập đắm chìm trong sợ hãi. Ta sẽ tàn phá Pát-rốt, sẽ châm lửa đốt Xô-an, sẽ thi hành án phạt dành cho Nô. Ta sẽ trút cơn thịnh nộ của Ta xuống Xin, đồn luỹ kiên cố của Ai-cập. Ta sẽ huỷ diệt đám đông quân Nô. Ta sẽ châm lửa đốt Ai-cập; Xin sẽ quằn quại trong đau đớn; Nô sẽ bị chọc thủng và Nốp bị tấn công giữa ban ngày.” (Ed 30,13-16).
những mưu sĩ khôn ngoan nhất của Pha-ra-ô bày mưu kế điên rồ.
Sao các ngươi lại nói với Pha-ra-ô: "Tôi là con của bậc hiền nhân, thuộc dòng dõi tiên đế"? Bậc hiền nhân của ngươi nay đâu rồi? Ước chi chúng cứ thông báo cho ngươi và ước chi mọi người được biết điều Giavê các đạo binh đã quyết định về Ai-cập! Các thủ lãnh Xô-an đã ra ngớ ngẩn,
các thủ lãnh Nốp đã sai lầm; những người đứng đầu các chi tộc của chúng
đã làm cho Ai-cập ngả nghiêng.” (Is 19,11-13). Còn ngôn sứ Edekiel thì miêu tả việc Thiên Chúa trrừng phạt Ai Cập như sau:”Giavê là Chúa phán thế này: Ta sẽ huỷ diệt các ngẫu tượng, sẽ loại trừ khỏi Nốp các tà thần. Đất Ai-cập sẽ không còn ông hoàng nữa. Ta sẽ làm cho Ai-cập đắm chìm trong sợ hãi. Ta sẽ tàn phá Pát-rốt, sẽ châm lửa đốt Xô-an, sẽ thi hành án phạt dành cho Nô. Ta sẽ trút cơn thịnh nộ của Ta xuống Xin, đồn luỹ kiên cố của Ai-cập. Ta sẽ huỷ diệt đám đông quân Nô. Ta sẽ châm lửa đốt Ai-cập; Xin sẽ quằn quại trong đau đớn; Nô sẽ bị chọc thủng và Nốp bị tấn công giữa ban ngày.” (Ed 30,13-16).
“Chia rẽ Biển Đỏ”: ám chỉ biến cố Giavê Thiên Chúa cho gió
thổi suốt đêm rẽ nuớc biển thành hai để cho dân Do thái ráo chân băng qua, như
kể trong chưong 14 sách Xuất Hành: “Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Giavê cho
một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô
cạn. Nước rẽ ra, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng
sững như tường thành hai bên tả hữu.” (Xh 14,21-22).
“Nước đứng lại như bị giữ bởi một bờ”: dịch sát chữ là: “nước
đứng lại như một con đê”. Kiẻu nói này đã có trong bài ca chiến thắng của ông
Môshê: “Nộ khí Ngài, lạy Chúa, đã khiến nước dâng lên, sóng trùng dương dồn lại
dựng đứng như tường thành; giữa lòng biển thẳm sâu, nước bỗng đâu ngừng chảy.”
(Xh 15,8).
“”Một đám mây”: Chương 13 câu 21 sách Xuất Hành nói rằng
Giavê “đi trước dân Ngài” “ban ngày trong một cột mây, để hướng dẫn họ”, và
“ban đêm trong một cột lửa” để soi sáng cho họ. Nhưng điều này quy chiếu hành
trình của Israel trong đất Ai Cập trước khi tới bờ phiá đông của Biển Đỏ. Trong
hành trình trong sa mạc Sinai sách Xuất Hành và sách Dân Số nhiều lần đề cập tới
cột mây quy chiếu việc Thiên Chúa tỏ hiện cho ông Môshê trên núi Sinai
(Xh 34,5; Ds 11,25; Tv 99,7) cũng như dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong
Lều giao ước (Ds 9,6). Trong khi chương 1 sách Đệ Nhị Luật đề cập một cách rõ
ràng tới sự kiện Thiên Chúa hướng dẫn dân Ngài “ban đêm trong lửa để cho họ thấy
đường và ban ngày trong đám mây”, sau biến cố vượt Biển Đỏ và sau các biến cố tại
Sinai. Đó cũng là điều được nhắc tới trong thánh vịnh 105: “Chúa giăng mây làm
màn che phủ họ và cho lửa hồng soi sáng ban đêm.” (Tv 105,39).
“Đập đá trong sa mạc để cho họ uống”: ám chỉ phép lạ ban cho
dân Do thái nước uống, là yếu tố quan trọng sinh tử trong sa mạc. Nó được nhắc
tới trong một chặng giữa Biển Đỏ và núi Sinai, sau phép lạ bánh manna, gần
Refadim như kể trong chương 17 sách Xuất Hành (Xh 17,1-7). Đó là giai thoại nước
Massa có nghĩa là “thử thách” và Meriba có nghĩa là “cãi cọ”, mà chương 20 sách
Dân Số đặt để gần Cadesh, bắt đầu chặng cuối cùng dẫn dưa dân Do thái vào ngưỡng
cửa Đất Hứa (Ds 20,2-13).
“Từ vực thẳm vĩ đại”: trong vũ trụ quan của Thánh Kinh và thế
giới Đông phương vực thẳm là đại dương bên dưới, gồm nước ngọt từ đó vọt ra các
nguồn và suối nước, như viết trong thánh vịnh 74 “chính Ngài đã khơi nguồn cho
suối tuôn thác đổ, chính Ngài làm cạn khô sông đang chảy dạt dào.” (Tv 74,15).
Thánh vịnh 114 cũng viết: “Người biến đá tảng thành hồ ao, và sỏi đá nên mạch
nước dồi dào.” (Tv 114,8).
“Thế mà họ tái phạm tội chống lại Ngài”: chúng ta đang ở trước
một lược đồ nền tảng của việc “xưng thú” tội lỗi. Đáp lại các ân huệ của Thiên
Chúa dân Israel trả lời với sự vô ơn và nổi loạn, như viết trong thánh vịnh
106: “Xưa bên Ai-cập, tổ tiên chúng con đã không hiểu những kỳ công của Chúa,
đã chẳng nhớ ân huệ vô vàn, và phản loạn ở nơi Biển Đỏ…Trong sa mạc, lòng
buông theo dục vọng, chốn hoang vu, họ thách thức Chúa Trời… Bên dòng nước
Mơ-ri-va, họ trêu giận Người, khiến Mô-sê vì họ mà chuốc hoạ vào thân, bởi họ
làm ông trí lòng bực bội, mở miệng ra ông đã lỡ lời… Đã bao lần Chúa
thương giải cứu, nhưng họ vẫn cố tình phản nghịch, đắm chìm trong tội ác
của mình.” (Tv 106, 7.14.32-33.43).
“Và họ thử thách Thiên Chúa”: sự thử thách cổ điển mà
dân Do thái đã làm trong sa mạc là sự thử thách tại Massa và Meriba, và được nhắc
tới nhiều lần trong các Thánh vịnh (Tv 95,9; 106,32) cũng như trong sách Đệ Nhị
Luật (Đnl 6,16; 33,8). Liên quan tới phép lạ bánh manna trong hai trình thuật
sách Xuất Hành chương 16 và sách Dân Số chương 11 nó chỉ xuất hiện trong khung
cảnh của việc lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa, câu 19. “Chúng thử thách
Thiên Chúa trong tâm lòng bằng cách xin bánh cho các ham muốn của chúng”:
kiểu nói này cũng được tìm thấy trong thánh vịnh 106 câu 15 với cùng bối cảnh
và quy chiếu văn bản sách Dân Số chương 11 câu 34 cho biết Giavê đánh phạt tội
ham ăn uống của họ, liên quan tới biến cố chim cút ở gần Qibrot Hatta’awah, dịch
sát chữ là “các mồ chôn của sự thèm muốn”.
“Bánh … thịt” diễn tả trước bánh manna và thịt chim cút sẽ
được nhắc tới trong các câu 23-29. “Giavê nghe thấy các lời lẩm bẩm than trách của
họ” và cơn thịnh nộ của Ngài bùng lên, và nổ tung lửa chống lại họ và thiêu rụi
đầu trại.” Đề tài cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước và sau giai thoại chim cút
hoàn toàn vắng bóng trong giai thoại bánh manna của chương 16 sách Xuất Hành.
Tuy dân Israel không tin nơi Thiên Chúa và không hy vọng vào
sự cứu rỗi, nhưng Thiên Chúa vẫn cho mưa manna xuống trên họ. “Bánh của những
người mạnh mẽ”: abbirim ở đây là từ ám chỉ các “binh sĩ giỏi” cũng như các vị
chỉ huy quân đội hay một lớp người. “Bánh của người mạnh mẽ” có nghĩa là bánh
khiến cho binh sĩ nên cường tráng, áp dụng cho điều kiện hầu như quân đội của
dân Israel tiến bước trong sa mạc hướng về Đất Hứa. Văn bản Thánh Kinh Hy Lạp Bẩy
Mươi dịch là “bánh của các thiên thần”, từ đó phát xuất ra kiểu gọi phụng vụ của
bánh thánh thể là “bánh của các thiên thần” bằng cách cho từ abbirim số nhiều
cùng nghĩa của số ít abbir trong tính từ gọi Thiên Chúa “Abbir Đấng Mạnh Mẽ của
Giacóp” (st 49,34; Is 49,26) hay của Israel (Is 1,24), là tính từ phát xuât tử
ngôn ngữ chiến tranh. Như vậy theo văn bản Hy Lạp Bẩy Mươi “abbirim” ám chỉ các
nhân vật thiên quốc, vì thế nên dịch là các thiên thần, cũng gần như elim hay
bene el hoặc bene elohim dịch sát là “các thần”, các con cái của El hay các con
cái của các thần, hay của Thiên Chúa.
“Người cho gió đông thổi tới và cho mưa chim cút xuống trại
của dân Israel: Chương 11 sách Dân Số miêu tả một cách thậm xưng theo tâm thức
đông phương như sau: “Một luồng gió do Giavê khơi dậy đã lùa chim cút từ phía
biển tới, và thổi chúng dạt xuống trại thành một đường dài đi một ngày mới hết,
ở bốn phía chung quanh trại, dày tới một thước trên mặt đất. Dân bận rộn
lượm chim cút suốt ngày suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau; người lượm ít nhất cũng
được hai trăm thùng, và họ đem phơi chung quanh trại” (Ds 11,31-32). Nhưng tội
tham ăn ấy của một phần dân Israel đã bị Thiên Chúa đánh phạt. Và sách Dân Số
miêu tả như sau: “Thịt còn đang ở giữa hai hàm răng, chưa kịp nhai thì cơn thịnh
nộ của Giavê đã bừng lên trút xuống dân và Giavê đã đánh phạt dân dữ dội. Và
người ta đã đặt tên cho nơi đó là Kíp-rốt Ha Ta-a-va, vì ở đó họ đã chôn đám
dân thèm ăn.” (Ds 11,33-34)
TV 78 B
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét