Trang

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

18-12-2013 : THỨ TƯ TUẦN III MÙA VỌNG

TUẦN BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ GIÁNG SINH
Ngày 18 tháng 12
Mùa Vọng


Bài Ðọc I: Gr 23, 5-8
"Ta sẽ gây cho Ðavít một mầm giống công chính".
Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Này đây, đã tới những ngày Ta gây cho Ðavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước. Những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel sẽ được an cư, và chúng sẽ gọi tên Người là "Chúa công bình của chúng ta".
Chúa phán: "Vì thế, đã đến ngày chúng không còn nói được rằng: "Chúa hằng sống, Người đã đưa con cái Israel ra khỏi đất Ai-cập", nhưng chúng nói: "Chúa hằng sống, Người đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất Bắc"; (và) từ các nước chúng bị Ta phân tán, Ta dẫn đưa chúng về quê hương.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 12-13. 18-19
Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người tới muôn đời (x. c. 7).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Israel, một mình Người làm những việc lạ lùng. Chúc tụng muôn đời vinh danh Chúa, khắp hoàn cầu đầy dẫy vinh quang Người. - Ðáp.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðấng Thủ lãnh nhà Israel, Ngài đã ban lề luật cho Môsê trên núi Sinai, xin hãy đến mà ra tay cứu chuộc chúng con. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 1, 18-24
"Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm: Dòng Tộc Của Chúa Kitô

Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Ðiều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quần nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Ðến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Ðộng lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt của mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: "Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con".
Anh chị em thân mến!
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuật việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.
Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

(Veritas Asia)

Lectio Divina: Mátthêu 1:18-24
Thứ Tư, 18 Tháng 12, 2013
Tuần thứ ba Mùa Vọng                                      


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa là Thiên Chúa trung tín,
Trong Đức Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con một con người
Được lấy từ máu và thân xác loài người,
Một con người, nhưng Con Một Chúa
Nhờ Người và Chúa muốn khôi phục lại
Tính vẹn toàn và lòng trung tín trong chúng con.
Xin Chúa giúp chúng con trao ban cho Người,
Cho Chúa cũng như với nhau,
Sự đáp ứng thích hợp và đầy đủ
Của tình yêu trung thành, phục vụ,
Mà Chúa mong đợi từ dân của Chúa.
Xin Người là Thiên Chúa của chúng con muôn đời
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.


2.  Phúc Âm – Mátthêu 1:18-24

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:  Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần.  Giuse định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:  “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình:  vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu:  vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.” 
Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:  Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” 
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện lời thiên thần Chúa truyền:  ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

3.  Suy Niệm

-  Trong sách Tin Mừng của thánh Luca câu chuyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu (các chương 1 và 2 của Tin Mừng Luca) được tập trung vào con người của Đức Maria.  Ở đây, trong sách Tin Mừng của Mátthêu câu chuyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu (các chương 1 và 2 của Tin Mừng Mátthêu) được tập trung vào con người của thánh Giuse, vị hôn phu của Đức Maria.  Thánh Giuse là con cháu của vua Đavít.  Thông qua ông, Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi vua Đavít.  Vì vậy trong Đức Giêsu, các lời hứa của Thiên Chúa với vua Đavít và các con cháu ông được thực hiện.

-  Như chúng ta đã thấy trong bài Tin Mừng của ngày hôm qua, trong số bốn người phụ nữ, bạn đồng hội đồng thuyền với Đức Maria, trong gia phả của Chúa Giêsu, có điều gì đó bất thường không tương ứng với các kỷ cương của Lề Luật:  các bà Tamar, Raháb, Rút vá Bátshêba.  Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rằng Đức Maria cũng có một điều gì đó hơi bất thường, trái với Lề Luật vào thời bấy giờ. Dưới con mắt của người dân thành Nagiarét, bà có vẻ như đã mang thai trước khi về chung sống với ông Giuse.  Dân chúng lẫn người chồng sắp cưới đã không biết gì về nguồn gốc của việc mang thai này.  Nếu ông Giuse là người công chính theo như công lý của các Kinh Sư và người Pharisêu, thì ông phải nên lên án Đức Maria, và hình phạt mà Đức Maria sẽ phải chịu là cái chết, bị ném đá.

-  Thánh Giuse là người công chính, đúng thế, nhưng công lý của ông lại khác.  Ông đã thực hành trước những gì mà Chúa Giêsu sẽ giáo huấn sau này:  “Nếu các con không ăn ở công chính hơn các Kinh Sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20).  Đây là lý do tại sao, thánh Giuse vì không hiểu các sự việc và không muốn từ hôn Đức Maria, nên đã quyết định lìa bỏ bà cách kính đáo.

-  Trong Kinh Thánh, việc khám phá ra ơn gọi của Thiên Chúa trong các sự kiện của cuộc sống, xảy ra trong nhiều cách khác nhau.  Ví dụ, nhờ việc suy niệm các sự việc (Lc 2:10,51), nhờ vào việc suy gẫm Kinh Thánh (Cv 15:15-19; 17:2-3), thông qua các thiên thần Chúa (danh từ thiên thần Chúa có nghĩa là sứ giả), đấng đã giúp khám phá ra ý nghĩa của các sự kiện (Mt 28:5-7).  Thánh Giuse đã thành công trong việc nhận thức được tầm quan trọng về những gì đang xảy ra trong Đức Maria qua giấc chiêm bao. Trong giấc mơ, thiên thần Chúa đã dùng Kinh Thánh để làm rõ nguồn gốc việc mang thai của Đức Maria.  Điều đó đến từ quyền phép của Chúa Thánh Thần.

-  Khi mọi việc đã sáng tỏ cho Mẹ Maria, bà nói:  “Vâng, này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói!”  Khi mọi việc sáng tỏ cho thánh Giuse, ông tiếp nhận Đức Maria như người phối ngẫu của mình và họ đã sống chung với nhau.  Nhờ vào sự công chính của thánh Giuse, Đức Maria đã không bị xử tử, đã không bị ném đá và Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sống trong lòng Mẹ.   

4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân

-  Trong mắt của các Kinh Sư, sự công chính của thánh Giuse sẽ là một sự bất tuân phục.  Có sứ điệp gì cho chúng ta trong việc này không?  
-  Làm thế nào để bạn khám phá ra được ơn gọi của Lời Chúa trong các sự kiện của cuộc sống của bạn?    

5.  Lời nguyện kết

Người giải thoát bần dân kêu khổ
Và kẻ không cùng không chỗ tựa nương,
Chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ  (Tv 72:12-13)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 18 tháng 12 MV
Bài đọc: Jer 23:5-8; Mt 1:18-24.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công chính và tội lỗi
Mọi người đều phạm tội. Làm thế nào để con người trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa? Con người có thể trở nên công chính bằng việc giữ luật không? Thánh Phaolô quả quyết rằng “Không!” vì không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, mới có thể làm con người nên công chính. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Jeremiah tiên báo: Đức Chúa (Chúa Kitô) là sự công chính của chúng ta. Trong Phúc Âm, Thánh Giuse là “người công chính,” muốn bỏ Mẹ Maria cách kín đáo; nhưng khi được Thiên Thần mộng báo, đã vâng theo ý Thiên Chúa và chấp nhận Bà Maria và Chúa Giêsu về nhà mình.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta.
1.1/ Giòng dõi David từ chỗ hy vọng tan tành tới chỗ hòan tất của lời hứa: Khi người Do-Thái sống trong nơi lưu đày, chắc họ đã nhận thấy hy vọng của họ vào những gì Thiên Chúa đã chúc lành cho họ qua Tổ-phụ Jacob và những lời tiên tri của Isaiah, quyển I, Micah, và các tiên tri khác bị tan tành theo mây khói. Làm sao có thể khôi phục lại đất nước trong hòan cảnh lưu đày? Làm sao có thể khôi phục lại vương triều của giòng dõi Judah để Đấng Cứu Thế xuất hiện? Nhưng Tiên Tri Jeremiah vẫn hy vọng: “Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh.”
1.2/ Vua công chính: “Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."
(1) Đấng đưa con cái Israel lên khỏi đất Ai-Cập: chỉ biến cố Xuất Hành, khi Thiên Chúa đưa dân ra khỏi đất nô lệ của Ai-Cập qua sự lãnh đạo của Moses và Aaron.
(2) Đấng đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất phương Bắc: chỉ sự hồi hương và tái thiết quốc gia cùng Đền Thờ, khi Thiên Chúa giải thóat dân khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
2/ Phúc Âm: Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội.
Tin Mừng Matthêu tường thuật hòan cảnh đính hôn của cha mẹ Chúa Giêsu như sau: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: Bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.”
2.1/ Nỗi khó khăn của Thánh Giuse: Để hiểu lời tường thuật của Matthêu, chúng ta phải hiểu phong tục của Do-Thái liên quan tới việc kết nghĩa vợ chồng. Giống như phong tục Việt-Nam, có 3 giai đọan:
(1) Hứa hôn: Khi hai trẻ còn nhỏ, cha mẹ hai bên muốn kết nghĩa sui gia; nên cha mẹ hai bên hứa hẹn với nhau, sẽ gả con cho nhau khi hai trẻ tới tuổi lập gia đình. Đây chỉ là một lời hứa và không bị ràng buộc về khía cạnh pháp lý. Nếu hai trẻ không đồng ý hay hai cha mẹ đổi ý, lời hứa không còn hiệu lực.
(2) Đính hôn: Đó là từ chính xác Matthêu dùng để chỉ hòan cảnh của Ông Giuse và Bà Maria hôm nay. Khi gia đình hai bên và hai trẻ đồng ý tiến tới, họ bước vào giai đọan đính hôn để tìm hiểu nhau kỹ càng hơn trong thời hạn một năm. Trong giai đọan này, theo luật Do-Thái, lời hứa bị ràng buộc, hai người được coi như vợ chồng; mặc dù chưa được “ăn ở” với nhau như vợ chồng. Nếu chồng không tiến tới, ông phải làm đơn xin ly dị và nêu rõ lý do. Nếu chồng chết trong giai đọan này, người vợ được gọi là “góa phụ đồng trinh.”
(3) Thành hôn: Sau thời hạn đính hôn một năm, hai người tiến tới giai đọan chính thức thành vợ chồng.
Nỗi khó khăn của Ông Giuse, như trình thuật nói, vì ông là người công chính nên ông không thể dung thứ tội lỗi cho Bà Maria. Theo Lề Luật, Ông phải tố cáo Bà Maria để bị ném đá cho tới chết vì đứa con trong bào thai không phải là của Ông. Nhưng Ông chắc cũng linh tính một trường hợp đặc biệt liên quan đến Bà Maria và đứa con trong bụng, nên cuối cùng Ông quyết định lìa bỏ Bà cách âm thầm kín đáo.
2.2/ Ý muốn của Thiên Chúa: Trong khi Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Tên Giêsu là tiếng Hy-Lạp dịch từ tiếng Do-Thái Joshua, có nghĩa là “giải thóat hay cứu độ.” Chúa Giêsu được gọi là Đấng Giải Thóat, Cứu Thế, hay Chuộc Tội, vì Ngài gánh tội và giải thóat cho nhân lọai khỏi tội.
Sứ Thần của Thiên Chúa biết những gì Ông Giuse đang suy nghĩ và cung cấp câu trả lời cho Ông: người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Để hiểu “quyền năng Chúa Thánh Thần,” chúng ta cần hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần trong chương trình của Thiên Chúa. Truyền thống Do-Thái hiểu 4 công việc chính của Thánh Thần:
(1) Ngài là Sự Thật, Ngài đem sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người. Chúa Giêsu hứa với các môn đệ Ngài: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Jn 16:13).
(2) Ngài làm cho con người hiểu và nhận ra sự thật. Thánh Gioan hiểu rõ: Nếu không có Thánh Thần giúp sức, con người không thể hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:26).
(3) Ngài hiện diện với Thiên Chúa ngay từ khi sáng tạo vũ trụ. Ngài là hơi thở của Thiên Chúa: để phát ra Lời (Ngôi Hai) và ban hơi thở và sự sống cho muôn lòai. Tác giả của Thánh Vịnh 33 hiểu rõ sứ vụ của Ba Ngôi Thiên Chúa trong việc sáng tạo: “Một Lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Psa 33:6). Sự khôn ngoan của Thiên Chúa phải có Hơi (pneuma) và Lời (logos) để tạo thành vũ trụ.
(4) Ngài cũng là nguyên nhân chính của “đổi mới và tái tạo.” Thị kiến của Tiên Tri Ezekiel về “Ruộng Xương Khô” là một ví dụ cho công việc này của Thánh Thần: “Người lại bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh." Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể” (Eze 37:9-10). Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu tới để đổi mới và ban sinh lực cho con người. Ngài tiêu diệt tội lỗi trong con người cũ và ban ơn thánh để làm cho con người trở nên con người mới tinh tuyền và thánh thiện.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì chúng ta đều phạm tội, chúng ta không thể trở nên công chính bằng sức mình.
- Chúng ta chỉ có thể trở nên công chính bằng tin vào Đức Kitô, Đấng gánh tội và giải thóat chúng ta khỏi mọi quyền lực của tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẢY MẦM
TUẦN BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ GIÁNG SINH

Mt 1,18-24

A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu nét thứ hai của Chúa Cứu Thế sắp sinh ra : Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người (Câu 23). Bài Tin Mừng cũng giới thiệu một người đóng vai trò tích cực cho việc Ngài sinh ra : Thánh Giuse.
1. Phần đóng góp của Thánh Giuse vào công trình nhập thế của Chúa Giêsu là : a/ Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước (Câu 20b : “Này ông Giuse, là con cháu Đavít” ; Câu 21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ” : Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý) ; b/ Bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu (câu 20c “Đừng ngại đón Maria về ; câu 24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” ; câu 25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”)
2. Về ý định ban đầu của Thánh Giuse muốn bỏ đi cách âm thầm kín đáo, các chuyên viên Thánh Kinh còn chưa nhất trí nhau ở một số chi tiết. Nhưng mọi người đều nhất trí về động cơ hướng dẫn mọi hành động của thánh Giuse (ý định ban đầu, và quyết định ở lại sau đó), đó là vì “Giuse là người công chính”. Một giải thích rất đáng lưu ý là : Ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa bé nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó định âm thầm ra đi (Công chính = không xâm phạm quyền lợi của người khác) ; sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì, cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính = thi hành ý Thiên Chúa).
3. Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thề sống chung với loài người, bất chấp mọi nghèo nàn, túng thiếu, hèn hạ, khổ sở... Yêu thương là chia vui sẻ buồn, chia sẻ thân phận...

B.... nẩy mầm.

1. Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” : Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu Kitô. Muốn cứu người, không phải chỉ đứng xa chỉ tay năm ngón, hoặc vẽ kế hoạch rồi cho người khác thực hiện. Nhưng là chia sẻ thân phận, đồng hành, và cuối cùng là chịu thiệt vào thân, leo lên cây thập giá. Thập giá là bước cuối cùng của nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô. - Lạy Chúa, xin dạy con biết dấn thân phục vụ như Chúa.
2. Giuse đã thay đổi kế hoạch của mình để theo được ý Chúa. Những nhận định và tính toán của ta, dù đầy thiện chí, nhiều khi lại không hợp với chương trình và ý định của TC. Người công chính là người biết bỏ ý riêng, biết thi hành ý Chúa, biết sống lời Fiat như Mẹ Maria, biết sống câu ‘Xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” như CG.
3. Với con mắt người đời, tình yêu của đôi nam nữ Giuse và Maria xem ra chỉ là chuyện bình thường. Nhưng với kế hoạch của TC, với sự quảng đại đáp trả ơn Chúa gọi, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã góp phần cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. - Lạy Chúa, xin cho con biết dùng tình cảm và tình yêu của con để phục vụ nước Chúa.
4. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như thiên thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24)
Tên thánh của tôi là Giuse. Tôi rất tự hào về điều đó và thường tự hỏi “Mình phải làm thế nào để trở nên giống thánh bổn mạng ?” Thánh Giuse đã làm như thiên thần dạy là đón nhận Đức Maria. Ngài chấp nhận cuộc sống âm thầm để phục vụ Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Còn tôi thì sao ? Một lần, tôi nhờ mẹ giặt hộ một bộ quần áo để đi dự tiệc. Vì bận việc, mẹ tôi đã quên. Tôi cằn nhằn và bỏ luôn buổi tiệc… Ngay cả chuyện nhỏ như vậy mà tôi chưa sẵn sàng vui vẻ đón nhận thì kể gì đến những chuyện lớn lao.
Xin Thánh Giuse dạy con biết khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa cách trọn vẹn như Ngài. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ


18/12/13 THỨ TƯ TUẦN 4 MV
Mt 1,18-24

LÀM CHO NGÀI LỚN LÊN
“Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1,21)

Suy niệm: Trước ngày lễ Giáng Sinh, ta được nghe ba cuộc truyền tin: một cho thánh Giuse, một cho ông Dacaria và một cho Đức Maria. Thánh Giuse, người công chính, đã nhanh chóng “đọc” được ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa và cũng mau mắn vâng lời. Đặt tên cho em bé là nói lên quyền làm cha của em. Con Trẻ tên là Giêsu, nghĩa làThiên Chúa cứu độ; và Ngài còn được gọi là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Để cứu chuộc con người, Con Thiên Chúa đã đến trần gian, mặc lấy thân xác và sống giữa, sống với con người. Thiên Chúa đã đích thân đến với con người bằng một cung cách thật gần gũi và bình thường.
Mời Bạn: Mạc khải ơn cứu độ là công việc của Thiên Chúa, nhưng để thực hiện ơn cứu độ ấy thì cần đến sự cộng tác của con người. Chỉ khi bạn sẵn sàng dẹp bỏ chương trình, sở thích cá nhân, để mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, bạn mới có thể cộng tác với chương trình của Ngai. Như Đức Maria khiêm tốn đón nhận lời truyền tin hay tựa như thánh Giuse lập tức thi hành điều được báo mộng, bạn cũng hãy tìm mọi cách giúp cho Chúa Giêsu nhập thể và sống giữa môi trường của bạn.
Chia sẻ: Chúa Giêsu đang ở vị trí nào trong cuộc đời bạn?
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ nỗ lực thực hiện câu quyết tâm sau đây: Hãy làm cho Ngài lớn lên trong đời sống và các sinh hoạt hằng ngày của mình.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con. Xin uốn nắn lòng người biết sẵn sàng đón nghe Lời Chúa, và củng cố tín hữu trong cuộc đời thánh thiện”.


Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ, nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời, có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.


Suy nim:
Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.
Ngài muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người.
Cách trở thành người của Con Thiên Chúa
vừa bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường.
Bình thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4).
Khác thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột,
nhưng do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20).
Đây là niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu.
Giáo Hội sung sướng đến với máng cỏ
để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.
Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse.
Giuse đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai,
dù Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới.
Ông không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình,
nhưng ông cũng không thể lấy Maria làm vợ,
với thai nhi trong bụng không phải của ông.
Cuối cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19).
Như thế ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.
Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse,
cần một người cha nhân loại cho Con mình.
Con Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha.
Người cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ.
Maria cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con.
Qua sứ thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20),
nghĩa là làm đám cưới chính thức với Maria.
Việc này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria,
nghĩa là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21).
Một lời mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng.
Đâu phải Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.
Giuse có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin.
Làm sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai?
Giuse có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha,
dù thực sự mình chẳng hề là thế.
Thiên Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya.
Và ông đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24).
Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ,
nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời,
có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.
Nếu không có những tiếng Xin Vâng của Maria và Giuse,
thì điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại đang cần ơn cứu độ?
Thiên Chúa chỉ ở-với-chúng ta nếu có những tấm lòng xin vâng.
Ngài vẫn cần tấm lòng của người mẹ biết cưu mang như Maria,
và tấm lòng của người cha dám chịu trách nhiệm
để Giêsu có chỗ đứng hợp pháp trong thế giới.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ



Suy niệm

"Người ta sẽ gọi con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Đó là tên mà sứ thần muốn Giuse đặt trên cho con trẻ Giêsu. Tên "Emmanuel" gợi lại cho chúng ta câu chuyện của vua Achab trong sách tiên tri Isaia. Vị vua này muốn chạy theo liên minh để chống quân Aram. Nhưng qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa kêu gọi vua hãy tin tưởng vào Chúa. Dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho là một người nữ sinh con, và tên người con được gọi là Emmanuel. Người con này chính là dấu chỉ Thiên Chúa luôn ở với vua Achab để bênh vực ông.
Emmanuel, được gán cho Chúa Giêsu. Với sự ra đời của Ngài, một lần nữa, Thiên Chúa muốn khẳng định với nhân loại rằng: Người luôn ở cùng chúng ta. Thiên Chúa không bỏ rơi con người, dù con người có tội lỗi đến đâu hoặc dù con người có thất trung với Người. Người đến và ở với nhân loại chúng ta cách hữu hình qua người Con của Người là Chúa Giêsu như thánh Gioan đã nói: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16). Chúa Giêsu là dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa, là lời khẳng định của Người với nhân loại: Người là Đấng giàu lòng thương xót và trung tín. Thánh Phaolô đã nói: "Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình" (2Tm 2,11-13).
Hãy tin tưởng vào lòng trung tín và lòng yêu thương của Thiên Chúa. Hãy đáp trả lại tình yêu thương đó bằng lòng tín thác vào Thiên Chúa và bằng tình yêu thương đối với đồng loại.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con. Chúa chẳng tiếc gì với chúng con, ngay cả chính Con Một, Chúa cũng ban cho chúng con. Chúa làm tất cả để chúng con được hạnh phúc đời đời. Xin giúp chúng con biết đáp trả lại tình yêu thương ấy bằng chính lòng tin yêu đối với Chúa và bằng đời sống yêu thương đối với tha nhân. Amen.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG MƯỜI HAI
Con Người Góp Phần Hoàn Thành Việc Thiên Chúa Đến
Trong biến cố thăm viếng, trước hết Êlizabét ca ngợi lòng tin của Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc vì đã tin rằng mọi điều Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc 1,45).
Thật vậy, khi được truyền tin, Đức Maria đã ưng thuận và bày tỏ lòng vâng phục trong đức tin. Sự ưng thuận này – tiếng ‘fiat’ này của Mẹ – là khoảnh khắc có tầm quyết định. Mầu nhiệm Nhập Thể là một mầu nhiệm thần linh, song đồng thời đó cũng là một mầu nhiệm của con người. Quả vậy, Đấng mặc lấy xác phàm ấy chính là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Tuy nhiên, đồng thời, thân xác của Người cũng hoàn toàn là thân xác nhân loại : Đây là điều kỳ diệu trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.
Vào chính khoảnh khắc mà Đức Ma-ri-a nói lên lời ‘fiat’ (xin vâng): “Xin thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói,” thì Chúa Con có thể thưa lên với Chúa Cha: “Cha đã chuẩn bị cho con một thân thể.” Như vậy, việc Thiên Chúa đến cũng đã được hoàn tất xuyên qua hành động của con người, xuyên qua niềm vâng phục trong đức tin.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18-12
Gr 23, 5-8; Mt 1, 18-24.

LỜI SUY NIỆM: Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”
Thánh Giuse là người công chính. Thánh nhân là người thông suốt lề luật và Kinh Thánh và luôn đón nhận thánh ý của Thiên Chúa và mau mắn thực thi thánh ý của Ngài. Thánh nhân khi đứng trước ý định của Thiên Chúa và ý riêng của mình. Thánh nhân dứt khoát dẹp ý riêng của mình, để thực thi Thánh ý của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho mọi người trong gia đình của chúng con, luôn yêu thích học hỏi lời Chúa. Tuân giữ luật Hội Thánh; sẵn sàng biết từ bỏ ý riêng của mình, để vâng theo thánh ý của Chúa.
Mạnh Phương


18 Tháng Mười Hai
Cái Nhìn Của Một Tướng Lãnh
Ðại tướng Marbot, trong tập ký sự, có kể lại một hôm, khi còn là thiếu úy, vua Nã Phá Luân sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Ðó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế của địch quân. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng dòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó đã báo động bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa tỏa ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng, Nã Phá Luân đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Ðôi mắt phượng hoàng của Nã Phá Luân đã xé tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ vũ khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Một cái nhìn của một vị tướng lãnh đã có sức nâng đỡ người lính chiến giữa trận địa như thế, cũng vậy, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi và nhìn mỗi người chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa không chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn cừu trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Người đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.
(lẽ sống)

Thứ Tư 18-12 
Chân Phước Anthony Grassi 

(1592-1671)
A
nthony mồ côi cha khi lên 10 tuổi, nhưng ngài đã học được nơi người cha sự sùng kính Ðức Mẹ Loreto. Khi còn là học sinh trung học, ngài thường đến nhà thờ của các cha Oratorian, và gia nhập dòng này khi mới 17 tuổi.
Từng nổi tiếng là một học sinh giỏi, nên không bao lâu ngài được mệnh danh là "cuốn tự điển sống" trong cộng đồng tu sĩ, ngài có thể hiểu Kinh thánh và thần học cách mau chóng. Trong một thời gian, ngài bị dằn vặt bởi sự quá đắn đo cân nhắc, nhưng cho đến khi cử hành Thánh Lễ đầu tiên, sự bình thản đã chiếm ngự toàn thể con người ngài.
Vào năm 1621, khi 29 tuổi, Anthony bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ ở Loreto. Ngài được đưa vào bệnh viện, và ai cũng nghĩ là ngài sẽ chết. Một vài ngày sau, khi tỉnh dậy, ngài nhận ra rằng căn bệnh đau bao tử dai dẳng của ngài đã biến mất. Quần áo cháy nám của ngài được tặng cho nhà thờ Loreto như một kỷ niệm biến cố lớn trong đời.
Quan trọng hơn nữa, ngài cảm thấy cuộc đời mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Sau đó, hàng năm ngài đều hành hương đến Loreto để dâng lời cảm tạ.
Ngài cũng nổi tiếng là cha giải tội đơn sơ và thẳng thắn, lắng nghe người xưng tội, và chỉ bảo họ sống phù hợp với lương tâm. Năm 1635, ngài được chọn làm bề trên Tu Viện Fermo, và được tái đắc cử nhiều nhiệm kỳ cho đến khi ngài qua đời. Ngài là vị bề trên trầm lặng và hiền từ không biết thế nào là khắt khe. Nhưng quy luật của dòng luôn được ngài duy trì và buộc mọi tu sĩ phải tôn trọng.
Ngài từ chối các chức vụ dân sự ở ngoài xã hội, và dùng thời giờ để đi thăm người đau yếu, người hấp hối hay bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của ngài. Khi về già, ngài được Chúa ban cho ơn nhận biết tương lai, là một ơn sủng ngài dùng để cảnh giác hay khuyên bảo người khác. Nhưng tuổi tác cũng đem lại nhiều thử thách. Ngài phải chấp nhận sự mất mát các khả năng bên ngoài. Trước hết là khả năng rao giảng, là điều đương nhiên xảy đến khi ngài bị rụng răng. Sau đó, ngài không còn nghe xưng tội được nữa. Sau cùng, sau một lần bị ngã, ngài phải nằm liệt giường. Chính đức tổng giám mục phải đến ban Mình Thánh cho ngài hằng ngày. Một trong những công việc sau cùng của ngài là hoà giải được sự tranh cãi kịch liệt giữa hai thầy dòng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét