CHƯƠNG
NĂM
NHỮNG
NGƯỜI RAO GIẢNG TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN
259. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần
mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Đồ ra
khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt
đầu hiểutheo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan
báo sự
mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo (parrhesia), lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi
lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết
lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu
nguyện thì mọi hoạtđộng có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt
cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn. Chúa
Giêsu muốn chúng
ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi.
260. Trong chương cuối cùng này, tôi sẽ không đưa ra một tổng hợp của linh đạo Kitô giáo, cũng không khai triểnnhững chủ đề chính như cầu nguyện, chầu Thánh Thể hoặc cử hành đức tin, là những điều chúng ta đã có những bản văn có
giá trị của Huấn Quyền và những tác phẩm nổi tiếng của các tác giả thời danh. Tôi không tự nhận là thay thế hoặc vượt trên sự phong phú này. Tôi
chỉ đơn thuần đề nghị một số suy
nghĩ về tinh thần của việc Tân Phúc Âm hóa.
261. Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một “tinh thần”, thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo
ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một
việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa
với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc
gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng
ta. Tôi rất ước ao tìm được nhữnglời để cổ
võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng vàmột
đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không
có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh. Trước khi đề ra một số lý
do thúc đẩy và đề nghị tinh
thần, một lần nữa tôicầu khẩn Chúa Thánh Thần, tôi cầu xin
Ngài đến canh tân, lay động và thúc
đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi
chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
I. Những lý do thúc đẩy một động
năng truyền giáo mới
262. Những người rao giảng
Tin Mừng đầy Chúa Thánh
Thần có nghĩa là những nhà
truyền giáo vừa cầu nguyện vừalàm việc. Từ quan điểm Phúc Âm hóa, những đề nghị thần
bí mà không có một sự dấn thân xã hội
và truyền giáo mạnh mẽ, hay những bài thuyết trình và những thực hành xã hội và mục vụ mà không có một linh đạo có sức biến đổi tâm
hồn, sẽ chẳng giúp được gì. Những đề nghị bán phần
và rời rạc ấy chỉ chạm đến một số người nhỏ và không có sức mạnh lan tràn lớn lao, bởi vì chúng cắt xén Tin Mừng. Chúng
ta phải luôn luôn nuôi dưỡng một chỗ ở trong tâm hồn,
là điều đem lại cho một Kitô hữu ý nghĩa của việc dấn thân và hoạt động. [205] Nếu không có những giờ phút lâu
dài để tôn thờ, gặp gỡ Lời Chúa trong cầu nguyện, chân thành đối thoại với Chúa, thì các nhiệm
vụ dễ dàng mất hết ý nghĩa, chúng ta sẽ bị suy yếu vì mệt mỏi hay
vì những khó khăn, và lòng nhiệt thành sẽ bị dập tắt. Hội Thánh không thể làmđược gì nếu không có lá phổi cầu nguyện, và lòng tôi vô cùng vui mừng vì sự gia tăng rất nhiều nhóm cầu nguyện,chuyển cầu, đọc Lời Chúa trong cầu nguyện và chầu Thánh Thể thường trực trong tất cả cơ cấu Hội Thánh. Đồng thời,“chúng ta phải đẩy lui cám dỗ về một linh đạo riêng tư và cá nhân không
phù hợp với những đòi hỏi của đức ái, cũng như luận lý của mầu nhiệm Nhập Thể”. [206] Có một nguy cơ là một số giờ phút cầu nguyện biến thành một lý do để tránh sống đời truyền
giáo, vì việc tư nhân hóa lối sống có thể dẫn các Kitô hữu đến
việc nương náu ở một số linh đạosai lầm.
263. Thật là bổ ích để nhớ đến các Kitô hữu tiên khởi và nhiều anh em trong suốt dòng lịch sử,
là những người đầy niềm vui, đầy can đảm, không biết mệt trong việc rao
giảng Tin Mừng cùng có khả năng hoạt động với sức chịu đựng tuyệt vời. Có những người tự an ủi bằng cách nói rằng ngày nay khó khăn hơn nhiều; nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng bối cảnh thời đế quốc Rôma không có lợi gì cho việc rao giảng Tin Mừng, hay đấu tranh cho công lý, hoặc bảo vệ phẩm giá con người. Trong mọi thời điểm của lịch
sử, sự yếu đuối của con người, tính vụ lợi thiếu lành mạnh, sự tiệnnghi ích kỷ, và cuối cùng, lòng ham muốn nhục
dục đe dọa tất cả chúng ta. Thực tại này luôn luôn hiện diện, dươi hình thức này hay hình
thức khác; chúng đến từ những giới hạn của con người chứ không phải tư các hoàn cảnh. Vì thế
chúng ta không được nói rằng
ngày nay khó khăn hơn;
chúng khác nhau. Chúng ta hãy học nhiều từ các Thánh, lànhững vị đã đi trước chúng ta và đã trực diện với những
khó khăn của thời đại
các ngài. Để đạt được mục đích này,
tôi đề nghị ngừng
lại để tái khám phá ra một số lý do giúp chúng ta bắt chước các ngài ngõ hầu
áp dụng trong thời đạichúng ta. [207]
Cuộc gặp gỡ cá nhân với tình yêu của Chúa Giêsu là Đấng
cứu độ chúng ta
264. Lý do đầu tiên thúc đẩy
chúng ta loan báo Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà
chúng ta đã nhận được, kinh nghiệm được Người cứu độ
là điều thúc đẩy chúng ta yêu Người mỗi ngày
một hơn. Nhưng có loại tình yêu nào màkhông làm
cho chúng ta cảm thấy cần phải nói về người mình yêu, chỉ
cho người khác thấy Người, làm cho Ngườiđược biết đến không? Nếu chúng
ta không cảm thấy có ước muốn mãnh liệt để truyền thông tình yêu này, chúng ta cần phải tạm ngừng lại trong cầu nguyện để cầu xin Người trở lại làm cho chúng ta say
đắm. Chúng ta cần phải cầu xin mỗi ngày, để ân sủng Người mở rộng con tim giá lạnh của chúng ta và cải tổ cuộc sống hờ hững và nông cạn
của chúng ta.Hãy đặt mình trước
mặt Người với một con tim rộng mở, hãy để cho Người ngắm nhìn chúng ta,
chúng ta sẽ nhận ra cái nhìn yêu thương này là
cái nhìn mà Nathaniel đã khám phá ra ngày
Chúa Giêsu nói
với ông: “Tôi nhìn thấy anh khianh ở dưới cây vả” (Ga 1:48). Êm dịu biết bao khi đứng trước một cây Thánh Giá, hoặc quỳ trước Thánh Thể, và chỉ đơn thuần là ở trước mắt Người! Tốt
biết bao cho chúng ta khi Người trở lại chạm vào cuộc đời chúng ta và thúc đẩychúng ta truyền
thông sự sống mới của Người! Vì vậy, kết
cuộc là, “những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe thì chúng tôicông bố” (1 Ga 1:3). Động lực tốt nhất cho quyết định truyền thông Tin Mừng là chiêm niệm nó với tình yêu, đọc chầm chậm những trang của nó và đọc bằng con tim của mình. Nếu chúng ta đến gần Tin Mừng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm cho chúng ta ngạc nhiên, và làm cho chúng ta say đắm mỗi lần chúng ta trở
lại. Vì vậy, thật khẩn cấp để phục hồi tinh
thần chiêm niệm, là điều cho phép chúng ta khám
phá ra mỗi ngày rằng
chúng ta là những người được ủy thác chomột gia
sản, là điều nhân bản hóa chúng ta và giúp chúng ta sống một cuộc sống mới. Không có gì quý giá hơn để truyền lại cho những người khác.
265. Toàn thể đời sống của Chúa Giêsu,
cách Người
đối xử với những người nghèo, những cử chỉ của Người, sự
kiên định của Người, lòng quảng đại của Người, sự đơn giản hằng ngày của
Người, và cuối cùng là sự tự hiến hoàn toàn của Người, tất cả đều quý giá và nói với cuộc sống cá nhân của chúng ta. Mỗi lần chúng ta trở lại để tìm hiểu, chúng talại được thuyết phục rằng đây
chính là những gì người khác cần, ngay cả khi chúng ta không nhận ra điều ấy: “Đấngmà anh em không biết nhưng vẫn tôn thờ, là
Đấng mà tôi rao giảng cho anh em” (Cv 17:23). Đôi
khi chúng ta mất lòngnhiệt thành
đối với sứ vụ truyền giáo, mà quên
rằng Tin Mừng đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của con người, bởi vì tất
cả chúng ta đã được tạo ra cho những gì Tin Mừng cung cấp cho chúng ta: tình bằng
hữu với Chúa Giêsu và tình yêuhuynh đệ với
anh chị em. Khi chúng ta thành công trong việc diễn tả đầy đủ và cách thẩm mỹ nội dung cơ bản của Tin Mừng, sứ điệp ấy chắc chắn sẽ đáp ứng những thắc mắc sâu xa nhất của con tim: “Nhà truyền giáo tin chắc rằng nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, đã có sẵn trong những cá nhân và các dân tộc một ước vọng, ngay cả khi người ta không ý thức, để biết sự thật về Thiên Chúa, con người, con đường dẫn đến việc giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Lòngnhiệt thành trong việc loan báo Đức Kitô xuất phát từ xác tín có
thể đáp ứng được ước vọng này”. [208] Lòng
nhiệt thành truyền giáo dựa trên xác tín này. Chúng ta có một kho báu sự sống và tình yêu không thể lừa dối, sứ điệp không thể bị thao tác hoặc lừa dối. Đó là một câu
trả lời chìm vào tận đáy lòng con
người, có thể nâng
đỡ nó và nâng nó lên.Đó là chân lý không bao giờ lỗi thời bởi vì nó có thể thâm nhập vào những nơi không một
điều gì khác có thể đến được.Nỗi buồn vô hạn của chúng ta chỉ có thể được
chữa lành bằng một tình yêu vô hạn.
266. Tuy nhiên niềm xác tín này được
nâng đỡ bằng kinh nghiệm cá nhân, không ngừng đổi mới, để tận hưởng
tình bằng
hữu của Người và sứ điệp của Người. Chúng
ta không thể kiên trì trong một việc truyền giáo đầy nhiệt tình nếuchúng ta không còn được thuyết phục nữa
bằng kinh nghiệm riêng của mình
rằng gặp gỡ Chúa Giêsu hoàn toàn khác với
việc không biết Người, bước đi với Người hoàn
toàn khác với mò mẫm, có thể lắng nghe Người hoàn
toàn khác với việc coi thường Lời Người, có
thể chiêm niệm, thờ phượng, nghỉ ngơi trong Người hoàn
toàn khác với việc không làm những điều ấy. Cố gắng xây dựng thế giới với Tin Mừng của Người không
giống như làm việc ấy chỉ với những lý do riêng của mình. Chúng ta biết rằng cuộc sống với Chúa Giêsu trở nên đầy đủ hơn nhiều và với Người chúng
ta dễ dàng tìm thấy ý nghĩa của tất cả mọi sự hơn. Đó là lý do tại sao chúng ta rao giảng Tin Mừng. Một nhà truyền giáo thực sự,là người không bao giờ ngừng là một môn đệ, biết rằng Chúa Giêsu đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc vớimình. Cảm thấy Chúa Giêsu đang sống cùng mình ở giữa sứ
vụ truyền giáo. Nếu chúng ta không tìm
thấy điều này ở trung tâm của các hoạt động truyền
giáo, thì
chúng ta sẽ sớm mất nhiệt tình và không còn chắc chắn về điều mình thông
truyền, chúng ta sẽ thiếu nghị lực và lòng
say mê. Và khi một người không được thuyết phục, không có nhiệt tình,không đáng tin cậy, không
được yêu, thì người ấy sẽ chẳng thuyết phục được ai.
267. Kết hợp với Chúa Giêsu, chúng ta tìm những
gì Người tìm, chúng ta yêu những gì Người yêu. Cuối cùng, điềuchúng ta tìm kiếm là vinh quang của Chúa Cha, chúng ta sống và hành động “để ngợi khen vinh quang của ân sủng Người” (Eph 1:6). Nếu chúng ta hiến thân cách trọn vẹn và kiên
định, chúng ta phải vượt trên bất cứ động lực
nào khác.Đây là động lực cuối cùng, sâu sắc nhất, lớn nhất, là lý do và ý nghĩa tối hậu của mọi động lực khác. Đó chính là vinh quang Chúa Cha, mà Chúa Giêsu đã tìm suốt cuộc đời của Người. Người là Con luôn luôn vui lòng với tất cả con ngườicủa mình “ở trong cung lòng Chúa Cha” (Ga 1:18). Nếu
chúng ta là
những nhà truyền giáo, thì trên hết chính vì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Bằng cách này mà Chúa Cha được tôn vinh, là các con
sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:8). Vượt trên sự kiện là chúng
ta đồng ý hay không, thích hay không, cần hay không, vượt trên
những giới hạn bé nhỏ của những ham muốn của chúng ta, sự hiểu biết và động cơ thúc
đẩy chúng ta, chúng ta rao giảng Tin Mừng vì vinh quangcao
cả của Chúa Cha là Đấng yêu thương chúng ta.
Niềm vui tinh thần của việc là một
dân
268. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta nhận ra rằng chúng ta
là một
dân duy nhất: “Xưa
kia anh em không phải là một dân, nhưng nay đã là Dân Thiên Chúa” (1 Phr 2:10). Để
là những nhà truyền giáo đích thực chúng ta cũng cần phải
phát triển một vị giác tinh thần để ở gần đời sống của con người, đến độ nó trở thành một nguồn vui cao thượng hơn. Việc truyền giáo là một sự
say mê với Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng là một sự
say mê với dân Người. Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta nhận
ra tất cả tình yêu của Người, là điều nâng đỡ chúng ta và bancho chúng ta phẩm giá, tuy nhiên, đồng
thời, trừ khi chúng ta bị mù, chúng ta bắt đầu nhận thức rằng cái nhìn của Chúa
Giêsu mở rộng và quay
về phía toàn thể dân Người với đầy trìu
mến và nhiệt tình. Vì
vậy, chúng ta nhận ra rằng Ngườimuốn dùng chúng ta để gần gũi hơn với dân yêu quý của Người. Người lấy chúng ta từ giữa dân Người và sai chúng tađến
với họ, vì thế chúng ta sẽ không thể
hiểu được căn tính của mình
nếu không thuộc về dân này.
269. Chính Chúa Giêsu
là kiểu
mẫu của sự lựa chọn cách rao giảng Tin Mừng này, là
cách đưa chúng ta vào lòng dânchúng. Thật
tốt cho chúng ta khi thấy Người gần gũi tất cả mọi
người! Khi Người nói chuyện với ai, thì Người nhìnthẳng vào mắt người
ấy với một sự ân cần yêu thương sâu thẳm, “Chúa Giêsu nhìn anh, và thương mến anh” (Mc10:21). Chúng ta thấy Chúa dễ tiếp cận thế nào với người mù bên vệ đường (x. Mc 10:46-52), và khi Người ăn uống vớinhững kẻ tội lỗi (x. Mc 2:16), Người chẳng bận tâm gì
đến việc bị người khác coi là mê ăn uống và chè
chén say sưa(x. Mt 11:19). Chúng
ta thấy Người sẵn sàng để cho một cô gái điếm xức dầu đôi bàn chân của Người (x. Lc 7:36-50), hoặc tiếp ông Nicôđêmô vào ban đêm (Ga 3:1-15). Sự tự hiến của Chúa Giêsu trên thập giá không là gì khác hơn là tộtđỉnh của cách thế
này, là cách thế đã đánh dấu toàn thể cuộc đời của Người. Được
thu hút bởi kiểu mẫu này, chúng ta muốn gia nhập cách
trọn vẹn vào xã hội, chia sẻ cuộc sống của mình với tất cả mọi người, lắng nghe những quan tâm của họ, cộng tác với họ cả về vật chất lẫn tinh thần trong những nhu cầu của họ, vui với người vui, khóc với người khóc
và dấn
thân trong việc xây dựng một thế giới mới, tay trong tay với những người khác. Nhưng luôn luôn không coi
đó như một điều bị bắt buộc, như một gánh nặng mà chúng ta phải gánh, nhưng như một sự lựa chọn cá nhân tràn ngập niềm vui và cho chúng ta một căn tính.
270. Đôi khi chúng ta cảm thấy bị cám dỗ là những Kitô hữu trong khi vẫn giữ một khoảng cách an toàn với những vết thương của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm
vào sự đau khổ của con người, chạm vào da thịt đau khổ của những người khác. Người
muốn chúng ta ngưng tìm kiếm những nơi trú ẩn cá
nhân hay cộng đồng, là những nơicho phép chúng ta giữ một khoảng cách với trung tâm của những thảm cảnh của con người, ngõ
hầu chúng ta thực sựchấp nhận tiếp xúc với đời sống cụ thể của những người khác, và biết sức mạnh của
sự dịu dàng. Khi chúng ta làmnhư thế, đời sống của chúng ta sẽ luôn luôn phức tạp một cách kỳ diệu và chúng ta sống kinh nghiệm mãnh liệt của một dân, kinh nghiệm thuộc về một dân.
271. Đúng là trong mối liên hệ của mình với thế giới, chúng ta được yêu cầu cung cấp một lý do của niềm hy vọng củamình, nhưng không phải như kẻ thù, bằng cách chỉ tay và lên án. Chúng ta đã được cảnh báo rất rõ ràng: “phải làm với sự hiền
lành và tôn trọng” (1 Phr 3:16), và “Nếu
có thể, thì ít ra về phần anh em, hãy sống hòa thuận với mọi người” (Rm12:18). Chúng ta cũng được khuyến khích cố gắng chiến thắng “sự dữ bằng việc
lành” (Rm 12:21), mà không được mệt mỏi “làm điều lành” (Gl 6:9), và không cố gắng tỏ ra là những người
trên, nhưng coi “những người khác hơn mình” (Phl2:3). Thực ra, các Tông Đồ của Chúa “được lòng tất cả mọi người” (Cv 2:47,
xem 4,21.33; 5:13). Rõ ràng là Đức Chúa Giêsu Kitô không muốn
chúng ta như những
ông hoàng trông rất thô bạo, nhưng như những người nam nữ của dânchúng. Đây không phải là ý kiến của một giáo hoàng hoặc một lựa chọn mục vụ
giữa những lựa chọn khác mà chúng ta có thể làm; chúng là những dấu chỉ của Lời Chúa rất tỏ tường, trực tiếp và hiển nhiên đến nỗi
chúng không cần phảiđược giải thích, là điều sẽ giảm
bớt sức mạnh chất vấn của chúng. Chúng ta hãy sống chúng
“sine glossa”, mà khôngcần chú giải. Bằng cách này, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui chia sẻ cuộc sống truyền giáo với những người trung thành với
Thiên Chúa trong
khi cố gắng đốt lên một ngọn lửa ở trung tâm thế giới.
272. Tình yêu đối với người khác là một sức
mạnh tinh thần thúc đẩy cuộc gặp gỡ Thiên Chúa một cách trọn vẹn đến mức bất cứ ai không yêu anh em mình là “đi trong bóng tối “ (1 Ga 2:11), là “ở lại trong sự chết” (1 Ga 3, 14) và “không biết
Thiên Chúa” (1 Ga 4:8). Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói rằng “nhắm mắt mình trước những người lân cận của chúng ta cũng làm cho chúng ta mù
trước mặt Thiên Chúa” [209] và rằng tình yêu cuối cùng là ánh sáng duy
nhất “luôn luôn có thể soi sáng một thế giới đang tối tăm và ban cho chúng ta can đảm để sống và hành động”. [210] Vì vậy, khi
chúng ta sống tiếp cận thần bí với tha nhân nhằm mục đích tìm kiếm sự tốt lành cho họ, chúng ta mở rộng nội tâm của mình để nhận những hồng
ân tốt đẹp nhất của Chúa. Mỗi lần
chúng ta gặp gỡ một con người trong tình yêu, chúng ta đặt mình vào một điều kiện thuận lợi để khám phá một điều gì mới mẻ về Thiên Chúa. Mỗi lần chúng ta mở mắt để nhận ra những người khác, thì đức tin của
chúng ta được sáng suốt hơn để nhận ra Thiên Chúa. Vì
thế, nếu chúng ta muốnlớn lên trong đời sống tinh thần,
chúng ta không thể ngưng
là những nhà truyền giáo. Dấn thân truyền giáo phong phúhóa tâm trí và tâm hồn, mở ra cho
chúng ta những chân trời tâm linh, giúp chúng ta nhạy cảm hơn để nhận ra hoạt động của Chúa Thánh Thần,
đưa chúng ta ra khỏi những mô thức tâm linh hạn hẹp của mình. Đồng thời, một nhà truyền giáo hoàn toàn dấn thân vào việc truyền
giáo cảm nghiệm được niềm vui của việc trở thành một nguồn, tràn đầy và làm tươi mát những người
khác. Chúng
ta chỉ có thể là một nhà truyền giáo khi cảm thấy tốt trong việc tìm kiếm những điều tốt đẹp cho người khác và muốn hạnh phúc cho người khác. Việc mở rộng tâm hồn là nguồn gốc của hạnh phúc, bởi vì “cho đi thì có phúc hơn nhận được” (Cv 20:35). Không ai có thể sống tốt hơn bằng
cách chạy trốn những người khác, ẩn nấp, từ chối chia sẻ, không chịu cho đi và nhốt mình trong sự thoải mái. Điều này chẳng khác gì một việc tự vận từ
từ.
273. Việc truyền giáo (sứ vụ) giữa lòng dân chúng không phải là một phần của đời sống của tôi, hoặc một đồ trang sứcmà tôi có thể bỏ
đi, nó cũng không phải là một phần phụ thuộc, hoặc một thời điểm trong nhiều thời điểm của cuộc sống. Nó là một
điều mà tôi không có thể xóa bỏ khỏi con người của tôi nếu tôi không muốn tiêu diệt chính mình. Tôi làmột việc truyền
giáo (sứ vụ) trên thế gian này, và đó là lý do tại sao tôi đang ở trong thế gian. Tôi phải nhận ra rằng mìnhđã
được đóng ấn bằng lửa cho sứ vụ này để soi sáng, chúc
lành, sinh động hóa, nâng lên, chữa lành, và giải phóng. Tôi
sẽ thấy chung quanh mình các y tá với linh hồn, các thầy giáo
với linh hồn, các chính trị gia với linh hồn, là những người đã quyết định tận đáy lòng là sống với những người khác và cho những người
khác. Tuy nhiên, nếu chúng ta tách rờinhiệm vụ ra khỏi cuộc sống riêng tư của mình, thì tất cả mọi sự sẽ trở thành màu xám và chúng ta sẽ liên tục
cố gắngtìm
kiếm danh vọng hoặc bảo vệ những nhu cầu riêng
tư của mình. Chúng ta không còn là một
dân nữa.
274. Để chia sẻ cuộc sống của mình với mọi người và hiến thân một cách quảng đại, chúng ta cần phải nhận ra rằng tất cả mọi người đều đáng cho chúng ta hiến
thân. Không phải vì vẻ bề ngoài của họ, khả năng của họ, ngôn ngữ của họ,não
trạng của họ hoặc sự thỏa mãn mà chúng ta có thể cung cấp, nhưng vì họ là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là tạo vật của Ngài. Ngài đã tạo dựng
nên họ theo hình ảnh của Ngài, và họ phản ánh một phần
nào đó vinh quang củaNgài. Mỗi con người là đối tượng
của sự ân
cần vô cùng của Chúa, và chính Người ngự trong cuộc sống của họ. ĐứcChúa Giêsu Kitô đã ban bửu huyết của Người trên Thánh Giá cho người ấy. Vượt
ra ngoài bất kỳ vẻ bề ngoài nào, mỗi
người đều vô cùng thánh thiêng và xứng đáng với tình yêu của chúng ta và sự tận tụy của chúng ta. Vì vậy, nếu tôi có thể
giúp một người sống tốt lành hơn, chỉ điều này mà
thôi cũng đã đủ để biện minh cho việc hiến đời sống của tôi làmmón quà cho
người ấy. Thật là tốt đẹp khi là dân trung thành của Thiên Chúa. Và chúng ta đạt được sự viên mãn khi chúng ta phá đổ các bức tường, để cho
tâm hồn của mình chứa đầy những gương mặt và những tên của
họ!
Công
trình mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh và Chúa Thánh Thần
275. Trong chương hai chúng ta đã suy nghĩ về việc thiếu linh đạo sâu xa là điều đưa đến bi quan, tin
vào định mệnh vàmất niềm tin. Một số người không tận tâm với sứ vụ bởi vì họ tin rằng không gì có thể thay đổi được, và do đó đối
với họ, phấn đấu là điều vô ích. Họ
nghĩ như thế này: “Tại sao tôi phải tước đi sự thoải
mái và thú vui của tôi nếu tôi không nhìn thấy một kết quả đáng kể nào”. Với não
trạng này thì chúng ta sẽ không tài
nào truyền giáo được. Thái
độ này là một lý
do xấu để biện minh cho việc vẫn còn khép mình trong
sự thoải mái, lười biếng, buồn rầu vì không thỏa
mãn tínhích kỷ trống rỗng
của mình. Nó là một hành vi tự hủy diệt vì “con người không thể sống mà không có hy vọng: đời sốngsẽ
trở nên vô nghĩa và không thể chịu nổi”.
[211] Nếu chúng ta nghĩ rằng mọi sự sẽ không thay đổi, chúng
ta hãy nhớ rằng Đức Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi cùng sự chết và có đầy đủ quyền năng. Đức Chúa Giêsu Kitô thật sựđang sống. Bằng không, “nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của
chúng tôi là trống
rỗng” (1 Cor 15:14). Tin
Mừng cho chúng ta biết rằng khi các môn đệ đầu tiên đi rao giảng, “Chúa đã
làm việc với các
ông và xác nhận lời rao giảng của các ông” (Mc 16:20). Điều này xảy ra ngay cả ngày nay. Chúng
ta được mời gọi để khám phá ra
điều này vàsống với điều này. Đức Kitô Phục Sinh và
vinh quang là nguồn gốc sâu xa của niềm hy vọng của chúng ta, và chúng tađừng bỏ lỡ sự giúp đỡ của Người để hoàn thành sứ mệnh được trao phó cho chúng ta.
276. Việc Phục Sinh của Người không phải là một điều trong quá khứ;
nó chứa đựng một sức sống đã thấm nhập thế gian. Ở
đâu mọi sự dường như đã chết, thì khắp nơi
mầm non của sự sống lại đột nhiên xuất hiện. Đó là một sức
mạnh vô song. Đúng là nhiều lần dường như không có Thiên Chúa: chúng ta thấy sự bất công, gian ác, thờ ơ và tànnhẫn không thuyên
giảm. Nhưng chúng ta cũng không kém chắc chắn
rằng ở giữa bóng tối luôn luôn bắt đầu nở ra mộtđiều gì đó mới, sớm hay muộn cũng sinh hoa trái. Trong một cánh đồng bằng phẳng sự sống xuất hiện, kiên trì và không gì có thể thắng
nổi. Sẽ có nhiều điều xấu, nhưng điều tốt luôn luôn có khuynh hướng quay lại nở hoa và lan tràn. Mỗi ngày trên thế giới cái đẹp tái sinh, mọc
lên được biến đổi qua những thảm kịch của lịch sử. Các giá trị luôn luôn cókhuynh hướng xuất hiện trở lại dưới những hình thức mới, và thực ra, nhân loại được tái sinh nhiều lần từ những tìnhtrạng dường như không thể đảo ngược được. Đây
là sức mạnh của sự sống lại và mỗi người rao giảng Tin Mừng là một công cụ của động năng này.
277. Những khó khăn mới cũng liên tục xuất hiện, những kinh nghiệm thất bại, những sự nhỏ nhen của con người tạo nên quá nhiều sự dữ. Tất
cả chúng ta đều biết từ kinh nghiệm rằng đôi khi một công tác không đem
lại cho chúng ta sự thỏa mãn mà chúng ta mong ước, thành
quả hiếm hoi, và những thay đổi thì chậm chạp, và chúng
ta bị cám dỗ trở nên mệt mỏi. Tuy nhiên, khi một người
vì mệt mỏi mà tạm thời hạ tay xuống thì khác
với những người buông xuôi vì bị khống chế bởi bệnh bất mãn kinh
niên và bởi sự lười biếng làm khô héo linh hồn. Điều có thể xảy ra là tâm hồn mệt mỏitrong cuộc chiến đấu bởi vì chúng
ta thực ra chỉ nghĩ đến mình, đến danh vọng, như khao khát được người khác biết
đến, được ca tụng, được thưởng và có địa vị.
Khi ấy chúng ta không hạ thấp nổi cánh tay, nhưng
chúng ta cũng không còn kiên quyết, sự sống lại không có ở đó. Như vậy, Tin Mừng, là sứ điệp đẹp nhất mà chúng ta có trong thế giới này, vẫn còn bị chôn vùi dưới một đống lý
do để tự bào chữa.
278. Đức tin có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, tin rằng Ngài thực sự yêu thương chúng ta, tin rằng Ngài hằng sống, rằng
Ngài có thể can thiệp một cách mầu nhiệm, rằng
Ngài không bỏ rơi chúng ta, rằng Ngài có thể rút ra sự tốt lành
từ sự dữ bởi quyền năng và óc sáng tạo vô biên của Ngài. Nó có nghĩa là tin rằng Ngài tiến bước khải hoàn trong lịch
sử cùng với “những người thuộc về Ngài... những
người được gọi, và được chọn, là các tín hữu” (Kh 17:14). Chúng ta tin rằng Tin Mừng nói rằng
Nước Thiên Chúa đã hiện diện trong thế gian, và đang phát triển ở đây và ở
đó, bằng
nhiều cách khác nhau: như hạt giống nhỏ có thể biến thành
một cây lớn (x. Mt 13:31-32), như một ít men làm dậy men cả một đống
bột (x. Mt 13:33), và như hạt giống tốt mọc ở giữa cỏ dại (x. Mt 13:24-30), và
có thể luôn làm
cho chúng ta ngạc nhiêncách thú vị. Nước
Thiên Chúa đang hiện diện, sẽ
trở lại, phấn đấu để phát triển mạnh mẽ trở lại. Sự Sống Lại của Đức
Kitô tạo
ra ở mọi nơi những hạt giống
của thế giới mới này; và ngay cả khi chúng
bị cắt đi, chúng lại mọc lên, bởi vì sự Phục Sinh của Chúa đã thâm nhập vào cơ cấu tàng ẩn của lịch
sử này, bởi vì Chúa Giêsu đã không sống lại một cách vô ích. Chớ gì chúng ta đừng ở bên lề cuộc hành trình hy vọng được sống này!
279. Vì chúng ta không luôn luôn nhìn thấy những chồi non, nên chúng ta cần một sự chắc chắn nội tâm, đó là, lòng tin tưởng rằng Thiên Chúa có thể hoạt động trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, ngay cả giữa những thất bại tỏ tưởng, bởi vì “chúng ta có kho báu
này trong những bình sành” (2 Cor 4:7). Sự chắc chắn này là điều được gọi là “một cảm thức mầu nhiệm.” Đó
là biết một cách chắc chắn rằng tất cả những ai phó
thác cho Thiên Chúa trong tình yêu, nhất
định sẽ sinh hoa kết quả (x. Ga 15,5). Khả
năng sinh hoa
quả này thường vô hình, khó nắm bắt và không thể đo
lường được. Chúng ta có thể biết rõ rằng cuộc sống của
mình sẽ mang lại kết quả, nhưng không tự nhận rằng mình biết thế nào, ở đâu và khi nào. Chúng ta có thể chắc chắn rằng
không một việc nào chúng ta làm vì yêu, hoặc bất cứ hành động nào chúng ta làm
vì chân thành lo lắng cho tha nhân sẽ bị mất đi. Không một hành động yêu mến
nào dành cho Thiên Chúa sẽ bị mấtđi, không một
cố gắng đại lượng nào sẽ ra vô nghĩa và không một kiên nhẫn đau khổ nào sẽ ra vô ích. Tất cả mọi sự đi vòng
quanh thế giới của chúng ta như sức sống. Đôi khi những nỗ lực của chúng ta dường như không đem
lại một kết quả nào, nhưng việc truyền giáo không phải là một thương vụ hoặc một kế hoạch kinh
doanh, nó cũng không thậm
chí là một tổ chức nhân đạo, không phải là một buổi trình diễn để đếm xem có bao nhiêu người tham dự nhờ việc tuyên truyền
của chúng ta; nó là một điều gì đó sâu xa hơn nhiều, vượt ra ngoài tất cả mọi đo lường. Có lẽ Chúa dùng sự dấn
thân của chúng ta để đổ phúc lành xuống một nơi nào khác trên thế giới mà chúng ta sẽ không bao giờ đi đến. Chúa Thánh Thần hoạt động như Ngài muốn, khi Ngài muốn và ở
nơi nào Ngài tùy ý Ngài; chúng ta tận tâm hy sinh nhưng không mong thấy kết quả tỏ tường. Chúng ta chỉ biết rằng việc hiến thân của
mình là điều cần thiết. Chúng ta hãy học nghỉ ngơi trong vòng tay âu
yếm của Chúa Cha, giữa cuộc dấn thân sáng tạo và quảng đại của mình. Chúng ta hãy
tiếp tục tiến bước, hãy dâng tất cả cho
Ngài, nhưng hãy để cho Ngài làm cho những nỗ lực của chúng ta có kết quả như
ý Ngài.
280. Để duy trì lòng nhiệt thành truyền giáo phải có một niềm tin mãnh liệt vào Chúa Thánh Thần, bởi vì Ngài “giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta” (Rm 8:26). Nhưng lòng tin tưởng quảng đại như vậy phải được nuôi dưỡng và do đó chúng ta phải
liên tục cầu
khẩn Ngài. Ngài có thể chữa lành tất cả những gì làm cho chúng ta yếu
đuối trong việc dấn thân truyền giáo của
mình. Đúng là lòng tin tưởng vào
Đấng vô hình này có thể làm chúng ta chóng mặt: giống
như lao mình xuống biển mà không biết mình sẽ gặp phải những gì. Bản thân tôi đã kinh nghiệm điều này nhiều
lần. Tuy nhiên, không có tự do nào lớn hơn việc để cho chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn, bằng
cách từ bỏ việc tính toán và kiểm soát tất cả mọisự, và để Ngài soi sáng chúng ta, hướng dẫn chúng ta, định hướng chúng ta, đưa chúng ta đến nơi mà Ngài muốn.Ngài biết rõ những gì chúng
ta cần ở mọi thời đại và ở mọi lúc. Điều này được gọi là hiệu quả huyền nhiệm!
Sức
mạnh truyền giáo của việc chuyển cầu
281. Có một hình thức cầu nguyện đặc biệt khuyến khích
chúng ta hiến
thân trong việc Phúc Âm
hóa và thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự tốt lành cho người khác là chuyển cầu. Chúng ta hãy một ít
giây phút ra để quan sát con người nội tâmcủa một nhà truyền giáo vĩ đại như Thánh Phaolô, để hiểu xem lời cầu nguyện của ngài như thế nào. Lời cầu
nguyện này đầy
ắp những người: “Mỗi khi cầu nguyện cho tất cả anh
em, tôi luôn luôn cầu xin với niềm hân hoan, […] bởi vì tôi ấp ủ
anh em trong lòng tôi” (Phl 1:4.7). Như vậy chúng ta thấy rằng cầu nguyện chuyển cầu không ngăn cách chúng takhỏi việc chiêm niệm thật, bởi
vì chiêm niệm mà bỏ tha nhân ra ngoài là một sự lừa dối.
282. Thái độ này cũng biến thành một lời tạ ơn Thiên Chúa cho người khác: “Trước tiên, tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi
qua Đức Chúa Giêsu Kitô cho tất cả anh em” (Rm 1:8). Đó
là một lời cảm tạ liên tục: “Tôi luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa của
tôi cho anh
em vì những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho anh em trong Đức Chúa Giêsu Kitô” (1 Cor 1:4), “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của
tôi mỗi khi tôi nhớ đến anh em” (Phl 1:3). Đây không phải là một cái
nhìn hoài nghi, tiêu cực và vô vọng, nhưng là một cái nhìn tâm linh, của đức tin sâu thẳm, công nhận rằng chính Thiên Chúa hoạt động trong những người khác. Đồng
thởi, đó là lòng biết ơn đến từ một quả tim thực sự chú ý tới những người khác. Bằng cách này, khi một
nhà truyền giáo cầu nguyện xong, quả tim người ấy trở nên đại
lượng hơn, được giải thoát khỏi ý thức cô lập và sẵn sàng làm điều lành cùng chia sẻ sự sống với người khác.
283. Những người nam nữ vĩ đại của Thiên Chúa đã là những đấng cầu bầu cả thể. Việc
chuyển cầu như “nắm men” ở trong lòng Thiên
Chúa Ba Ngôi. Đây là cách đi xâu vào lòng Chúa Cha
và khám phá ra những chiều kích mới soi sáng các hoàn cảnh cụ thể và
những thay đổi. Chúng ta có thể nói rằng trái tim của Thiên
Chúa được chạm
đến bởi lời chuyển cầu, nhưng thực ra Ngài luôn luôn tiên
liệu, và điều chúng ta có thể làm với lời
cầu bầu của mình là làm
cho quyền năng của Ngài, tình yêu của Ngài và lòng trung tín
của Ngài được biểu lộ một cách rõ ràng hơn nơi dân Ngài.
II. Đức Mẹ Maria, Mẹ của Phúc Âm hóa
284. Với Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ Maria luôn luôn ở giữa dân chúng. Mẹ tụ họp cùng các môn đệ để kêu
cầu Ngài(Cv 1:14), và do đó làm cho sự
phát triển nhanh chóng của việc truyền
giáo có
thể xảy ra trong Lễ Ngũ Tuần. Mẹ là Mẹ
của việc
Phúc Âm hóa của Hội Thánh và không có Mẹ, chúng ta không thể hoàn toàn hiểu được tinh thần của việc Tân Phúc Âm hóa.
Món quà của Chúa Giêsu cho dân Người
285. Trên thập giá, khi Đức Kitô chịu đau khổ trong thân xác của Người,
ở đó xảy ra cuộc gặp gỡ bi thảm giữa tội lỗicủa thế gian và lòng thương xót của Thiên Chúa, Người có thể nhìn thấy dưới chân Người sự hiện diện an ủi của MẹNgười và bạn Người. Ở thời điểm chủ
yếu đó, trước khi Người hoàn thành công việc mà Chúa Cha đã trao phó choNgười, Chúa Giêsu thưa
cùng Đức Mẹ Maria: “Thưa Bà, đây là con Bà!”. Sau đó, Người nói với người bạn thân yêu của Người: “Này là Mẹ con!” (Ga 19:26-27). Những lời này của Chúa Giêsu ở ngưỡng cửa sự chết trước hết khôngdiễn tả một mối quan tâm từ bi đối với Mẹ Người, nhưng là một công thức của mặc khải tỏ
lộ mầu nhiệm của một sứ vụ cứu độ
đặc biệt. Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta Mẹ Người như Mẹ của chúng ta. Chỉ sau khi làm thế Chúa Giêsumới có thể cảm thấy rằng “tất cả mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:28). Dưới chân Thánh Giá, giờ tối cao của việc tạo dựngmới, Đức Kitô dẫn chúng ta đến cùng Đức Mẹ Maria. Người
dẫn chúng ta đến với Mẹ bởi vì Người không muốn chúng ta bước đi mà
không có một người Mẹ, và chúng
ta đọc trong hình ảnh người Mẹ này tất cả những mầu nhiệm của Tin Mừng. Chúa
không muốn rời Hội Thánh mà
không có biểu tượng người nữ này. Mẹ,
Đấng đã sinh ra Người với đức tinvĩ đại, cũng đồng
hành với “những con cái còn lại của mình, [...] những người giữ các điều răn của Thiên Chúa và mang chứng tích của Chúa Giêsu” (Kh 12:17). Sự nối kết mật thiết giữa Đức Mẹ Maria, Hội Thánh và tất cả các tín hữu, theo nhiều cách khác nhau, tạo ra Đức Kitô, đã được trình bày cách tuyệt mỹ bởi Thánh Isaac đệ Stella: “Trong Thánh Kinhđược Thiên Chúa
linh hứng, điều gì được hiểu cách chung về Hội Thánh, người mẹ trinh nữ, thì cũng được hiểu
cáchđặc thù về Đức Trinh Nữ Maria [...] Người ta cũng có thể nói cách
tương tự rằng mỗi linh hồn là một hiền thê trung tín của Lời Chúa, là mẹ, là con gái và em gái của Đức Kitô, đồng trinh và mẹ đông con [...]. Đức Kitô đã ở chín tháng trongcung lòng của Đức Mẹ Maria, sẽ ở trong đền tạm của đức tin của Hội Thánh cho đến thời sau hết; và trong sự hiểu biết và tình yêu của tâm hồn tín hữu, cho đến muôn đời”. [212]
286. Đức Mẹ Maria là Đấng biết cách biến một hang nuôi súc vật thành ngôi nhà cho Chúa Giêsu, với một tã vải nghèonàn và một núi đầy
âu yếm. Mẹ là nữ
tỳ bé nhỏ của Cha, Đấng đã vui mừng hát lên lời chúc
tụng Ngài. Mẹ là người bạn luôn luôn lưu tâm ngõ hầu
chúng ta không thiếu rượu trong cuộc sống của mình. Mẹ là người có trái tim bị lưỡi gươm đâm
thâu qua, Đấng hiểu tất cả nỗi thống khổ của chúng ta. Như Mẹ của tất cả mọi
người, Mẹ là một dấu chỉ của niềm hy vọng cho những
người bị đau đớn
vì sinh nở cho đến khi công lý được sinh ra. Mẹ là nhà truyền giáo đến
gần chúng ta để đồng hành với chúng ta trong cuộc sống, mở lòng chúng ta ra với đức tin bằng tình mẫu
tử của Mẹ. Như một người Mẹ thật, Mẹ
bước đi với chúng ta, chiến đấu với chúng ta, và không ngừng tuôn đổ sự gần gũi của tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Qua những
việc sùng kính Đức Mẹ khác nhau, thường liên quan đến các đền
thờ, Mẹ chia sẻ lịch
sử của tất cả những dân nhận được Tin Mừng, và trở thành một phần căn tính lịch sử của họ. Nhiều cha mẹ Kitô giáoxin cho con cái họ được Rửa Tội ở một đền Đức Mẹ, như
thế tỏ bày niềm tin vào hành động mẫu tử của Đức Mẹ Mariatrong
việc sinh ra những người con mới cho Thiên Chúa. Ở đó, nơi
các đền Đức Mẹ, chúng ta có thể quan sát Đức MẹMaria
tụ tập chung quanh Mẹ những con
cái, là những người với cố gắng hành hương đến để thấy Mẹ, để cho mình được Mẹ nhìn ngắm. Ở đó chúng
ta tìm thấy sức mạnh của Thiên Chúa để chịu đựng những đau khổ và mệt mỏi của cuộc sống. Như đối với Thánh Juan Diego, Đức Mẹ ban cho họ sự an ủi và
tình từ mẫu của mình và nói với họ, “Tâm hồn các con đừng xao xuyến [...] Mẹ
là Mẹ của các con, Mẹ không có ở đây sao?” [213]
Ngôi sao của Tân Phúc Âm Hóa
287. Chúng ta xin Mẹ của Tin Mừng hằng sống cầu
bầu cho chúng ta để toàn thể cộng đồng
Hội Thánh chấp nhận lời mời gọi vào một giai đoạn mới của việc Phúc Âm hóa này. Mẹ là người nữ của đức tin, bước đi
trong đức tin, [214] và “cuộc hành trình đức tin đặc biệt của Mẹ đại diện cho một điểm quy chiếu liên tục của Hội Thánh”. [215] Mẹ để cho mình được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần, qua một cuộc hành trình đức tin, hướng về một số phận phục vụ và sinh
hoa trái.Bây giờ chúng ta hãy nhìn lên Mẹ, để xin
Mẹ giúp chúng ta công bố sứ điệp cứu độ cho mọi người, và biến các môn đệ mới thành những nhà truyền
giáo siêng
năng. [216] Trong cuộc hành hương rao
giảng Tin Mừng này sẽ không thiếunhững giây phút khô khan,
đen tối và thậm chí mệt mỏi, như Đức Mẹ đã sống
trong những năm ở Nazareth, khi Chúa Giêsu đã lớn lên: “Đây là sự khởi đầu của Tin Mừng, tin mừng hân hoan. Tuy
nhiên, không khó để thấy trong lúc banđầu ấy
một sự nặng nề đặc biệt của tâm hồn, kết hợp với một loại “đêm đen của đức tin” - sử dụng những lời
của Thánh Gioan Thánh Giá - gần như là một “bức màn che” mà qua đó chúng ta phải tiếp cận Đấng vô hình và sống trong sự thân mật với mầu nhiệm. Thực ra, đây là cách mà Đức Mẹ Maria, trong nhiều năm, đã sống mật
thiết với mầu nhiệm của Con Mẹ, và tiến bước trong cuộc hành trình của đức tin của Mẹ”. [217]
288. Có một “kiểu” Maria trong hoạt động
truyền giáo của Hội Thánh. Bởi vì mỗi khi chúng ta nhìn lên Đức Mẹ,
chúng ta lại tin vào sức mạnh cách mạng của sự dịu dàng
và lòng
trìu mến. Trong Mẹ, chúng ta thấy rằng khiêm nhường
và dịu dàng không phải
là nhân đức của những người yếu đuối nhưng của những người mạnh mẽ, là
những người không cần phải đối xử tệ với người khác để cảm thấy rằng mình quan trọng. Nhìn lên Đức Mẹ Maria, chúng ta khám
phá ra rằngMẹ ca ngợi Thiên Chúa vì “Ngài đã hạ
những người quyền hành xuống khỏi ngai vàng” và “đã cho những người giàu có trở về tay không” (Lc 1:52,53) giống như một người đem hơi ấm đến cho việc theo đuổi công lý của chúng ta. Đây cũng là người “cẩn thận giữ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Đức Mẹ Maria biết làm thế nào để nhận ra bước chân của Thần Khí Thiên Chúa trong những biến cố lớn và ngay cả trong những biến cố dường như không thể nhận thấy được. Đó là chiêm niệm về mầu nhiệm của Thiên Chúa trong thế gian, trong lịch sử và trong đời sống hàng ngày của mỗi người và mọi người. Chính
Mẹ là người phụ nữ cầu nguyện và làm việc ở Nadareth, và cũng là Đức Mẹ Giúp Đỡ, một người “vội vã” rời làng mình để đi giúp đỡ người khác (Lc 1:39). Động năng này của công lý và sự dịu dàng, chiêm niệm cùng đi đến với
những người khác, là những gì làm cho Mẹ trở nên một mô hình cho việc truyền giáocủa Hội Thánh. Chúng
ta hãy cầu xin Mẹ để qua
lời cầu nguyện từ mẫu của Mẹ, Mẹ giúp cho Hội Thánh trở nên một nhà cho nhiều người, một người mẹ
cho tất cả các dân tộc, và làm cho có thể phát sinh một thế giới mới. Chính Đấng Phục Sinh đã nói với chúng ta, bằng một quyền
năng, đổ đầy chúng ta với lòng tin tưởng và
niềm hy vọng không gì có thể lay chuyển nổi: “Này,
Ta làm mọi sự ra mới” (Kh 21:5). Cùng với Đức Mẹ Maria, chúng ta hãy tin tưởng tiến về phíalời hứa này, và hãy cùng
nhau cầu nguyện:
Lạy
Mẹ Maria, Nữ Trinh và Hiền Mẫu
Mẹ
là Đấng đã được tác động bởi Chúa Thánh Thần,
đã
đón nhận Lời ban sự sống
tận
đáy lòng đức tin khiêm cung của Mẹ,
khi
Mẹ phó thác hoàn toàn cho Đấng Muôn Đời,
xin giúp chúng con biết thưa tiếng “xin
vâng”
trong
sự cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết,
để
loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Mẹ, là
Đấng tràn đầy sự hiện diện của Đức Kitô,
Mẹ mang lại niềm vui cho Thánh Gioan Tẩy Giả,
làm cho ngài nhảy mừng ngay trong lòng mẹ.
Mẹ, lòng
rộn ràng hoan hỉ,
Mẹ
đã hát lên ca tụng những kỳ công của Chúa.
Mẹ, là
Đấng đã đứng vững dưới chấn Thập Giá
với một đức tin kiên vững vô cùng,
Mẹ nhận được sự an ủi vui mừng về tin Sống Lại,
và đã hợp
cùng các môn đệ trong Chúa Thánh Thần
ngõ
hầu Hội Thánh rao giảng Tin Mừng có thể được sinh ra.
Xin
cầu cho chúng con giờ đây có một nhiệt huyết mới của Phục Sinh
đề mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng sự sống
là
điều đã chiến thắng sự chết.
Xin
ban cho chúng con ơn mạnh dạn thánh để kiếm tìm những con đường mới
để đem đến cho tất cả mọi
người
hồng
ân của vẻ đẹp không bao giờ phai tàn.
Lạy
Mẹ, Đức Trinh Nữ biết lắng nghe và chiêm niệm,
Mẹ của tình yêu, nàng dâu của tiệc cưới vĩnh cửu,
xin cầu bầu cho Hội Thánh, mà Mẹ là
biểu tượng rất khiết trinh,
để
không bao giờ Hội Thánh tự khép kín nơi mình
hoặc
mất lòng say mê trong việc thiết lập Nước Trời.
Lạy Ngôi Sao của Tân
Phúc Âm hóa,
xin giúp chúng con tỏa sáng qua việc làm chứng nhân của sự hiệp thông,
của
phục vụ, của đức tin nhiệt thành và quảng đại,
của công lý và tình yêu dành cho người nghèo,
để cho niềm vui của Tin Mừng
có
thể đi đến tận cùng của trái đất
và không có ngoại vi nào mà không có ánh sáng của nó.
Lạy Mẹ của Tin Mừng hằng sống,
nguồn mạch của
niềm vui cho những người bé nhỏ,
xin cầu cho chúng con.
Amen. Alleluia!
Ban hành tại Rôma, nơi Đền Thờ Thánh Phêrô,
vào dịp kết thúc năm của Đức Tin,
ngày 24 tháng 11, Đại Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, năm 2013,
năm thứ
nhất của triều đại Giáo Hoàng của tôi.
PHANXICÔ
PHANXICÔ
Phaolô
Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
---------------------------------
Notes:
[205] Cf. Propositio 36.
[206] JOHN
PAUL II, Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte (6 January
2001), 52: AAS 93 (2001), 304.
[207] Cf.
V.M. FERNÁNDEZ, “Espiritualidad para la esperanza activa. Discurso en la
apertura del I Congreso Nacional de Doctrina Social de la Iglesia (Rosario
2011)”, in UCActualidad, 142 (2011), 16.
[208] JOHN
PAUL II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December
1990), 45: AAS 83 (1991), 292.
[209] BENEDICT
XVI, Encyclical Letter, Deus Caritas Est (25 December 2005),
16: AAS 98 (2006), 230.
[210] Ibid.,
39: AAS 98 (2006), 250.
[211] SECOND
SPECIAL ASSEMBLY FOR EUROPE OF THE SYNOD OF BISHOPS, Final Message, 1: L’Osservatore
Romano, Weekly English-language edition, 27 October 1999, 5.
[212] ISAAC
OF STELLA, Sermo 51: PL 194, 1863, 1865.
[213] Nican
Mopohua, 118-119.
[214] Cf.
SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Dogmatic Constitution on the Church Lumen
Gentium, 52-69.
[215] JOHN
PAUL II, Encyclical Letter Redemptoris Mater (25 March 1987),
6: AAS 79 (1987), 366-367.
[216] Cf. Propositio 58.
[217] JOHN
PAUL II, Encyclical Letter Redemptoris Mater (25 March 1987),
17: AAS 79 (1987), 381.
(NGƯỜI DỊCH: Phao-lô
PHẠM XUÂN KHÔI)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét