TUẦN BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ
GIÁNG SINH
Ngày 21 tháng 12
Mùa Vọng
Bài
Ðọc I: Dc 2, 8-14
"Ðây
người tôi yêu đến, nhảy qua núi".
Bài
trích sách Diễm Ca.
Tiếng
người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống
như nai rừng, ví tựa hươu con. Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa
sổ, nhìn vào chấn song.
Này
người tôi yêu nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta,
kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên
đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta.
Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình
ta, người đẹp ta, hãy đến!
"Bồ
câu ta trong hốc đá, trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy
thánh thót ở tai ta, vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi".
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc
đọc bài này: Xp
3, 14-18a
"Chúa
là Vua Israel ở giữa ngươi".
Trích
sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi
thiếu nữ Sion, hãy ngợi khen! Israel hỡi, hãy reo mừng! Hỡi thiếu nữ
Giêrusalem, hãy sung sướng và hết lòng hân hoan!
Chúa
đã rút án phạt ngươi, đã xua đuổi quân thù. Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi,
ngươi không còn lo sợ tai hoạ nào. Ngày ấy có tiếng bảo Giêrusalem: đừng sợ! và
Sion, chớ buông thả đôi tay! Chúa là Thiên Chúa ngươi ở giữa ngươi, sẽ sung sướng
vui mừng vì ngươi, sẽ thinh lặng trong niềm mến thương ngươi, sẽ hân hoan chúc
mừng ngươi, như trong ngày đại lễ.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 32, 2-3. 11-12. 20-21
Ðáp: Người hiền đức,
hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng Người bài ca mới! (c. 1a và 3a).
Xướng:
1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.
Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.
2)
Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời
kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp
riêng mình. - Ðáp.
3)
Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng
ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh
Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Lạy Vầng Ðông, là ánh sáng muôn dân và là mặt trời công chính, xin
hãy đến chiếu soi những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết! -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 1, 39-45
"Bởi
đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày
ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà
vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria,
thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà
kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng
Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi
vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ
đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm
Với
cuộc sống con người, ai ai trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình
tích trữ được nhiều thứ của cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải
vật chất như được giàu sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói
mà người ta thường đùa với nhau: "Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật"
và cuối cùng là "đám tang Việt Nam".
Ở
nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ. Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là
ngon. Người đàn bà Nhật chiều chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy
không kính phục. Và đám tang Việt Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm
động gợi lên tâm tình của người còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai
trong chúng ta lại chẳng muốn được quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón
rước sách, mọi người nhìn bằng cặp mắt kính nể, thán phục.
Về
của cải tinh thần, ai lại không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng
tác, những bản nhạc thời danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa
học gia nổi tiếng về không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu
tiên như Volgra người Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu
tham vọng khác nữa ở trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.
Ðó
là tâm trạng tâm lý thường tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng
không xấu, khi chủ ý đặt mục đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng
ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan
trọng nhất của người Kitô hữu chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội
Thánh trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn,
chúng ta khư khư giữ lấy Chúa ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến
cho người khác.
Thiên
Chúa chúng ta là một kho tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến,
một kho tàng tích chứa bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn
ngoan tuyệt đối. Một kho tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không
biết lợi dụng để mang đến cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt
Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã,
những người gặp hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên
Chúa bình an, Thiên Chúa hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang
mang lạc lối trên đường đời chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là
Ðấng thông minh, khôn ngoan tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta
đã không mang Chúa đến cho tha nhân.
Và
hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận
được diễm phúc mang Con Chúa trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang
Chúa đến cho người chị họ là bà Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng
mẹ cũng được chia sẻ niềm vui ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống
chúng ta, người con cái của Thiên Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong
tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu
rỗi đó cho mọi người xung quanh.
Lạy
Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng
đón nhận Chúa đến để sự bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng
con. Lạy Chúa, như xưa Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là bà Isave,
thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho mọi người
qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng và lạc
quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.
(Veritas Asia)
Lectio Divina: Luca 1:39-45
Thứ Bảy, 21 Tháng 12,
2013
Tuần thứ ba Mùa
Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa, chúng con thường có xu hướng vong thân
Trong sự nhộn nhịp và tất bật trong ngày
Trong công việc và những lo lắng vặt vãnh của chúng con.
Xin Chúa ban cho chúng con sự tươi mát của tâm hồn
Để đi tìm những việc quan trọng,
Những người làm cho cuộc sống của chúng con sâu sắc tình người
Và cùng lúc xin mở lòng chúng con
Đến thế giới của Chúa và đến những giá trị của Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng con biết mong ước gặp gỡ Chúa với niềm
hân hoan,
Để chúng con có thể khám phá một lần nữa phẩm chất ưu tú
Của việc cho đi nhưng không, của sự tôn trọng,
Và của tình yêu vô tư, bất vị kỷ,
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Luca 1:39-45
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã đi tiến lên
miền núi, đến một thành xứ Giuđêa.
Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Êlisabéth,
và khi bà Êlisabéth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng
bà, và bà Êlisabéth được đầy Chúa Thánh Thần.
Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bởi đâu tôi
được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời
bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho bà là kẻ đã
tin rằng Lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện.”
3. Suy Niệm
- Thánh Luca nhấn mạnh đến lòng sẵn
sàng của Đức Maria trong sự phục vụ, trong việc là một nữ tỳ. Thiên
thần Chúa nói về việc mang thai của bà Êlisabéth, và ngay lập tức, Đức Maria
chỗi dậy và vội vã nhanh chóng ra đi để giúp đỡ bà Êlisabéth. Từ
thành Nagiarét đến nhà của bà Êlisabéth tối thiểu dài hơn một trăm cây số, bốn
ngày đường! Thời ấy không có xe buýt, cũng chẳng có xe lửa. Đức
Maria bắt đầu phục vụ và hoàn thành sứ vụ của bà thay cho Dân
riêng của Chúa.
- Bà Êlisabéth đại diện cho Cựu Ước
đã sắp kết thúc. Đức Maria đại diện cho Tân Ước. Cựu Ước
đón nhận Tân Ước với lòng biết ơn và tin tưởng, nhận ra trong đó có món quà cho
không của Thiên Chúa sắp sửa được thực hiện và sẽ hoàn thành lòng kỳ vọng của
mọi người. Trong cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ được bày tỏ với
món quà của Chúa Thánh Thần. Hài nhi nhảy mừng trong cung lòng bà
Êlisabéth. Đây là bài đọc về đức tin mà bà Êlisabéth thực hành những
việc trong cuộc sống.
- Tin Mừng của Thiên Chúa mặc khải
sự hiện diện của mình trong hầu hết những việc thường ngày của đời sống nhân
loại: hai bà nội trợ thăm viếng để cùng giúp đỡ nhau. Chuyện
thăm hỏi, vui mừng, việc thai nghén, chuyện con cái, giúp đỡ lẫn nhau, chuyện
nhà cửa, gia đình: thánh Luca muốn chúng ta và cộng đoàn cảm nhận
chính xác điều này và để chúng ta khám phá ra có sự hiện diện của Thiên Chúa
trong đó.
- Bà Êlisabéth nói với Đức
Maria: “Bà có phúc hơn mọi người nữ, và con lòng bà cũng đầy ơn
phúc!” Cho đến ngày nay, những lời này đã tạo thành một phần của bài Thánh
Thi nổi tiếng nhất và được cầu nguyện nhiều nhất trên toàn thế giới: “Kinh
Kính Mừng”.
- “Và phúc cho bà là kẻ đã tin
rằng Lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện.” Đây là lời ca ngợi
của bà Êlisabéth với Đức Maria và là sứ điệp của thánh Luca cho cộng
đoàn: tin tưởng vào Lời Chúa, vì Lời Chúa có quyền lực thực hiện tất
cả những gì mà Lời ấy nói với chúng ta. Đó là một lời sáng
tạo. Nó tạo ra đời sống mới trong cung lòng Đức Trinh Nữ, trong cung
lòng của những người nhận nó với đức tin.
- Đức Maria và bà Êlisabéth đã biết
nhau từ trước. Nhưng trong cuộc gặp gỡ này, họ khám phá ra, trong
người nọ lẫn người kia, một mầu nhiệm mà họ chưa được biết, và làm lòng họ tràn
đầy niềm vui mừng khôn xiết. Ngày nay cũng vậy, chúng ta gặp được
những người làm chúng ta ngạc nhiên bởi vì sự khôn ngoan họ có được và là chứng
tá của đức tin mà họ đưa ra. Điều tương tự đã có bao giờ xảy ra với
bạn chưa? Bạn đã có bao giờ gặp được những người mà làm bạn ngạc
nhiên không? Điều gì đã ngăn trở chúng ta khám phá ra và sống với
niềm vui của sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta?
- Thái độ của Đức Maria trước Lời
biểu tỏ ý tưởng mà thánh Luca muốn thông tri cùng với cộng đoàn: đừng tự
đóng khung trong chính mình, mà hãy bước ra khỏi cái vỏ của mình, hãy chú ý đến
các nhu cầu cụ thể của những người khác và cố gắng giúp đỡ tha nhân càng nhiều
càng tốt theo nhu cầu của họ.
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc
suy gẫm cá nhân
- Bạn hãy đặt mình vào trường hợp
của Đức Maria và bà Êlisabéth: tôi có đủ khả năng để cảm nhận và
trải nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong những việc đơn giản và bình
thường nhất trong đời sống mỗi ngày không?
- Lời ca ngợi của bà Êlisabéth với
Đức Maria: “Bà đã tin!” Chồng bà Êlisabéth đã gặp khó
khăn khi tin vào những gì thiên thần đã nói với ông. Và còn tôi thì
sao?
5. Lời nguyện kết
Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa,
Bởi Người luôn che chở phù trì.
Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ,
Vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh. (Tv
33:20-21)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 21 tháng 12 MV
Bài đọc: Cant 2:8-14; Lk
1:39-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa viếng
thăm Dân Ngài.
Cuộc
đời con người trên dương thế là những chuỗi ngày kết tụ bằng hạnh phúc và đau
khổ, đoàn tụ và ly tán, yêu thương và ghen ghét, tha thứ và hận thù... Con người
chỉ hoàn toàn hạnh phúc, vui mừng, và bình an khi con người biết ăn năn trở lại
và hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, như tình trạng vô tư nguyên thủy khi con người
chưa biết đến tội lỗi. Khi phải sống lưu đày xa Thiên Chúa, cả Thiên Chúa và
con người đều đau khổ; vì Ngài dựng nên con người để chung hưởng tình yêu và hạnh
phúc với Ngài.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong niềm vui mừng khi con người được Thiên Chúa đến
viếng thăm. Trong Bài Đọc I, Sách Diễm Tình Ca mô tả nỗi vui mừng và sung sướng
khi một người con gái được tình quân tới viếng thăm. Trong Cựu Ước, nhiều tác
giả đã so sánh mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người nóng bỏng và mật thiết
như tình yêu giữa hai vợ chồng: Thiên Chúa là chồng và Israel là vợ (x/c Hos
1-3, Isa 62:5, Jer 3:1-10, Eze 16, 23). Sự bội phản của con người được ví như một
người làm điếm, nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ và không ngừng tìm kiếm đưa
con người trở lại với tình yêu ban đầu. Trong Phúc Âm, thánh sử Luca tường thuật
sự thăm viếng độc nhất vô nhị Thiên Chúa dành cho con người: bề ngoài là cuộc
thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Elisabeth, bề trong là cuộc gặp gỡ
giữa Đấng Thiên Sai và Dân Ngài, được tượng trưng qua sự hiện diện Gioan Tẩy Giả,
người tiên tri cuối cùng của Cựu Ước.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
"Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào!"
1.1/
Cuộc hò hẹn của hai con người đang yêu nhau: Khi đang yêu, đôi bạn muốn thường
xuyên ở bên nhau để được nhìn thấy và nghe tiếng của nhau. Trình thuật hôm nay
nói lên nỗi vui mừng của người con gái khi chờ đợi người yêu đến viếng thăm:
"Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên
đồi, tung tăng trên núi. Người yêu của tôi chẳng khác gì linh dương, tựa hồ chú
nai nhỏ."
1.2/
Nỗi đau khổ khi hai người phải xa nhau và niềm vui khi được xum họp.
(1)
Nỗi đau khổ và nhớ thương khi phải chờ đợi người yêu một thời gian dài: Tác giả diễn tả nỗi
đau khổ một cách vắn gọn: "Tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt, đã
xa lắm rồi." Mùa Đông tượng trưng cho sự chờ đợi dai dẳng, lạnh lẽo, và
đau buồn. Người con gái mong chờ cho những ngày mùa Đông chấm dứt để gặp mặt
người yêu. Đây cũng là tâm trạng của con người khi phải lưu đày và sống xa
Thiên Chúa: con người phải làm lụng vất vả và phải chịu đựng mọi đau khổ, vì
không còn được sống trong vòng tay yêu thương và bảo vệ của Thiên Chúa. Con người
mong được Thiên Chúa ghé mắt nhìn đến và ra tay giải thoát. Thiên Chúa cũng chẳng
vui sướng gì khi phải lìa xa con người. Ngài luôn tìm mọi dịp để hoán cải và
đưa con người trở về.
(2)
Niềm vui và hạnh phúc khi hai người được xum họp: Khi mùa Đông lạnh
giá qua là mùa Xuân nắng ấm tới. Lòng người con gái vui mừng vì sắp được gặp lại
người yêu. Trời đất và các tạo vật cũng thay đổi như cùng chung vui với sự
trùng phùng của hai người: "Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời
về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non,
vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào." Nỗi mong muốn được gặp mặt và nghe
tiếng của nhau sau bao năm trường xa cách được biểu tỏ qua lời yêu thương của
tình quân nói với người yêu: "Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của
anh, hãy ra đây nào! Bồ câu của anh ơi, em ẩn trong hốc đá, trong vách núi cheo
leo. Nào, cho anh thấy mặt, nào, cho anh nghe tiếng, vì tiếng em ngọt ngào và mặt
em duyên dáng."
2/
Phúc Âm:
"Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng."
2.1/
Mẹ Maria lên đường thăm viếng chị họ Elisabeth: ''Hồi ấy, bà Maria vội vã lên
đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Judah. Bà vào nhà ông
Zachariah và chào hỏi bà Elisabeth." Nhìn bề mặt, đó là cuộc thăm viếng giữa
con người với con người; nhưng nhìn bề trong, đó là cuộc thăm viếng của Thiên
Chúa dành cho con người. Đây là cuộc thăm viếng có tính cách lịch sử, vì Thiên
Chúa đã chuẩn bị biến cố này lâu năm, ngay từ khi con người sa ngã trong vườn Địa
Đàng. Con người khao khát cuộc thăm viếng này; vì nhờ nó, con người được Thiên
Chúa đổi vận mạng: từ chỗ phải chết đến chỗ sống muôn đời, từ chỗ bị lưu đày đến
chỗ được vào Đất Hứa, từ chỗ phải xa cách Thiên Chúa đến chỗ được đoàn tụ với
Ngài muôn đời.
Bà
Elisabeth có được hai niềm vui lớn: Thứ nhất, Bà phải chịu cảnh góa bụa đau khổ
và tai tiếng của người đời sau bao năm không có con; nhưng Thiên Chúa đã thay đổi
cuộc đời Bà, cho Bà được mang thai Gioan Tẩy Giả trong lúc cả hai ông bà đã quá
tuổi sinh con. Thứ hai, Bà được Mẹ Thiên Chúa tới viếng thăm, vì Người Con Mẹ
Maria sắp sửa sinh ra sẽ mang lại ơn cứu độ cho Bà và cho muôn người.
2.2/
Chúa Giêsu thăm viếng Gioan Tẩy Giả.
(1)
Bà Elisabeth nhận ra Người Con Maria đang mang trong lòng là Đấng Cứu Thế: Điều kỳ lạ là Mẹ
Maria chưa nói lời gì với Bà Elisabeth cả; trình thuật chỉ nói: "Khi Bà
Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà
được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc
phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi
đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" Nguyên do của việc nhận
ra là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả nhảy
mừng. Thánh Thần là Thần Sự Thật, Ngài giúp cho cả hai mẹ con Bà Elisabeth nhận
ra Đấng Thiên Sai. Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả tượng trưng cho gia đình nhân
loại trong Cựu Ước, vui mừng khi được Đấng Thiên Sai đến viếng thăm. Bà
Elisabeth biết rõ lý do tại sao Đức Mẹ thật có phúc: "vì đã tin rằng Chúa
sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
(3)
Gieo trong đau thương sẽ gặt trong vui mừng: Hai người đàn bà vui mừng vì
hai người con sắp được sinh ra là Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả; nhưng đau khổ và
chia ly chẳng bao lâu sẽ xảy ra không những cho Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả mà
còn cho hai bà mẹ. Tại sao Thiên Chúa yêu thương lại để những đau khổ và chia
ly xảy ra trong cuộc đời chúng ta? Có lẽ câu hỏi chúng ta phải đặt lại: Tại sao
chúng ta lại nhẫn tâm khinh thường tình yêu Thiên Chúa, cha mẹ, và những người
đã yêu thương chúng ta trong cuộc đời? Tại sao chúng ta không quan tâm đến những
lo lắng và đau khổ của họ? Khi chúng ta tìm được câu trả lời này, chúng ta đã
hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và của đau khổ. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng
vào Thiên Chúa: những đau khổ, chia ly, than khóc trên đời này chỉ tạm thời
chóng qua; khi được về với Thiên Chúa, mọi đau khổ và ly tan sẽ chấm dứt.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài đau khổ khi chúng ta sống xa cách Ngài;
và mừng rỡ nhảy mừng khi chúng ta quay trở lại với Ngài. Đau khổ xảy ra khi
chúng ta khinh thường tình yêu của Thiên Chúa, của cha mẹ, và của tha nhân dành
cho chúng ta; niềm vui có được khi chúng ta biết nhận ra và trân quí những tình
yêu đó.
-
Khi xa Thiên Chúa, con người chìm đắm trong đau khổ và làm nô lệ cho tội lỗi;
khi trở về với Ngài, con người được bình an, hạnh phúc, và phục hồi mọi sự đã mất.
Một khi đã trở về với Thiên Chúa, chúng ta hãy sống kết hiệp mật thiết với
Ngài, để đừng bao giờ lìa xa Ngài nữa. Chúng ta hãy thưa với Ngài: Emmanuel!
Xin Chúa hãy ở với con luôn mãi.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
TUẦN
BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ GIÁNG SINH
Lc
1,39-45
A.
Hạt giống...
Bài
Tin Mừng hôm nay cho biết thêm về Mẹ Đấng cứu thế sắp sinh ra.
1.
Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về
Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là
các chi tiết :
a. Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ
Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
b. Đavít đã “kêu lên” rằng : làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được.
Êlisabét cũng “kêu lên” : làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
c. Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Đức
Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
d. Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng ; Đức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng
(xem câu 56)
B....
nẩy mầm.
1.
Sau khi đã đón nhận Chúa vào lòng, sau khi đầy tràn Chúa, giờ đây mẹ Maria đem
Chúa đến cho tha nhân : Một người quen sống quảng đại với Chúa thì cũng dễ
sống bác ái quảng đại với tha nhân.
2.
Khi lần chuỗi, chúng ta thường đọc ‘thứ hai, Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, ta
hãy xin cho được lòng yêu người”. - Ta không xin cho được lòng ‘yêu mình’, hoặc
cho được lòng ‘ghét người’, nhưng ta vẫn dễ có khuynh hướng sống như vậy. Noi
gương Mẹ Maria ta đem niềm vui cho người khác. “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ
tăng gấp đôi, nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi một nửa”.
3.
Chiêm ngưỡng cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét, khung cảnh thật cảm động.
Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy Giả đang được hưởng những ngày êm ấm nhất, trong
lòng mẹ, phủ đầy yêu thương. Và tai các ngài được nghe hai người mẹ trao đổi những
lời thánh thiện, thân ái thấm đầy những lời Thánh Kinh đã thuộc nằm lòng.
4.
“Bà Maria vội vã lên đường đến miền núi… vào nhà ông Dacaria và chào hỏi vợ ông
là bà Êlidabét” (Lc 1,39-40)
Trời
nắng như thiêu đốt, ngồi trong căn gác nóng nực của nhà trọ, tôi nghe rõ nỗi cô
đơn của tiếng gậy khua lóc cóc, nghe rõ sự mệt nhọc của tiếng hát ê a khi bà cụ
mù lòa ăn xin đi ngang nhà. Đặt tờ giấy bạc vào bàn tay run rẩy của bà, lòng
tôi dịu bớt đi, nhưng vẫn nghe hoài tiếng gậy khua lóc cóc… như đòi hỏi tôi điều
khó khăn hơn lòng thương hại bình thường, là phải sống nhiệt tình hơn, quảng đại
hơn…
Lạy
Mẹ Maria, Mẹ đã vội vã lên đường đến giúp bà Êlidabét trong những ngày bà mang
thai và chuẩn bị sinh nở. Xin giúp con mở rộng vòng tay và tấm lòng cho những
người đang cần con giúp đỡ. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI - Gp. Cần Thơ
21/12/13 THỨ BẢY TUẦN 3 MV
Th. Phêrô Canixiô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 1,39-45
Th. Phêrô Canixiô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 1,39-45
CUỘC VIẾNG THĂM HỒNG PHÚC
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu
Chúa đến với tôi thế này?” (Lc 1,43)
Suy niệm: Bà Êlisabét là chị họ của Đức Maria. Thế mà khi Đức Maria
đến thăm viếng bà đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Việc đổi cách xưng hô đột ngột cho ta
thấy có một điều vui sướng khôn tả trong tâm hồn bà Êlisabét. Không chỉ người
mẹ, ngay cả đứa con trong bụng bà cũng nhảy lên vui sướng. Và còn nữa, Mẹ Maria
được tuyên dương là người có phúc vì Mẹ dám tin vào những gì Chúa đã nói với Mẹ.
Nói chung, cuộc thăm viếng của Đức Maria đong đầy hồng phúc cho Mẹ, cho bà chị
họ, cho bào thai Gioan Tẩy Giả còn nằm trong bụng người mẹ, và cũng là cơ hội
để Chúa Giêsu, Đấng vừa tượng sinh trong lòng Đức Maria, bày tỏ ơn cứu độ của
Ngài cho thai nhi Gioan.
Mời Bạn: Cuộc hội ngộ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét được phụng vụ Lời
Chúa hôm nay cho ta nghe trước lễ Giáng Sinh vài ba hôm là cơ hội củng cố niềm
tin của ta vào thần tính của Con Thiên Chúa. Người Con ấy được cưu mang bởi
phép Chúa Thánh Thần và những lời xưng tụng của bà Êlisabét cũng do bà được “đầy Thánh Thần” (câu 41).
Chia sẻ: Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài là một kho tàng quí giá
không phải để cất giữ, nhưng phải được chia sẻ để ai nấy đều được hưởng hạnh
phúc. Bạn đã làm điều này chưa?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi tìm thấy một niềm vui trong cuộc sống để tạ ơn
Chúa và chia sẻ với người chung quanh.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, xin cho con tìm thấy niềm hạnh phúc khi đón
tiếp Con Mẹ vào lòng, và cho con luôn biết chia sẻ niềm vui ấy với anh chị em
bằng những hành vi bác ái trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Thân
mẫu Chúa tôi đến với tôi
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ, không
ai có quyền khinh rẻ một thai nhi, vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con
Thiên Chúa.
Suy
niệm:
Trong
những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội
Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa
hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa
hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc
gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm
vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng
qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị
không đi một mình trên đường xa,
vì
chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị
chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để
phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm
vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà
ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà
tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét
cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường
như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để
chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc
gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh
Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh
Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh
Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị
Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì
chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị
đem đến sự phục vụ khiêm hạ
vì
chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.
Khi
được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị
Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị
có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị
còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa
sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng
ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài
tăng trưởng như mọi người.
Những
nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những
nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con
Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ
khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không
ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì
mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không
ai được coi thường người phụ nữ,
vì
Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Cầu
nguyện:
Lạy
Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin
gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh
tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin
ban cho con quả tim đơn sơ,
mau
quên những nỗi buồn phiền.
Một
quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu
dàng để cảm thông.
Một
quả tim trung thành và quảng đại.
không
quên ơn, không báo oán.
Xin
tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu
mà không mong được yêu lại,
hân
hoan xóa mình đi
để
Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một
quả tim vĩ đại và bất khuất,
không
khép lại trước những vô ơn,
không
chán nản trước người lạnh nhạt.
Một
quả tim khắc khoải
lo
tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả
tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết
thương chỉ lành
khi
được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
"Maria
vội vã ra đi…"
Sau
khi thưa xin vâng với Chúa, Maria vội vã từ phía Bắc của Israel xuống miền Nam
để chia vui cùng với người chị họ của mình là bà Isave. Maria muốn chia sẻ niềm
vui mà mình vừa nhận được, là cưu mang Đấng Cứu Thế cho người chị họ. Mẹ cũng
muốn chia sẻ niềm vui của chính Isave là được mang thai trong lúc tuổi già. Mẹ
đã mang niềm vui của mình chia sẻ cho người khác và cũng không quên chia sẻ
niềm vui với người khác. Niềm vui chia sẻ và được chia sẻ làm cho niềm vui tăng
lên bội phần. Phải có một tấm lòng rộng lượng người ta mới có thể làm được như
Đức Maria.
Ganh
tỵ luôn nằm sẵn trong lòng con người. Ađam và Evà vì muốn bằng Chúa nên đã ăn
trái cấm. Cain vì ganh tỵ với em là Aben nên đã giết em. Những anh em của Giuse
vì ganh tỵ nên đã bán em mình. Vua Saolê vì ganh tỵ nên không ngại tìm giết
Đavít. Người ta khó lấy làm vui khi thấy người khác hơn mình chỉ vì ganh tỵ.
Chúng ta cảm thấy khó chịu khi thấy ai đó may mắn hơn chúng ta, giỏi hơn chúng
ta, thành công hơn chúng ta. Đó là vì tính ganh tỵ còn quá nhiều trong lòng
chúng ta.
Phải
biết đón nhận niềm vui từ Thiên Chúa, niềm vui thật sự, chúng ta mới có thể
chia sẻ niềm vui cho người khác. Phải có tấm lòng cởi mở và đón nhận Chúa như
Đức Maria, chúng ta mới có thể biết chia sẻ niềm vui của người khác.
Niềm
vui lớn lao của chúng ta đó là ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Hãy
mở lòng đón nhận niềm vui ấy, và không ngừng mang niềm vui ấy đến cho những
người chung quanh chúng ta.
Hãy
vui mừng với anh em khi họ nhận được niềm vui ấy và cũng hãy vui mừng với anh
em chúng ta những người hăng say rao giảng niềm vui ấy và đạt được thành công.
Xin
Chúa ban cho chúng con niềm vui của Chúa và xin giúp chúng con biết chia sẻ
niềm vui ấy cho anh em chúng con. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21
THÁNG MƯỜI HAI
Dọn Chỗ Cho Chúa
Trong Lòng Ta
Trong
Mùa Vọng, chúng ta được ân sủng thúc giục để có tâm tình đức tin trong lòng và
có niềm mong đợi của tất cả những ai đợi trông Chúa, tất cả những ai tin và yêu
mến Đức Giêsu. Con đường Mùa Vọng như thế giúp làm cho đức tin của chúng ta nên
sinh động trong khi chúng ta không ngừng suy niệm và được bồi dưỡng bằng Lời
Chúa. Đối với người Kitô hữu, đây sẽ là điểm qui chiếu đầu tiên và nền tảng cho
đời sống tâm linh của mình, một đời sống phải được bồi dưỡng bằng kinh nguyện
tôn thờ và ca tụng Thiên Chúa. Trong số những kinh nguyện này, Benedictus của
Dacaria, Nunc dimittis của Simêon, và nhất là Magnificat của Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a là những kinh nguyện kiểu mẫu vô song.
Tâm
tình đức tin bên trong của Mùa Vọng được củng cố nhờ việc chúng ta lãnh nhận
các bí tích, nhất là bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, tinh luyện và ban dồi dào
ân sủng Đức Kitô cho chúng ta. Các bí tích ấy làm cho chúng ta trở thành con
người mới, theo như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy sám hối!” (Mt 3,2).
Từ
viễn tượng này, chúng ta thấy rằng trong tư cách là Kitôhữu, mọi ngày đều có thể
là một Mùa Vọng cho mình. Bởi vì chúng ta càng thanh tẩy linh hồn mình, chúng
ta sẽ càng dọn nhiều chỗ hơn cho tình yêu của Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn ta.
Rồi Đức Kitô sẽ có thể đến và sinh hạ trong ta.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 21-12
THÁNH PHÊRÔ CANISIÔ, LINH MỤC TIẾN SĨ HỘI
THÁNH
Dc 2, 8-14; Lc 1, 39-45.
LỜI SUY NIỆM: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa đã thực hiện những gì Người đã nói
với em”.
Trong ngày Đức Mẹ được sứ thần Gáp-ri-en Truyền Tin. Đức
Mẹ nhận được hai niềm vui, Mẹ đã vội vả lên đường đến với người chị họ của
mình. Cả hai được gặp nhau trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đã khai mở
cho cả hai bà mẹ biết được ơn cao trọng của mình đang lãnh nhận.
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho mọi thành viên trong gia
đình của chúng con, luôn biết nối kết sự thăm viếng của Đức Mẹ trong những cuộc
viếng thăm nhau.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
21-12: Thánh PHÊRÔ CANISIÔ
Linh
Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(1521
- 1579)
Thánh
tiến sĩ Phêrô Canisiô thường được gọi là vị tông đồ thứ hai của nước Đức. Ngài
chào đời 8 ngày tháng 5 năm 1521 tại Nijmegen. Cha Ngài là người công giáo, 9 lần
làm thị trưởng Nijmegen. Ông gửi Ngài tới phại học Cologne lúc Ngài 15 tuổi.
Nơi ấy Ngài gặp được một vị linh mục trẻ thánh thiện Nicolaus van Esch. Chính vị
linh mục này đã đưa Canisiô vào nhóm người trung thành với công giáo được hình
thành để chống lại Hermann van Wied, vị tổng giám mục đã sang hàng ngũ Luthêrô.
Canisiô
được nhóm chọn để tiếp xúc với hoàg đế và tổng giám mục, và việc thoái vị của tổng
giám mục đã tránh cho người công giáo Phineland một thảm họa. Ít lâu sau đó,
Canisiô gặp được chân phước Phêrô Faber, một trong các bạn tiên khởi của thánh
Inhaxiô và được hướng dẫn linh thao. Trong cuộc tĩnh tâm này, Ngài đã tìm được
giải đàp cho vấn nạn Ngài tự đặt cho mình làm sao phụng sự Chúa tốt đẹp nhất và
nâng đỡ Giáo hội công giáo đang bị tấn công ?
Ngài
gia nhập dòng Tên, thụ phong linh mục năm 1546 và sớm lừng danh do việc ấn hành
các tác phẩm của thánh Cyrillô thành Giêruslem và của thánh Leo cả. Năm 1547
Ngài tham dự công đồng Tridentinô như là đại diện của giám mục Augsburg.
Năm
1549, Ngài được gọi về Roma và lãnh nhận trách nhiệm truyền giáo cho nước Đức,
điều sẽ trở thành công trình của đời Ngài. Trong cuộc chinh phục của bá tước
Bavaria, Canisiô và hai cha dòng Tên khác được chọn để dạy thần học tại đại học
Ingolstadt. Chẳng bao lâu, Ngài được đặt làm viện trưởng đại học, rồi sau đó,
do sự can thiệp của vua Ferdinand, Ngài được gởi đi thi hành cũng một nhiệm vụ
tại đại học Vienna, Ngài thành công mỹ mãn đến nỗi nhà vua đã cố đưa Ngài lên
chức tổng giám mục. Dầu đã từ chối vinh dự này, Ngài cũng được gọi để quản nhiệm
địa phận trong khoảng một năm.
Vào thời kỳ này, tức năm 1555, Ngài đã cho ra cuốn "giáo lý" thời danh, một trong những phụng vụ lớn lao nhất của Ngài cho Giáo hội. Với lối trình bày trong sáng và bình dị giáo thuyết công giáo, cuốn sách này đáp ứng nhu cầu và chống lại sức tàn phá do cuốn "giáo lý" của Luthênô. Tính cho đến cuối thế kỷ XVII, cuốn sách được xuất bản hơn 400 lần và được chuyển dịch sang 15 ngôn ngữ.
Vào thời kỳ này, tức năm 1555, Ngài đã cho ra cuốn "giáo lý" thời danh, một trong những phụng vụ lớn lao nhất của Ngài cho Giáo hội. Với lối trình bày trong sáng và bình dị giáo thuyết công giáo, cuốn sách này đáp ứng nhu cầu và chống lại sức tàn phá do cuốn "giáo lý" của Luthênô. Tính cho đến cuối thế kỷ XVII, cuốn sách được xuất bản hơn 400 lần và được chuyển dịch sang 15 ngôn ngữ.
Từ
Vienna, Canisiô qua Bohemia là nơi Giáo hội ở trong điều kiện tuyệt vọng. Chống
lại, Ngài đã thiết lập một học viện ở Praha, sau trở thành đạihọc. Năm 1556, được
đặt làm giám tỉnh miền nam nước Đức, Ngài lập trường học cho trẻ em tại 6 thành
phố và tự nhận trách vụ cung ứng cho nước Đức các linh mục được đào luyện tốt.
Thực hiện điều này Ngài thiết lập các chủng viện và gửi người trẻ đi tu nghiệp
thường xuyên ở Roma.
Du hành trong nước Đức, thánh Canisiô không ngừng rao giảng lời Chúa. Trước hết, Ngài tiếp xúc với những người lãnh đạm hay thù nghịch. Nhưng lòng nhiệt thành và sự thông hiểu của Ngài quá rõ đến nỗi đám đông kéo đến chật ních các nhà thờ để nghe giảng. Trong 7 năm liền, Ngài là người giảng thuyết chính thức của nhà thờ chính toà Augsburg và được coi như vị tông đồ của thành phố này. Mỗi khi qua một nhà thờ miền quê vắng bóng chủ chăn, Ngài thường dừng lại để giảng dạy và ban các phép bí tích.
Du hành trong nước Đức, thánh Canisiô không ngừng rao giảng lời Chúa. Trước hết, Ngài tiếp xúc với những người lãnh đạm hay thù nghịch. Nhưng lòng nhiệt thành và sự thông hiểu của Ngài quá rõ đến nỗi đám đông kéo đến chật ních các nhà thờ để nghe giảng. Trong 7 năm liền, Ngài là người giảng thuyết chính thức của nhà thờ chính toà Augsburg và được coi như vị tông đồ của thành phố này. Mỗi khi qua một nhà thờ miền quê vắng bóng chủ chăn, Ngài thường dừng lại để giảng dạy và ban các phép bí tích.
Dường
như Ngài không thể nào kiệt sức được. Ngài nói với vài người đã tố cáo Ngài làm
việc quá độ rằng: - "Nếu bạn phải làm việc quá nhiều, với sự trợ lực của
Chúa, bạn sẽ tìm giờ để làm cho hết".
Một
hình thức tông đồ khác là viết thơ. Các pho sách in thư từ của Ngài dày hơn cả
ngàn trang giấy. Như thánh Bernardô Clairvaux, Ngài dùng phương tiện này để
khích lệ, quở trách và hướng dẫn mọi hạng người. Theo nhu cầu của cả Giáo hội
hay của từng cá nhân đòi hỏi. Ngài đã viết thư cho Đức Thánh cha, cho nhà vua,
cho các giám mục, cho các hoàng tử, cho linh mục và giáo dân. Nơi nào thư từ
không đủ, Ngài đưa ra một sức mạnh do ảnh hưởng cá nhân. Chẳng hạn trong một cuộc
họp giữa công giáo và Thệ phản ở Worms năm 1556, đã phải nhờ đến ảnnh hưởng của
Ngài; mà người công giáo mới có thể hiệp nhất chống lại những mời mọc của Thệ
phản để thỏa hiệp với những điều thuộc về nguyên tắc.
Ở
Balan năm 1558, Ngài đã kiểm soát được một đe dọa mới chớm nở đối với niềm tin
cổ truyền của xứ sở. Và trong cùng một năm ấy, Ngài đã nhận được lời cám ơn của
Đức Piô IV về tài ngoại giao của Ngài trong việc hàn gắn sự bất hoà giữa Đức
Thánh Cha và hoàng đế. Năm 1561, Ngài được trao phó để công bố các sắc lệnh của
công đồng Tridentinô tại nước Đức.
Ít
lâu sau, Ngài được kêu gọi để trả lời cho cuốn Kenturies của Magdeburg. Tác phẩm
đầu tiên và tồi tệ nhất của lịch sử "Thệ phản giáo" tấn công Giáo hội
công giáo trong mức độ rông rãi và những bóp méo lịch sử đòi nhiều người mới có
thể trả lời đầy đủ được. Dầu vậy, thánh Canisiô đã vạch ra đường lối với hai
tác phẩm của Ngài là: - "Lịch sử thánh Gioan Tẩy giả" và "Đức
trinh nữ Maria khôn sánh"
Từ
năm1580 tới khi qua đời năm 1597, Ngài đã cực nhọc và đau khổ nhiều ở Thụy Sĩ.
Sáu năm cuối, Ngài nhẫn nại chịu dựng và cầu nguyện lâu giờ tại học viện
Fribourg, vì bây giờ, sức khỏe tàn tạ không cho phép Ngài có thể hoạt động tích
cực nữa.
Chẳng
bao lâu sau khi Ngài qua đời, ngày 21 tháng 12 năm 1597 mộ Ngài đã được tôn
kính. Nhiều phép lạ đã diễn ra nhờ lời chuyển cầu của Ngài. Ngài là duy nhất đã
được tuyên thánh và tuyên dương làm tiến sĩ Hội Thánh vào cùng một ngày, ngày
21 tháng 6 năm 1925.
(daminhvn.net)
21 Tháng Mười Hai
Rạn Nứt Trong Tâm Hồn
Một
ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi
người đều oán ghét ông.
Một
hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan
tể tướng cho biết: "Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ
không thể nào nộp thuế được".
Nhưng
nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất
cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung
quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là
sự bất mãn và ta thán của người dân.
Thế
là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp
nơi và loan báo như sau: "Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người".
Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn
mừng.
Trở
lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế
được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.
Ngày
hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung
quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua
đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở,
nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng
mới giải thích như sau: "Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để
đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu
thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt
đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà
chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu
nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố
miễn thuế cho họ trong năm nay".
Nghe
thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông
nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động.
Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.
Người
Việt Nam chúng ta có lẽ đã quá quen thuộc với hai chữ đổi mới. Năm kia qua
tháng nọ, lúc nào người ta cũng hô hào "đổi mới", nhưng đâu vẫn vào
đó: đói khổ vẫn còn đó, dốt nát vẫn còn đó, lạc hậu vẫn còn đó, tù đày khốn khổ
vẫn còn đó... Ðiều đó xem ra cũng dễ hiểu, người ta chỉ vá víu để hàn gắn những
rạn nứt bên ngoài, còn rạn nứt thâm sâu nhất là rạn nứt trong tâm hồn mình, thì
người ta không bao giờ nghĩ tới.
"Ðổi
mới" là trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo chúng ta. Khai mở sứ vị công khai
của Ngài, Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng".
Sự hoán cải mà Chúa Giêsu đề ra là hoán cải tâm hồn, hoán cải con tim, hoán cải
tư duy, hoán cải cái nhìn.
Sự
hoán cải ấy không phải là công việc của một ngày, một tháng, một năm, mà là
công trình của cả một cuộc đời. Bao lâu còn mang lấy danh hiệu Kitô, thì bấy
lâu người tín hữu vẫn còn được mời gọi để hoán cải.
Sự
hoán cải ấy cũng không chỉ là cố gắng riêng tư của người tín hữu mà là tác động
của chính Chúa. Chính Ngài mới có thể tác tạo cho con người một trái tim mới, một
quả tim biết yêu thương. Sự đổi mới mà người tín hữu Kitô không ngừng đeo đuổi
trong cả cuộc sống của mình chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa những cố gắng
riêng tư của mình và sự tác tạo của Chúa.
(Lẽ
Sống)
Ngày
21 tháng Mười Hai
Thánh PHÊRÔ CANISIÔ, linh mục tiến sĩ Hội Thánh
(1521–1597)
Thánh Phêrô Kanijs
(Canisiô) sinh tại Nimègue miền Geldria nước Hòa Lan năm 1521, nhưng ngài đã
sống hầu như suốt cuộc đời tại Ðức. Năm 1543, ngài vào dòng Tên tại Cologne, và
nổi tiếng là một học giả uyên thâm trong nhiều lĩnh vực. Ngài đã từng giữ chức
vụ giáo sư, giảng thuyết, dạy giáo lý, sứ giả của Ðức Thánh Cha, Bề Trên nhà
dòng, Giám tỉnh tại Ðức và Áo, thiết lập các chủng viện và học viện. Ngoài ra,
ngài còn là một nhà văn, đã viết nhiều tác phẩm giá trị và được phổ biến khắp
nơi, chúng ta phải kể đến cuốn “Tổng luận về giáo lý Công Giáo” (1555) và nhất là
cuốn “Giáo lý” (1556). Các hoạt động của ngài chỉ nhằm một mục đích là phục vụ
Giáo Hội, chống lại học thuyết của Luther đang bành trướng tại Ðức. Vào thế kỷ
thứ XVI, một phần lớn nước Ðức còn lại trung thành với Giáo Hội, đó là công lao
của thánh Phêrô Canisiô. Ngài đã trải qua những năm sau cùng tại Fribourg (Thụy
Sĩ) với những chức vụ khiêm nhường trong lĩnh vực hoạt động tông đồ và bác ái.
Ngài qua đời tại đây
ngày 21-12-1597, hưởng thọ 76 tuổi.
Ðức Giáo Hoàng Piô XI đã
phong ngài lên bậc Hiển Thánh và đồng thời ban cho tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh
năm 1925.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét