Ngày 27 tháng 12
(Trong Tuần Bát Nhật Lễ
Chúa Giáng Sinh)
Thánh Gioan Tông Ðồ
Bài
Ðọc I: 1 Ga 1, 1-4
"Chúng
tôi loan truyền cho anh em điều chúng tôi đã nghe và đã thấy".
Bắt
đầu thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các
con thân mến, điều đã có từ thuở ban sơ, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi
đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã ngắm nhìn và tay chúng tôi đã sờ đến về Ngôi
Lời hằng sống: là sự sống đã tỏ hiện, và chúng tôi đã từng thấy, chúng tôi làm
chứng và chúng tôi loan truyền cho các con sự sống đời đời đã có nơi Chúa Cha
và đã tỏ hiện cho chúng ta. Ðiều chúng tôi đã thấy và đã nghe, thì chúng tôi
loan truyền cho các con, để các con hiệp nhất với chúng tôi, và chúng ta hiệp
nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô, Con của Người. Chúng tôi viết các điều
này để các con vui mừng và niềm vui của các con được trọn vẹn.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 11-12
Ðáp: Người hiền đức,
hãy vui mừng trong Chúa (c. 12a).
Xướng:
1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây
khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu.
- Ðáp.
2)
Núi non vỡ lở như mẩu sáp trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất.
Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
- Ðáp.
3)
Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người
hiền đức, hãy vui mừng trong Chúa và hãy ca tụng thánh danh Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang
của các tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 20, 2-8
"Môn
đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày
thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna chạy đến gặp Simon Phêrô và môn đệ kia mà Chúa
Giêsu yêu, bà nói: "Người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi, chúng tôi không
biết họ để đâu".
Bấy
giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy
nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn
liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi
vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người,
không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ.
Bấy
giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lễ
Kính Thánh Gioan Tông Ðồ
Thông
thường người ta đi chứ không chạy, người ta chỉ chạy khi có một xúc động mạnh
thúc đẩy. Có nhiền nguyên nhân gây nên xúc động: Có thể xúc động vì sợ hãi, kẻ
thù đang đuổi bắt sau lưng thì chẳng ai mà lại không chạy, hay tai họa sắp
giáng xuống thì không cần bảo người ta cũng tìm đường thoát thân. Xúc động còn
do một sự lôi cuốn thôi thúc như đang rảo bước nhưng bất chợt có điều lạ xảy ra
trước mặt thì các bước chân đều rầm rập chạy tới cho kịp để xem điều lạ ấy. Và
xúc động hơn là khi nghe tin người thân yêu đang gặp tai nạn hay nguy hiểm, nếu
ở xa thì bằng mọi giá phải quay về cho kịp thời, nếu ở gần thì tức tốc chạy đến
nơi.
Trình
thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói về hai cuộc chạy đua của hai Tông Ðồ Gioan và
Phêrô. Tại sao họ lại chạy mà không đi? Ðiều gì đã buộc họ chạy như thế? Các
Tông Ðồ khi đến mồ thấy mất xác Chúa Giêsu, bà Maria Madalena đã chạy đi báo
tin cho các môn đệ. Nhận được tin này, Phêrô và Gioan vội vã chạy đến mồ, cả
hai đều chạy, nhưng Gioan chạy đến trước. Hẳn là vì sức thanh niên trai tráng
mà Gioan có thể chạy nhanh hơn. Tuy nhiên, không đơn thuần như thế nhưng còn có
một động lực khác buộc ông phải chạy nhanh, đó là vì lòng yêu mến. Ðể được nhìn
thấy Thầy đã sống lại, tất cả các môn đệ đều nao nức bàng hoàng, nhưng sự bàng
hoàng mang nhiều cường độ sắc thái khác nhau, và dù sao đi nữa người được gọi
là môn đệ yêu dấu thì sự bàng hoàng phải lên đến tột độ. Sự bàng hoàng đã làm
ông quên mất người bên cạnh, chỉ khi đến mồ ông mới sực nhớ ra và ông đã nhường
bước cho Phêrô.
Anh
chị em thân mến!
Chỉ
một thoáng diễn tả của đoạn Tin Mừng trên, chúng ta cũng thấy được lòng mến của
Thánh Gioan Tông Ðồ đối với Chúa Giêsu như thế nào. Tin Mừng không nói lý do tại
sao có sự mến yêu đặc biệt này mà chỉ thuật lại diễn tiến.
Từ
bước đầu, Gioan cũng được kêu gọi như bao nhiêu người khác, đang vá lưới cùng với
anh và cha là Giêbêđê thì hai anh em được kêu gọi trở thành kẻ chài lưới người.
Hai người đã từ giã cha mà đi theo Ngài. Ông cũng không phải là kẻ ôn nhu nhưng
là kẻ nóng nảy và được biệt danh là con của "sấm sét" được gán cho
hai anh em khi hai người xin lửa bởi trời thiêu đốt dân thành Samaria, vì họ
không chịu tiếp đón Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã quở trách hai ông và có lẽ nhờ
vào lời quở trách này mà Gioan biết nhìn vào Chúa Giêsu hơn, vì Ngài là Ðấng đến
để cứu chữa chứ không phải để trừng phạt. Càng nhìn vào Chúa Giêsu, Gioan lại
càng yêu mến Ngài hơn. Nhưng rồi sau khi đã thưa được trước chén đắng Ngài trao
cho thì Gioan đã sẵn sàng cất bước theo Ngài trên con đường tử nạn. Dù rằng lúc
này quanh ông chỉ còn đầy những khuôn mặt sát khí muốn giết chết cả Thầy lẫn
trò, nhưng Gioan vẫn kiên trung theo Thầy dù các bạn đồng môn đã bỏ trốn và người
anh cả Phêrô đã chối Thầy.
Nhờ
lòng kiên trung này mà Gioan đã được thay mặt cho cả nhân loại và cho Chúa
Giêsu. Thay mặt nhân loại khi ông được gọi là "con của Mẹ", và thay mặt
cho Chúa Giêsu khi ông lãnh nhận trách nhiệm săn sóc cho Mẹ "Gioan đón nhận
Bà về nhà mình". Và cứ thế mà tình yêu chuyển lướt vào nơi ông, làm cho
ông chỉ có một lòng khăng khít sống mật thiết với Chúa, sẵn sàng bước theo Thầy
mình đến cùng trong cuộc sống của mình.
Sau
khi xác Chúa được táng trong mồ, lòng thánh nhân còn luôn hướng về đó. Vừa nghe
tin xác Thầy bị mất, ông liền vội vã chạy đến mồ, ông đã thấy và ông đã tin.
Trong lúc các môn đệ khác còn nghi ngờ vì tình yêu đã tạo một mối liên kết vô
hình, không đòi hỏi nhiều diễn tả. Thoạt nghe tiếng Ngài gọi ở trên bờ hồ
Tibéria, ông đã nhận ra Ngài. Tuy nhiên, Phêrô nhanh nhẹn nhận ra Thầy mình, và
ông liền nhảy xuống biển nhưng Phêrô lại không nhạy cảm bằng Gioan.
Trong
ngày mừng kính thánh Gioan Tông Ðồ hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng
ta biết hun đúc tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu, để rồi chúng ta cũng sẽ
nhạy cảm trước những tiếng gọi của Ngài. Ðặc biệt trong mùa Giáng Sinh này, lúc
Vua tình yêu đang giáng hạ trong máng cỏ nghèo hèn. Ước gì chúng ta sẽ nghe tiếng
gọi của Ngài, và đến quì chầu bên máng cỏ để chiêm ngắm Vua Tình Yêu. Vì càng
chiêm ngắm chúng ta sẽ càng yêu mến Ngài, càng học biết được sự hiền lành và
khiêm nhượng của Ngài.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 27 tháng 12, Lễ
Thánh Gioan Tông Đồ
Bài đọc: I Jn 1:1-4; Jn
20:2-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Gioan làm chứng
cho Thiên Chúa.
Con
người hành động là hành động cho một mục đích. Thánh Gioan tuyên bố rất rõ ràng
mục đích tại sao ngài viết Sách Tin Mừng là để cho mọi người tin vào Đức Kitô;
và vì tin, họ đạt được cuộc sống đời đời” (Jn 20:31). Mục đích này cũng là mục
đích tại sao ngài làm chứng cho Đức Kitô trong Bài đọc I, để hiệp thông với con
người và để con người được hiệp thông với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, khi nhìn
thấy Ngôi Mộ Trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến đã thú nhận: “Ông đã thấy
và đã tin.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa.
1.1/
Đức Kitô hiện hữu “từ lúc khởi đầu:” Nếu chúng ta so sánh Sách Tin Mừng (Jn 1:1) với
câu đầu tiên của Thư Gioan I, chúng ta sẽ nhận ra ngay ý của ngài khi nói về
“lúc khởi đầu.”
Không
phải chỉ bắt đầu với sự hiện diện của Đức Kitô trong thế gian, nhưng sự hiện hữu
từ nguyên thủy của Ngài.
1.2/
Gioan làm chứng cho Đức Kitô: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều
chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.”
Thánh-sử Gioan dùng các động từ: nghe, thấy, chiêm ngưỡng, chạm tới, ở thời quá
khứ kép để làm chứng cho Đức Kitô. Để lời chứng được hiệu nghiệm, người rao giảng
cần có tất cả những kinh nghiệm này:
(1)
Điều chúng tôi đã nghe:
Các tín hữu mong muốn nơi người rao giảng không phải là sự khôn ngoan hay ý kiến
cá nhân của người rao giảng, nhưng là Lời Chúa. Giống như các tiên-tri, người
rao giảng phải là người đã lắng nghe Thiên Chúa nói trước, rồi sau đó chuyển
thông lại cho dân chúng.
(2)
Điều chúng tôi đã nhìn thấy: Có một tín hữu sau khi nghe giảng, đã nói với vị linh mục: “Cha
giảng hôm nay như cha vừa nhìn thấy Chúa.” Dĩ nhiên, người rao giảng không được
nhìn Đức Kitô tận mắt như Thánh Gioan, nhưng ông có thể nhìn thấy Ngài bằng cặp
mắt đức tin.
(3)
Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng: Cái gì khác biệt giữa 2 động từ: nhìn thấy và chiêm
ngưỡng Đức Kitô? Động từ “nhìn thấy” trong tiếng Hy-Lạp (horan) chỉ cái
nhìn thể lý, nhìn thấy đối vật. Nhưng động từ “chiêm ngưỡng” trong tiếng Hy-Lạp
(theasthai) đòi thời gian lâu hơn để nhận ra những gì chính yếu nơi đối
vật. Khi nói về vinh quang của Thiên Chúa, Gioan cũng dùng động từ này: “Chúng
tôi chiêm ngưỡng vinh quang của Ngài” (Jn 1:14).
(4)
Điều chúng tôi đã chạm tới: Nhiều người cho lý do tại sao Thánh-sử Gioan viết những lời này
là để chống lại bè rối Docetism, những người cho Đức Kitô không thực sự mang
thân xác của con người. Một lý do nữa, để lời rao giảng có hiệu quả, người rao
giảng cần có kinh nghiệm sống thiết thực thì mới hiểu vấn đề, và dễ cảm thông với
khán giả hơn.
1.3/
Mục đích của việc làm chứng: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả
anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi
thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Những điều
này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.”
(1)
Để hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa: Khi Thánh Gioan rao giảng Tin Mừng, bằng bài giảng
hay bằng viết sách, ngài luôn có mục đích để hiệp thông với khán giả và đưa
khán giả tới Thiên Chúa.
(2)
Để niềm vui được trọn vẹn: Niềm vui là điều cốt tủy của Tin Mừng rao giảng. Nếu người rao
giảng chỉ mang tin buồn và gây thất vọng trong khán giả, đó không phải là Tin Mừng
của Đức Kitô. Dĩ nhiên, nhiều khi người rao giảng phải đánh thức lương tâm khán
giả để thúc đẩy họ tới việc ăn năn hối cải; nhưng một khi họ đã thú nhận tội lỗi,
họ phải cảm thấy niềm vui vì tội được tha và họ được giao hòa với Thiên Chúa.
2/
Phúc Âm:
Ông đã thấy và đã tin.
Trình
thuật hôm nay bắt đầu Tin Mừng Phục Sinh theo Thánh Gioan: “Sáng sớm ngày thứ
nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá
đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu
thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng
biết họ để Người ở đâu." Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người
cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi
xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.” Có 2 câu hỏi quan
trọng liên quan đến trình thuật này:
2.1/
Ai là người môn đệ Chúa Giêsu thương mến? Đọc Tin Mừng Gioan, độc giả sẽ thấy 6 lần tác giả
dùng thành ngữ “người môn đệ yêu quí của Đức Giêsu” (Jn 13:23-26, 19:25-27,
20:2-10, 21:7, 21:2-23, 21:24). Ai là người môn đệ này? Có hai giả thuyết nêu
ra:
(1)
Chính là Gioan: Vì
không muốn nêu tên mình hay vì khiêm nhường, tác giả dùng thành ngữ này để ám
chỉ mình. Gioan là một trong ba người môn đệ gần gũi nhất với Chúa Giêsu, hai
người kia là Phêrô và Giacôbê, anh ruột của ông. Đây là giả thuyết có nền tảng
hơn cả.
(2)
Có thể là bất cứ môn đệ nào được Chúa yêu: Có người cho đây là hình ảnh của một Kitô hữu hòan
tòan: gần gũi với Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly và giờ chết của Ngài, và là người
đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài sống lại.
2.2/
Tại sao người môn đệ này lại để cho Phêrô vào trước?
(1)
Vì Phêrô là người lãnh đạo các Tông-đồ: Hành động của người môn đệ, tuy tới trước nhưng
không vào, nói lên sự tôn trọng quyền bính của ông. Giả thuyết này không có cơ
sở vững chắc lắm, vì trong Tin Mừng Gioan, không thấy nói tới quyền bính của
Phêrô. Ngược lại, Phêrô đã nhiều lần không nhận ra Chúa Giêsu ngay, và cần được
nhắc khéo bởi “người môn đệ yêu quí của Chúa Giêsu.”
(2)
Vì tuyệt đỉnh của trình thuật là người môn đệ tin Đức Kitô đã sống lại: “Bấy giờ người môn
đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.” Có người cho
đây là kiểu viết văn của Gioan: vì muốn chấm dứt trình thuật bằng lời tự thú của
người môn đệ, nên để cho Simon Phêrô vào trước. Hơn nữa, tác giả cũng muốn gởi
tới độc giả một lời khuyên nhủ: người nào yêu mến Đức Kitô nhiều bao nhiêu dễ
chạy nhanh hơn và nhận ra Ngài dễ hơn (Jn 21:7).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta có bổn phận làm chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng và bằng
cuộc sống chứng nhân.
-
Mục đích của việc làm chứng là để cảm thông với con người và dẫn họ tới niềm
tin vào Đức Kitô.
-
Để lời rao giảng có hiệu quả, chúng ta cần có một niềm tin mạnh mẽ và vững vàng
nơi Đức Kitô, qua việc lắng nghe, ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, và cảm nghiệm Ngài
trong cuộc sống.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Ga
20,2-8
A.
Hạt giống...
Đoạn
Tin Mừng này cho chúng ta biết đôi nét về thánh Gioan :
-
Ngài tự xưng mình là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Điều này đúng một
cách khách quan (vì Chúa Giêsu thương mến ngài thật), và cũng đúng cách chủ
quan (ngài biết Chúa Giêsu thương mình). Khía cạnh chủ quan này rất quan trọng.
-
Dù biết mình được Chúa Giêsu thương mến, nhưng ngài vẫn tôn trọng Phêrô là trưởng
nhóm 12, cho nên tuy vì trẻ nên chạy tới mồ trước, ngài vẫn nhường cho Phêrô
vào trước.
-
Lòng yêu mến Chúa đã giúp ngài sớm nhận ra ý nghĩa dấu chỉ ngôi mồ trống :
“Ông đã thấy và đã tin”. Nói cách khác, đức mến hỗ trợ cho đức tin.
B....
nẩy mầm.
1.
“Tin Mừng hôm nay nói đến một sự trống rỗng. Được Maria Mađalêna thông tin,
Phêrô và Gioan đã vội vã chạy ra mồ. Hai người không còn thấy xác Chúa Giêsu
trong ngôi mồ nữa. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng đó, Gioan đã tuyên bố “Ông đã thấy
và đã tin”. Niềm tin đã bừng dậy từ một sự trống rỗng. Đó là sứ điệp Gioan muốn
gởi đến chúng ta, nhất là trong những ngày này khi chúng ta chiêm ngắm Hài nhi
Giêsu nằm trong máng cỏ. Bên kia những hoa đèn và trưng bày lộng lẫy của mùa
Giáng sinh, có lẽ chúng ta phải nhìn thấy cái thiết yếu trong những biểu tượng
của lễ Giáng sinh. Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là một Hài nhi nằm
trong máng cỏ ? Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là cảnh trơ trụi
nghèo nàn trống rỗng trong đó Hài nhi Giêsu đã giáng sinh ? Ngôi mộ trống
mà Gioan đã nhìn thấy hay máng cỏ trơ trụi nghèo nàn của Hài nhi Giêsu, cả hai
cảnh tượng đều có chung một ý nghĩa : Thiên Chúa đến với con người qua những
cái nhỏ bé tầm thường và ngay cả những mất mát của cuộc sống. Đức tin luôn là một
bước nhảy vượt qua cái trống rỗng ấy, hay đúng hơn đức tin là một cái nhìn
xuyên suốt qua cái trống rỗng ấy” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2.
Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau :
-
Em có bằng lòng lấy anh không ?
-
Bằng lòng.
-
Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp
“kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế ?
-
Vì em yêu anh !
Tình
yêu hỗ trợ cho niềm tin.
3.
“Bà Maria Magđala chạy về tìm và báo tin cho hai ông Phêrô và Gioan : Người
ta đã lấy mất Chúa rồi. Người không còn trong mộ nữa, chẳng biết họ để Người ở
đâu”. Cả hai liền chạy ra mộ” (Ga 20,2-3)
Hồi
tôi còn học ở Cao đẳng Sư phạm Đồng nai, có người bạn hỏi tôi : “Bạn là
người công giáo phải không ?” Tôi tự hào trả lời : “Đúng vậy”. Nhưng
khi bạn ấy yêu cầu tôi cho biết đôi điều về đạo thì tôi đã bối rối và chỉ trả lời
cách chiếu lệ. Từ ấy tôi đã nhận ra rằng mình là người công giáo nhưng rất hời
hợt ; đối với Chúa còn lạnh nhạt hơn… Tôi đã tìm học hỏi về Chúa, nhất là
dành nhiều thời gian để cầu nguyện và sống với Chúa. Như Maria Magđala và như
hai môn đệ Phêrô và Gioan, tôi muốn tin và yêu Chúa hết lòng.
Lạy
Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa. Xin nâng đỡ tình yêu của
con. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
27/12/13 THỨ SÁU TRONG TUẦN BÁT NHẬT GS
Th. Gioan, tông đồ
Ga 20,2-8
Th. Gioan, tông đồ
Ga 20,2-8
VỊ TÔNG ĐỒ CỦA TÌNH YÊU
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ
đã tới mộ trước cũng đi vào. Ông đã thấy và ông đã tin. (Ga 20,8)
Suy niệm: Nhiều
người đã cảm nhận phần nào đó về Thiên Chúa, nhưng có lẽ, thánh Gioan là người
đã có cảm nhận sâu sắc nhất về tình yêu của Đức Kitô vì chỉ có thánh Ngài mới
phát biểu một câu “định nghĩa” ngắn gọn nhưng thật đầy đủ: “Thiên Chúa là tình yêu”. Định nghĩa không nói đến tinh yêu như một ý
niệm trừu tượng, nhưng cụ thể bằng xương bằng thịt: “Chúng tôi đã thấy tận mắt,
chúng tôi đã ngắm nhìn và tôi chúng tôi đã sờ đến.” Thiên Chúa tỏ tình với con người không bằng
những lời nói suông, nhưng bằng hành động cụ thể và cao độ nhất là hành vi hiến
trao mạng sống làm giá chuộc muôn người: Thiên Chúa đã yêu thương thế
gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian. Cuộc sống của Chúa Giêsu, nhất là cái chết của
Ngài là hành động yêu thương cụ thể nhất Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu là động lực cho Gioan chạy tới mộ, để thấy và tin Đức Giêsu đã phục sinh.
Mời Bạn: Yêu thương là cốt lõi của Kitô giáo, và cũng là ý nghĩa
cuộc sống bạn. Sống yêu thương chính là sống sung mãn đích thực. Tình yêu
thương này bạn phải bắt đầu cách cụ thể trong nơi bạn sống: gia đình, xóm làng,
giáo xứ, công sở… nếu không thì tình yêu nơi bạn chỉ là tình yêu chết. Đây cũng
chính là sứ điệp của Mùa Giáng sinh.
Chia sẻ: Cụ
thể tôi sẽ sống yêu thương thế nào trong Mùa Giáng sinh này?
Sống Lời Chúa: Tôi
sẽ chăm sóc cha mẹ bằng những hành động cụ thể hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống hoà bình, quảng đại, cảm thông
và tha thứ cách cụ thể với những người chúng con gặp gỡ hằng ngày.
Tin
mừng được trích đọc trong thánh lễ mừng kính thánh Gioan Tông đồ hôm
nay, thuật lại cho thấy ba cái nhìn khác nhau khi chứng kiến cùng một sự
kiện “Ngôi mộ trống”.
-
Maria Mađalêna cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu đã bị đánh cắp (Gioan
20,13-15).
-
Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lc 24,12).
-
Còn Gioan, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến, thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã
sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20,9).
Sở
dĩ có cái nhìn khác nhau là vì cả ba người đang mang trong mình những
tâm trạng khác nhau:
Maria
Macđala, với tâm trạng thương nhớ Chúa thiết tha. Có lẽ cả đêm dài bà không
chợp mắt được. Bà ước ao trời mau sáng để ra thăm mộ Chúa. Nhưng khi chứng kiến
tảng đá đậy mộ bị lăn ra, bà đã hốt hoảng chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa.
Tình thương mà Maria Macđala dành cho Chúa Giêsu là một tình thương đáng trân
trọng. Nhưng nếu tình thương chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính thường tình của con
người thì không có khả năng nhận ra Chúa phục sinh.
Phêrô
mang tâm trạng buồn vì tội lỗi đè nặng nên cũng không nhận ra gì hơn ngoài việc
rất đỗi ngạc nhiên khi chứng kiến những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại
xếp riêng ra cũng như ngôi mộ trống. Phải chăng lúc đó tâm trí của Phêrô vẫn
còn bị ám ảnh giờ phút chối Chúa. Phải chăng lòng ông vẫn còn mang nặng nỗi u
buồn về tội lỗi của mình. Ông còn phải có thời gian và kiên nhẫn như là liều thuốc
đặc trị chữa lành vết thương tâm hồn bất tín mà tiến đến niềm tin vào Chúa phục
sinh.
Gioan,
người môn đệ Chúa yêu, mà cũng là môn đệ rất yêu Chúa, nên khi chứng kiến những
băng vải còn đó bên ngôi mộ trống ông đã tin.
Để
tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu, Gioan đã vượt lên trên tình cảm thường
tình của Maria Macđala và nỗi đau buồn vì mặc cảm tội lỗi của Phêrô. Cái nhìn
vào sự kiện ngôi mộ trống của Gioan được định hướng bởi tình yêu trong sáng và
sự hướng dẫn của Lời Chúa. Chính cái nhìn này đã cho ông niềm tin vào sự sống
lại của Chúa Giêsu.
Như
thế, cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều tâm trạng khác nhau nên đưa đến cái
nhìn khác nhau.
Những
biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công thất bại…như là dấu chỉ “ngôi mộ
trống” thường xuyên xảy đến cho chúng ta. Vậy trước những dấu chỉ đó ta có
cái nhìn như thế nào?
Có
thể giống như Maria Macdala, chỉ dừng lại ở tình cảm thường tình nên khi những
biến cố ấy xảy đến trong cuộc sống, chúng ta chỉ phản ứng theo cảm tính. Vui
mừng khi thành công, hạnh phúc…, đau buồn khi gặp nghèo khổ, mất mác, thất bại
trong cuộc sống.
Có
thể chúng ta cũng giống như Phêrô chẳng thấy gì hơn khi đối mặt với thử thách.
Đối diện trước những biến cố, chỉ dừng lại ở sự ngạc nhiên như bao người, không
thể nhận ra gì thêm ở phía sau biến cố ấy mà Chúa gởi đến.
Xin
cho chúng ta biết nhìn mọi việc, mọi biến cố xảy đến trong cuộc đời với cái
nhìn đức tin của thánh Gioan. Nhờ cái nhìn đức tin này thì cho dù đối mặt với
bất cứ thử thách nào, hoàn cảnh nào ta vẫn thấy an tâm vì chính Chúa Phục sinh
hiện diện và đồng hành cùng chúng ta.
Nhưng
để có được cái nhìn đức tin, chúng ta cần có được tình yêu Chúa chân thành,
cũng như sáng suốt nhìn những biến cố dưới ánh sáng Lời Chúa. Sống niềm tin là
biết nhìn tất cả mọi việc theo tình yêu Chúa và dưới ánh sáng của Lời Chúa .
Xin
Chúa cho chúng con có được tình yêu Chúa nồng nàn và ơn soi sáng bởi Lời Chúa
như thánh Gioan để qua những dấu chỉ, biến cố hay sự kiện xảy đến trong cuộc
sống, chúng con tin và nhận ra Chúa hiện diện bên con. Amen.
Lm.Seoka –Gp. Cần
Thơ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27
THÁNG MƯỜI HAI
Chúng Ta Phải Học Lấy
Tấm Lòng Của Chúa Hài Nhi
Trẻ
em nắm bắt mầu nhiệm Giáng Sinh khá dễ dàng, dù mầu nhiệm này sâu xa đến nỗi một
người lớn cũng sẽ chẳng bao giờ thấu triệt được nó. Để hiểu mầu nhiệm Giáng
Sinh, về một số phương diện nào đó, chúng ta phải là trẻ em mãi mãi. Chúng ta
phải nên giống như trẻ em bé bỏng – như lời Chúa Giêsu – thì mới có thể vào được
Nước Trời (cf. Mt 10,15). Chúng ta phải có tấm lòng của trẻ em – để có thể hiểu
được mầu nhiệm Giáng Sinh.
Vì
Giáng Sinh tiên vàn là ngày lễ của tấm lòng. Nó nói cho chúng ta về tấm lòng của
Thiên Chúa trong việc trao ban Đức Kitô cho chúng ta. Thật vậy, Đức Kitô đã trở
thành một em bé để dạy cho chúng ta về tấm lòng.
Tấm
lòng này bao gồm tình yêu và niềm vâng phục của chúng ta trong tư cách là con
cái Thiên Chúa. Nó có nghĩa là yêu mến Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
yêu mến mọi người, và tuân phục các điều răn của Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 27-12
NGÀY III TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH
THÁNH GIOAN TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG
1Ga 1, 1-4; Ga 20, 2-8.
LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy
và đã tin”.
Thánh Gioan Tông Đồ, là người duy nhất trong Nhóm Mười
Hai trung thành với Chúa Giêsu cho đến cùng; cũng là Tông Đồ tin Chúa Giêsu Phục
Sinh đầu tiên, ngay khi vào trong ngôi mộ nhìn thấy sự ngăn nắp những khăn liệm.
Tin Mừng của Gioan cũng như 3 thư của ngài, đều nhấn mạnh về tình yêu và sức mạnh
của mầu nhiệm tình yêu mà Gioan đã cảm nghiệm, đã sống và truyền lại cho nhân
loại để học biết.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình
chúng con, luôn học biết về tình yêu mà Thánh Gioan đã trình bày cho chúng con.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
27-12: Thánh GIOAN TÔNG ĐỒ
THÁNH
SỬ ( ? -100)
Gioan
là tông đồ yêu dấu, tông đồ tình yêu mà trong bữa tiệc ly đã dựa đầu vào lòng
Chúa Giêsu. Mọi điều Ngài viết là tình yêu. Nhưng Ngài cũng là ngư phủ thô kệch
hăng hái và bồng bột khi Chúa gọi làm môn đệ, đến nỗi Chúa Giêsu gọi là
"con cái sấm sét" (Mc 3,7).
Gioan
là ngư phủ ở Galilê, con của ông Giêbêđê và bà Salomê. Năm 20 tuổi, Ngài là môn
đệ của thánh Gioan tẩy giả đang giảng dạy trong sa mạc. Ngài tìm kiếm sự hoàn
thiện. Gioan tẩy giả đã thấy Chúa Thánh Thần xuống trên Chúa Kitô và loan báo
cho mọi người rằng Người ở giữa họ, nhưng người ta không nhận biết Người. Ngày
kia, Chúa Giêsu đi qua, Gioan tẩy giả chỉ cho Gioan và Anrê: "Đây là chiên
Thiên Chúa". Lập tức, hai ông đã theo Chúa Giêsu.
Chúa
Giêsu đã yêu thương Gioan cách đặc biệt vì sự trong trắng, nhiệt tâm và thành
tín của Ngài. Ở trường học Thần Linh, Ngài tự biến đổi, thủ đắc tinh thần hiền
hậu, học được đức ái chân thật và tiến tới tinh thần hy sinh. Gioan cùng với
anh là Giacôbê, cũng như mỗi người đều tin rằng, Chúa Giêsu sắp tái lập vương
quyền và họ xin Người cho họ được giữ những chỗ danh dự trong ngày vinh quang của
thày. Nhưng Chúa Giêsu đã từng nói vương quốc của Ngài không thuộc thế gian này
và đã trả lời bằng việc trao thánh giá cho họ: "Các con có thể uống chén
Ta không ?" Đầy nhiệt tâm, họ trả lời: "Dạ được". Như thế là họ
biết rằng, việc chia sẻ vinh quang sẽ tiếp sau việc chia sẻ đau khổ.
Suốt
ba năm sống công khai của Chúa Giêsu, Gioan không rời thày mình. Ngài có mặt
khi thầy làm phép lạ và tâm sự với thày bằng những lời mang lại sự sống. Ngài
đã thấy thầy chói sáng trên núi Tabor. Với kỷ niệm này, Gioan viết rằng:
"Chúng tôi đã thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa Cha: Chúa Giêsu đã chọn
Ngài với Phêrô để dọn lễ Vượt qua, và trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói những
lời mà Gioan không bao giờ quên được. Ngài sẽ ghi lại diễn từ ấy trong sách
Phúc âm của mình.
Chỉ
có một mình Gioan trong số 12 tông đồ trung thành theo Chúa Giêsu tới thánh
giá. Ngài đứng cạnh Mẹ Maria. Chúa Giêsu đã nói với Mẹ Maria: "Này là con
bà", và với Gioan: "này là Mẹ con". Và mọi người đã trở thành
con mẹ trong con người của Gioan.
Sau
phục sinh. Maria Madalêna không thấy xác thày và hớt hả đi báo tin. Tình yêu
như chắp cánh thêm, Gioan đã chạy tới mồ trước, nhưng vì tôn trọng thủ lãnh các
tông đồ, nên đã dừng lại trước khi cúi nhìn mộ (Ga 20,1-8)
Vì
ngày sau, khi Gioan cùng với các môn đệ khác đi đánh cá, Chúa Giêsu hiện ra. Được
tình yêu soi sáng, Gioan đã nhận ra thày và thốt lên: "Chúa đấy" (Ga
21,1-8)
Sau
khi nhận lấy Chúa Thánh Thần trong dịp lễ Ngũ Tuần, Gioan ở lại Giêrusalem, người
ta nghĩ rằng, Ngài sống với Đức Trinh nữ. Ngày kia, Ngài cùng với thánh Phêrô
vào đền thờ cầu nguyện. Một người què xin bố thí, các tông đồ đã chữa lành anh
ta (Cv 3,1-8). Các thủ lãnh bắt giam các Ngài, cấm không được rao truyền danh
Chúa Giêsu, các tông đồ đã trả lời: "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn
là loài người " (Cv 4,1-20). Một lần khác, Gioan bị bắt và bị đánh đòn,
Ngài hãnh diện khi thấy mình được chịu đau khổ vì Chúa Kitô.
Gioan
sống rất thọ và trải qua nhiều thử thách gian khổ. Những người chung quanh
không biết Chúa Kitô bớt lần. Chắc hắn Ngài sống ở Antiokia rồi ở Ephêssô.
Hoàng đế Domitianô đã truyền bách hại các Kitô hữu. Từ đây, tường thuật không
có mấy giá trị lịch sử. Sử sách kể lại rằng, khi biết còn một môn đệ chót của
Chúa Giêsu sống và giảng dạy ở Á Châu, ông truyền đem về Roma để kết án tử. Người
ta đánh đòn Ngài rồi dẫn tới cửa La-tinh và dìm vào vạc dầu sôi. Thật lạ lùng,
Ngài đi ra không hề hấn gì. Quan án xúc động không dám hành hạ Ngài nữa và truyền
đày ải ở đảo Patnmô. Vị tông đồ rao giảng Tin Mừng và rửa tội cho dân trên đảo.
Chính ở đây mà Ngài có được thị kiến và lãnh mệnh lệnh ghi lại trong sách
"Khải huyền". Những cao siêu mà vị tông đồ vươn tới, đã làm cho Ngài
được ví như cánh chim phượng hoàng bay bổng trên trời cao. Dầu vậy, có thể sách
Khải huyền đã cho một môn đệ của Gioan viết.
Khi
hoàng đế bằng hà, những người bị lưu đày được gọi trở về, và Gioan trở lại
Ephêsô. Một kỷ niệm cảm động liên quan tới những chuyến hành trình của Ngài.
Trong một cuộc du hành, Ngài đã rửa tội cho một thiếu niên, rồi trao phó cho vị
giám mục sở tại. Nhưng khi trở về, Ngài được vị giám mục buồn sầu cho biết rằng
con trẻ này đã thành kẻ cướp. Lập tức, dầu già nua, Gioan đã và cỡi ngựa đi tìm
đứa con.
Khi
thấy Ngài, người đó chạy trốn. Vị tông đồ đuổi theo và khuyên nhủ: - "Con
ơi, tại sao con chạy trốn cha già không có khí giới ? Còn hy vọng được cứu rỗi,
cha sẽ vui lòng chết cho con như Chúa Giêsu sai cha đến với con".
Tên
cướp xúc động ngừng lại, bởi khí giới: chàng khóc trong tay cha già đang ôm chặt
chàng vào lòng và dẫn chàng về với Giáo hội.
Gioan
trở thành ánh sáng vùng Tiểu á, đến lúc đó Ngài vẫn lớn tiếng giảng dạy, nhưng
những lạc thuyết đang lộ diện giữa Giáo hội sơ khai. Nhưng kiến sĩ giả hiệu làm
biến tính Phúc âm của thánh Matthêu, chối Chúa Giêsu vừa là Chúa vừa là người.
Để bác bỏ những sai lầm, vừa để bổ túc ba Phúc âm đã xuất hiện, Ngài viết cuốn
thứ tư, trong đó, tình yêu Chúa Kitô đốt cháy lòng Ngài. Còn ba bức thư nữa thuộc
về Ngài. Bức thư thứ I tóm tắt trọn mạc khải: "Thiên Chúa là tình
yêu". "Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa đã có, bây giờ chúng ta biết
Ngài là ai. Ngài là cha yêu thương ta hết lòng và đòi ta yêu nhau". Và hướng
ta về thực tại không thể kể ra được, Ngài nói: "các con thân yêu, ngay từ
giờ này, chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng ngày mai chúng ta như thế nào thì
chưa tỏ lộ ra".
Về
già, không đi được nữa, Ngài được mang tới nhà thờ. Ngài thường lặp lại:
"các con hãy yêu thương nhau". Thấy Ngài nói mãi một điều, người ta
kêu ca và Ngài trả lời: "Đó là lệnh truyền của Chúa, và như vậy là đủ".
Thánh
Gioan là bổn mạng các văn sĩ và mọi người cầm viết.
(daminhvn.net)
27 Tháng Mười Hai
Ngạc Nhiên
Tại
miền Provence thuộc miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Ða số các
nhân vật trong máng cỏ, du khách thường để ý đến một con người nhỏ bé với hai
bàn tay mở ra trống trơn, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó tả.
Chính vì thế mà người ta đặt tên cho nhân vật này là "ngạc nhiên".
Người
địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên trên gương mặt của nhân vật này bằng
một câu chuyện như sau: Một hôm tất cả các nhân vật trong máng cỏ, kể cả mấy
chú bò lừa, đều tỏ ra khó chịu đối với nhân vật có tên là "ngạc
nhiên" này, bởi vì anh ta không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài
hai bàn tay trắng của anh. Họ sỉ vả anh như sau: "Mày không biết xấu hổ sao?
Mày đến chầu Hài Nhi Giêsu mà không mang theo gì cả?".
Nhưng
con người có tên là "ngạc nhiên" ấy không để lộ một phản ứng nào, đôi
mắt của anh vẫn mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu.
Những
lời rủa sả cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến độ Ðức Maria phải lên tiếng để
biện hộ cho anh như sau: "Quả thực anh "ngạc nhiên" đã đến với
Hài Nhi Giêsu với hai bàn tay trắng. Nhưng anh đã mang đến món quà cao đẹp nhất:
đó là sự ngạc nhiên của anh! Ðiều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên
Chúa đã chiếm trọn tâm tư của anh".
Và
Ðức Mẹ kết luận như sau: "Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu luôn có những
con người như anh "ngạc nhiên", biết ngây ngất vì ngạc nhiên".
Người
ta thường nói: "ngạc nhiên" là khởi đầu của khám phá. Có biết ngạc
nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đặt ra giả thuyết rồi mới tìm tòi, khảo
sát và khám phá... Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên.
Trong
lĩnh vực siêu nhiên cũng thế, Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc
nhiên, biết chiêm ngắm để khám phá ra Tình Yêu bao la của Ngài. Cả vũ trụ là một
quyển sách luôn được mở ra để mời gọi con người tìm đọc được Lời Ngỏ yêu thương
của Chúa. Lịch sử của nhân loại, cuộc đời của mỗi người cũng là một kỳ công,
qua đó Thiên Chúa không ngừng bày tỏ Tình Yêu của Ngài.
Ðức
Kitô Phục Sinh mang lại cho chúng ta sức sống mới với đôi mắt mới. Với đôi mắt
mới ấy, chúng ta không ngừng được mời gọi để đi vào sự ngạc nhiên và ngây ngất
trước Tình Yêu của Thiên Chúa. Tình Yêu ấy nhiệm màu đến nỗi chúng phải vượt
qua nhãn giới bình thường của chúng ta để nhìn thấy được và cảm nếm được những
gì không nằm trong sự đo lường, tính toán của chúng ta. Do đó, người có cái
nhìn ngạc nhiên và ngây ngất luôn phó thác cho Tình Yêu của Chúa... Trong lúc
thịnh vượng, họ thốt lên lời ca chúc tụng tri ân đã đành, mà đứng trước thất bại,
khổ đau, mất mát, họ vẫn có thể nhìn ra dấu ấn Tình Yêu của Chúa.
(Lẽ
Sống)
Thứ Sáu 27-12
Thánh Gioan Tông Ðồ
C
|
hính Thiên Chúa là người
mời gọi, và nhân loại đáp lời. Trong Phúc Âm, lời mời gọi ông Gioan và ông
Giacôbê (James), người anh của ông, được bắt đầu rất đơn giản, cũng như lời mời
gọi ông Phêrô và Anrê: Ðức Giêsu gọi họ; và họ theo Ngài. Sự đáp ứng mau mắn
được miêu tả rõ ràng. Các ông Giacôbê và Gioan "đang ở trên thuyền,
cùng với người cha là ông Zêbêđê vá lưới. Ðức Kitô gọi họ, và ngay lập tức họ
bỏ thuyền và từ giã người cha mà theo Ngài" (Mátthêu 4:21b-22).
Ðức tin của ba ngư dân
-- Phêrô, Giacôbê và Gioan -- đã được phần thưởng, đó là được làm bạn với Ðức
Giêsu. Chỉ ba vị này được đặc ân là chứng kiến sự Biến Hình, sự sống lại của
con gái ông Giairút, và sự thống khổ trong vườn Giệtsimani của Ðức Giêsu. Nhưng
tình bằng hữu của ông Gioan còn đặc biệt hơn nữa. Truyền thống coi ngài là tác
giả cuốn Phúc Âm Thứ Tư, dù rằng hầu hết các học giả Kinh Thánh thời nay không
cho rằng vị thánh sử và tông đồ này là một.
Phúc Âm Thánh Gioan đề
cập đến ngài như "người môn đệ được Ðức Giêsu yêu quý" (x.
Gioan 13:23; 19:26; 20:2), là người được ngồi cạnh Ðức Giêsu trong bữa Tiệc Ly,
và là người được Ðức Giêsu ban cho một vinh dự độc đáo khi đứng dưới chân thánh
giá, là được chăm sóc mẹ của Ngài. "Thưa bà, đây là con bà... Ðây là mẹ
con" (Gioan 19:26b, 27b).
Vì ý tưởng thâm thuý
trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất
cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhưng các
cuốn Phúc Âm thật bộc trực ấy cũng tiết lộ một vài nét rất nhân bản. Ðức Giêsu
đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là "con của sấm sét."
Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có
thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.
Biến cố thứ nhất, như
được Thánh Mátthêu kể lại, bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan xin cho hai con
của bà được ngồi chỗ danh dự trong vương quốc của Ðức Giêsu -- một người bên
trái, một người bên phải. Khi Ðức Giêsu hỏi họ có uống được chén mà Ngài sẽ
uống và chịu thanh tẩy trong sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu không, cả hai ông
đều vô tư trả lời, "Thưa có!" Ðức Giêsu nói quả thật họ sẽ được chia
sẻ chén của Ngài, nhưng việc ngồi bên tả hay bên hữu thì Ngài không có quyền.
Ðó là chỗ của những người đã được Chúa Cha dành cho. Các tông đồ khác đã phẫn
nộ trước tham vọng sai lầm của người anh em, và trong một dịp khác Ðức Giêsu đã
dạy họ về bản chất thực sự của thẩm quyền: "Ai muốn làm đầu anh em thì
phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người"
(Mt 20:27-28).
Một dịp khác, những
"người con của sấm sét" hỏi Ðức Giêsu rằng họ có thể khiến lửa
từ trời xuống thiêu đốt những người Samaritan lạnh nhạt không, vì họ không đón
tiếp Ðức Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem. Nhưng Ðức Giêsu đã "quay
lại và khiển trách họ" (x. Luca 9:51-55).
Vào ngày đầu tiên của
biến cố Phục Sinh, bà Mađalêna "chạy đến ông Simon Phêrô và người môn
đệ mà Ðức Giêsu yêu dấu, và bà bảo họ, 'Người ta đã đem Chúa ra khỏi trong mộ;
và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?" (Gioan 20:2). Gioan
nhớ rằng, chính ngài và Phêrô cùng đi cạnh nhau, nhưng "người môn đệ
kia chạy nhanh hơn ông Phêrô nên đến mộ trước nhất" (Gioan 20:4b). Ông
không bước vào mộ, nhưng đợi ông Phêrô và để ông này vào trước. "Sau đó
người môn đệ kia mới bước vào, và ông đã thấy và đã tin" (Gioan 20:8).
Sau biến cố Sống Lại,
ông Gioan đang ở với ông Phêrô thì phép lạ đầu tiên xảy ra -- chữa một người bị
tật từ bẩm sinh -- và việc đó đã khiến hai ông bị cầm tù. Cảm nghiệm kỳ diệu
của biến cố Sống Lại có lẽ được diễn tả hay nhất trong sách Công Vụ Tông Ðồ:
"Nhận thấy sự dũng cảm của ông Phê-rô và ông Gio-an và biết rằng hai
ông là những người bình dân, không có học thức, nên họ rất ngạc nhiên, và họ
nhận ra rằng hai ông là những người theo Ðức Giêsu" (CVTÐ 4:13).
Thánh Sử Gioan đã viết
cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền. Cuốn Phúc Âm của
ngài là một công trình độc đáo. Ngài nhìn thấy sự vinh hiển và thần thánh của
Ðức Giêsu ngay trong các biến cố ở trần gian. Trong bữa Tiệc Ly, ngài diễn tả
Ðức Giêsu với những lời phát biểu như thể Ðức Giêsu đã ở thiên đàng. Ðó là cuốn
Phúc Âm về sự vinh hiển của Ðức Giêsu.
Lời Bàn
Quả thật, đó là một hành
trình thật dài để thay đổi từ một người khao khát muốn có uy quyền và muốn sai
lửa từ trời xuống thiêu đốt, cho đến một người đã viết những dòng chữ sau:
"Phương cách để chúng ta biết được tình yêu là Ngài đã hy sinh mạng
sống vì chúng ta; do đó, chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình vì anh
em" (1 Gioan 3:16).
Lời Trích
Có câu chuyện người ta
thường kể, là "các giáo dân" của Thánh Gioan quá chán chường với bài
giảng của ngài vì ngài luôn luôn nhấn mạnh rằng: "Hãy yêu thương nhau."
Dù câu chuyện này có thật hay không, đó là nền tảng của văn bút Thánh Gioan.
Những gì ngài viết có thể được coi là tóm lược của Phúc Âm: "Chúng ta
đã biết và đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa là
tình yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong
họ" (1 Gioan 4:16).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét