Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

22-12-2013 : CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG năm A (phần II)

CHÚA NHẬT 22/12/2013
Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm A
(phần II)



Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm A ngày 22.12.2013
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM A
Sách Ngôn Sứ Isaia 7.1-14; Thư Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Rôma 1.1-7
 và Phúc Âm Thánh Matthêô 1.18-24
I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Đức Mẹ Maria mang thai Chúa Giêsu là do quyền phép của Chúa Thánh Thần.
Ông Giuse thuộc dòng dõi Davit. Chúa Giêsu được sinh ra trong dòng tộc vương giả. Trước mắt mọi người, Chúa Giêsu là con Ông Giuse thợ mộc. Nhưng kỳ thực, Ông Giuse không là Cha đẻ của Chúa Giêsu.
Tất cả, dòng dõi vua Chúa hay con người Giuse, được xử dụng dể thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được loan báo từ ngàn xưa: Đấng Cứu thế thuộc dòng vua Đa Vit và sinh ra bởi một trinh nữ.
II.   Vấn nạn P.Â.    
“Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” Có cái gì mâu thuẩn trong chuyện nầy: Đã là người công chính sao lại định tâm bỏ vợ mình đang có chữa? Không muốn tố giác người đàn bà có chữa mà lại định tâm bỏ trốn thì khác nào tố giác?

            Ông Giuse khi đính hôn với Maria đã phải biết rằng: Maria khấn giữ mình đồng trinh! Chắc chắn rằng: Giuse không thể hay không hề nghi ngờ chuyện có thai của Maria là hành động ngoại tình và phản bội với ông và với Chúa là “tôi hứa giữ mình đồng trinh và không biết đến người nam!” Giuse rất có thể đã được vợ mình tâm sự cho biết là đang mang Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa sắp sinh làm con người, như Kinh Thánh đã loan báo từ ngàn xưa.

            Như vậy sao Giuse không vui mừng đón Maria về làm vợ mà lại định tâm bỏ trốn?
           
            Bỏ trốn vì sợ. Đây không là sợ hãi hay kinh sợ khi gặp những gì đe dọa mạng sống hay bản thân mình, nhưng là kính sợ và tự quyết định rút lui vì thấy mình bất xứng. Phải, Giuse là người công chính, tức người biết kính sợ Chúa. Ông nhận ra một kỳ diệu, một choáng ngộp mà ông không sao hiểu nỗi hay kham nỗi. Sự kính sợ nầy làm cho người ta ý thức mình hèn kém bất xứng và muốn xa rời Đấng tối cao thánh thiện.

            Trong Cựu Ước, Ông Môisen khi được Chúa hiện ra trong bụi gai bốc cháy, kêu gọi ông làn thủ lãnh đưa Dân Thiên Chúa khỏi ách nô lệ Ai Cập, Môsê đã sợ thất kinh hồn vía, tuột cả dép ra, mọp lạy trối chết và từ chối rằng mình không biết ăn nói. Môisen đã kính sợ Chúa và muốn thối thác công việc Chúa giao như được tường thuật trong Sách Xuất Hành 3:4.

            Trong Tân Ước khi Phêrô được Chúa cho mẻ lưới cá đầy giữa ban ngày thì đã sấp mình dưới chân chúa và “Xin Thầy xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” như được tường thuật trong Phúc Âm Matthêô 11:4-6, Phúc Âm Thánh Luca 6:38, và Phúc Âm Thánh Gioan 10:10.

            Khi Chúa biến hình trên núi Tabor, mặt Ngài chiếu ánh sánh vinh quang của Thiên Chúa, các tông đồ Chúa đã úp mặt xuống đất không dám nhìn như được tường thuật trong Phúc Âm Matthêô 17:1-6; Phúc Âm Matcô 9:1-8; và Phúc Âm Luca 9:28-36.

            Giuse không có ác tâm bỏ chạy, tuy nhiên cách giải quyết bỏ trốn là cách khiêm tốn nhìn nhận sự việc quá lớn lao so với bản thân mình. Kính sợ đến độ phải quyết định rút lui. Vì thế thiên thần Chúa đã hiện ra với Giuse trong giấc mơ và bảo ông “can đảm nhận Maria làm vợ, vì Bà thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con và đặt tên con trẻ là Giêsu, Chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội!” Chúa can thiệp và nói rõ trách nhiệm Giuse phải đảm nhận là làm dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế. Câu nói “Bà thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” không là chuyện biện bạch ai là tác giả của bào thai, nhưng xác định vai trò của Giuse: Không là Cha đẻ mà chỉ là dưỡng phụ thôi. Hiểu chuyện và nhận ra chương trình Chúa,  Giuse đã làm đúng như lời sứ thần truyền.

“Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-chúa-ở-cùng-chúng-ta” Thiên Chúa ở cùng chúng ta có nghĩa gì?
            Người Do Thái có quan niệm về một Thiên Chúa quyền uy cao cả và ngự trên trời cao xa thăm thẳm.  Thiên chúa của người Do Thái không bao giờ ở cùng chúng ta.
            Trong tường thuật về sáng tạo trời đất, Thiên chúa từ đâu đó, tận cõi cao xa phán một lời liền có mọi sự.
            Sau khi con người sa ngã phạm tội, Thiên chúa hứa ban Đấng Cứu Thế sinh hạ bởi một người phụ nữ. Trong thực  tế người Do Thái không bao giờ chờ đón một em bé Giêsu trong hang lừa máng cỏ.
            Trong tường thuật về việc thành lập dân riêng Chúa. Thiên Chúa dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân chúa chọn. Thiên Chúa nhiều khi được trình bày như một hung thần, dòm ngó và trừng trị người bất kính.
            Trong cuộc sống hàng ngày: Phải coi là phạm thượng và đáng tội chết nếu ai đó dám tự nhận mình là Con Thiên chúa.
            Quan niệm về một Thiên chúa xa xôi nầy cần phải được sửa đổi như Thánh Phaolô nói: Đã đến lúc Thiên Chúa nói với con người qua chính con của Ngài. Thật vậy Thiên Chúa sinh làm con người và ở giữa chúng ta. Không có gì tuyệt diệu cho bằng tên diễn tả ý nghĩa muốn trình bày. Tên Emmanuel, nói lên rằng: Thiên Chúa không ở xa, Thiên Chúa gần gũi như người Cha nhân từ và Thiên Chúa  mặc lấy chính thân phận con người như chúng ta. Đó là nhập thể.
            Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong khi sáng tạo trời đất. Trời đất hiện diện một cách tài tình khéo léo để nói lên sự hiện diện của Chúa giữa con người. Chúng ta có thể so sánh rằng: Vũ trụ trời đất là một bức chân dung của Thiên chúa vô hình. Thấy trời đất tài tình xếp đặt là thấy Chúa hiện diện.
            Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
            Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.
            Nên Thiên Chúa ở cùng chúng ta là tên của Ngài. Không phải bây giờ, nhưng ngày từ buổi đầu sáng tạo. Vì từ trước đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và nhờ Lời mà muôn vật được  tạo thành như được trình bày trong chương đầu tiên của Phúc Âm Gioan.
            Nếu tin rằng Thiên chúa ở cùng chúng ta thì cũng phải tin rằng: chúng ta lúc nào cũng có Chúa cả. Nhiều khi chúng ta hay có quan niệm tiêu cực về Thiên chúa, thí dụ: Chúa bỏ tôi, Chúa xa lánh tôi, vì tôi tội lỗi hay những suy luận thiếu thần học như: Phạm tội là đuổi Chúa ra khỏi con người mình và đời sống mình. Chúng ta là con Chúa, không lẽ Cha Mẹ lại đi từ bỏ những đứa con yếu đuối hay xấu xa? Trước mắt Cha Mẹ, không đứa con nào là xấu, là đáng bỏ cả. Do đó, khi sa ngã phạm tội, chúng ta vẫn cầu nguyện có hiệu quả, khi sa ngã phạm tội, chúng ta vẫn có Chúa ở cùng chúng ta. 
Kinh Thánh không ghi lại một lời nói nào của Giuse. Giuse không nói hay rất ít nói. Vậy làm sao chuyện Giuse chiêm bao được tường thật lại trong các Phúc Âm? Mơ thường là chuyện không thật. Làm sao biết được giấc mơ thiên thần hiện ra cho Giuse là thật?

            Các Phúc Âm đều thành hình rất muộn sau khi Chúa Giêsu về trời, lúc các tông đồ đi truyền đạo và nghĩ đến chuyện viết Phúc Âm để dạy giáo lý. Trong bốn thánh sử Phúc Âm, chỉ có hai người, thánh Gioan và Thánh Matthêô là tông đồ, gần gũi với Chúa Giêsu, còn Luca và Marcô là môn đệ của các tông đồ Chúa, của Phêrô và của Phaolô. Nên những gỉ được ghi lại trong Phúc Âm là những điều được kể lại. Sau đó các thánh sử xếp đặt lại để làm thành bài giáo lý. Thí dụ Phúc Âm Matthêô Chúa Nhật IV Mùa Vọng là bài giáo lý về: thực hiện chương trình cứu độ của Thiên chúa đã có từ ngàn đời. Tiên Tri Isaia trong Cựu đã nói về một trinh nữ mang thai, sinh con và đặt tên là Emmanuel, Giuse thuộc dòng dõi Davit và được xếp đặt để làm dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
            Sườn của bài giáo lý là như thế. Còn chuyện làm sao thực hiện chương trình cứu chuộc có từ ngàn đời nầy là việc giấc mơ. Nếu Giuse không nói thì ai biết ông có ý định bỏ trốn. Nếu Giuse không nói thì ai biết được là thiên thần Chúa hiện ra với ông như thế nào và bảo ông “đừng sợ, hãy lấy Maria làm vợ, vì…” . Chúa còn tiếp tục dùng giấc mơ để truyền bảo Giuse làm hết chuyện nầy sang chuyện klhác. Thí dụ trong Phúc Âm Matthêô 2:13-19 nói về giấc mơ của Giuse nhận lệnh truyền mang con trẻ và mẹ người trốn sang Ai Cập. Chúng ta không biết tại sao các thánh sử lại biết về những giấc mơ nầy? Thánh Giuse lại chết sớm. Có thể nghe Đức Mẹ thuật lại chăng? Dù không chi tiết như thế, nhưng qua linh ứng của Chúa Thánh thần họ đã làm thành một câu chuyện nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
            Mơ thường không thật. Tuy nhiên Kinh Thánh từng có những chiêm bao, những giấc mơ được nhìn nhận như là cách để Thiên chúa truyền đạt sứ điệp của mình. Kinh Thánh Cựu Ước trình thuật lại giấc mơ của Tổ Phụ Giacóp tại thành Lút, sau khi đã được người mẹ là bà Rêbêca giúp đón nhận lời chúc phúc của ông Ixaác. Trong giấc mơ ông đã thấy: “Gia-cóp ra khỏi Bơe Seva và đi về Kharan. Cậu đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Và kìa Đức Chúa đứng bên trên thang mà phán: "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Ápraham, tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa của Ixaác Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi. Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông tây nam bắc. Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc ” ( St. 28,10-14).
            Ông Giuse, con Ông Giacóp cũng nhờ giải mộng cho Vua Ai Cập mà được phong làm tể tướng. Nên Kinh Thánh cả Cựu Ước và Tân Ước được thành hình trong văn minh vùng Cận Đông, nơi mà những giấc mơ vẫn được nhìn nhận là những linh ứng của thần thánh.

III.      Thực hành P.Â.:

            Emmanuel – Thiên chúa ở cùng chúng ta
            Ngày xưa, có một chú bé tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?". Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: "Nói thực là thầy không biết". Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?". Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
            Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ.
            Emmanuel tới gần bên em bé và hỏi bà mẹ: Em bé tên gì vậy thưa bà?
            Bà mẹ trả lời: Emmanuel.
            Như vậy là trùng tên với cháu. Nhưng tại sao bà lại đặt tên em bé là Emmanuel?
            Tôi không có đặt tên cho cháu, nhưng Thiên chúa đã cho bé trai của tôi phải được gọi là Emmanuel. Emmanuel có nghĩa là Thiên chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu luôn ở với chúng ta. Tiếng nói mà Chúa nói và chúng ta phải nói là Emmanuel, là Thiên chúa ở cùng chúng ta, là Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi ban chính Con Một mình để cứu độ nhân loại. Thiên Chúa chỉ có nghĩa ở cùng chúng ta khi chúng ta yêu thương người khác.
            Chúa của những người nầy sao khó khăn và rắc rối quá.
            Tôi thân quen với một cô gái người Miền Nam ngoại đạo và theo đạo khi lấy chồng, một thanh niên miền Bắc. Gia đình bên chồng bề ngoài thật sốt sắng và đạo đức: Ông bà đi lễ mỗi ngày, con cái phải đi lễ Chúa Nhật và phải giữ kinh hôm kinh mai thật chu đáo. Khi đọc kinh tối xong, bà còn kèm theo hàng chục kinh khác và bắt buộc con dâu gốc ngoại giáo phải đọc thuộc lòng. Phần vì từ ngữ trong đạo rất khó hiểu và khó thuộc, phần thì kinh dài và xem chừng không sao thuộc nỗi. Chậm thuộc kinh, nên cô bị Mẹ chồng trách là làm biếng và phàn nàn rằng: có dâu người gốc ngoại giáo thật là khổ.
            Cô dâu ngoại đạo gốc Miền Nam nầy đã phát biểu rất chân thật với tôi: Chúa của những người nầy sao khó khăn mà rắc rối quá. Thú thật tôi nhớ 100% những từ mà cô dùng.
            Như vậy có nhiều Chúa khác nhau. Chúa của gia đình chồng, loại Chúa khó khăn và rắc rối vì phải thuộc kinh và phải đọc kinh dài dòng. Câu nói mộc mạc của cô làm tôi suy nghĩ. Thiên chúa đang ở cùng chúng ta là Thiên chúa nào? Có phải Thiên chúa mang tên Emmanuel? Có phải Thiên chúa sinh làm người để mang thân phận yếu hèn như chúng ta. Hay trong nhiều gia đình, Thiên Chúa thật khó khăn và rắc rối vì bị diễn tả qua hình ảnh một bà mẹ chồng khó tánh hay cằn nhằn và thích áp đặt những chuyện không cần thiết trên người khác.
            Yêu Chúa thật là làm cho Chúa thành dễ thương với mọi người. 
             Lm. Phêrô Trần thế Tuyên

 Dòng tộc


Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống côn chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.
Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - RVA)

Lectio: Chúa Nhật IV Mùa Vọng (A)
Chúa Nhật, 22 Tháng 12, 2013
Sự công chính của thánh Giuse đã cứu mạng Mẹ Maria
Mt 1:18-24


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng quyền năng sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa cho bài đọc:

Đa số các thành viên của các Cộng Đoàn Kitô hữu tại Pa-lét-tin và Syria, những người mà tác giả Mátthêu đã viết sách Tin Mừng cho, là những người Do Thái cải đạo.  Họ chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và tin tưởng vào Người.  Họ đã bị bách hại vì đức tin của họ.  Những người anh em Do-thái của họ đã nói với họ rằng:  “Các bạn Kitô hữu đang bị lừa dối!  Ông Giêsu không phải, và cũng không thể là Đấng Cứu Thế!”  Trong đoạn Phúc Âm mà chúng ta đang suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này, cho thấy hiển nhiên mối quan tâm của Mátthêu, ông muốn khẳng định niềm tin của cộng đoàn.  Cũng như thể ông muốn nói với chúng ta rằng:  “Các bạn không hề bị lừa dối!  Đức Giêsu chính thật là Đấng Cứu Thế!”  Mục đích của Mátthêu trong các chương một và hai của quyển Tin Mừng của ông là để thông báo cho người đọc về những điều liên quan đến Chúa Giêsu, Đấng mà hoạt động của Người sẽ được mô tả bắt đầu từ chương ba.  Trong hai chương đầu, Mátthêu giới thiệu về thân thế Chúa Giêsu, về Lề Luật mới, về một ông Môisen mới.  Trong phần gia phả (Mt 1:1-17) Mátthêu đã cho thấy rằng Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít và dòng dõi ông Abraham (Mt 1:1).  Trong những câu này (Mt 1:18-25), Mátthêu tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu với chúng ta qua câu chuyện giáng sinh của Người.  Ông kể lại chuyện ông thánh Giuse được cho biết tin về việc Đức Maria đã thụ thai như thế nào và các lời tiên tri sẽ được ứng nghiệm với sự ra đời của Đức Giêsu, cho thấy rằng Người là Đấng Cứu Thế đang được mong đợi. Trong khi đọc, chúng ta nên chú ý đến những gì đoạn Phúc Âm cho chúng ta biết về con người của Chúa Giêsu, đặc biệt là trong những gì liên quan đến ý nghĩa của hai cái tên mà Người nhận được.
   
b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:

Mt 1:18:  Một điều trái với lễ giáo phong tục trong cuộc đời Đức Maria
Mt 1:19:  Sự công chính của thánh Giuse
Mt 1:20-21:  Lời giải thích hoặc lời làm sáng tỏ bởi thiên thần Chúa
Mt 1:22-23:  Giai điệu trong Tin Mừng của thánh Mátthêu
Mt 1:24-25:  Sự vâng lời của thánh Giuse.

c)  Phúc Âm:

18 Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:  Mẹ Người là Maria, đính hôn với Giuse; trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. 19 Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà một cách kín đáo. 20 Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:  “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”
22 Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: 23 Này đây!  Một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình; 25 nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để cho Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

i)  Điều nào trong bài Tin Mừng này đã đánh động bạn nhất?  Tại sao?    
ii)  Theo lời Sứ Thần, Con Thiên Chúa sẽ được sinh bởi Đức Maria là ai?    
iii)  Theo Phúc Âm của Mátthêu, lời tiên tri nào trong Cựu Ước được thực hiện trên Chúa Giêsu?
iv)  Hai tên mà Con Trẻ Giêsu nhận lãnh là gì, và Thiên Chúa có ẩn chứa dự án gì trong những tên này?
v)  Thái độ của thánh Giuse được hiểu ra sao?  Thái độ này dạy cho chúng ta điều gì?
vi)  “Sự công chính” của thánh Giuse một cách chính xác bao gồm những điều gì?
vii)  Sự công chính của chúng ta ra sao, khi được so sánh với sự công chính của thánh Giuse?

5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề

a)  Bối cảnh của bài Phúc Âm:

Dựa theo gia phả của Chúa Giêsu (Mt 1:1-17) để lại cho chúng ta một câu hỏi.  Bên cạnh tên của bốn mươi hai tổ phụ của Chúa Giêsu (Mt 1:17), Mátthêu chỉ đưa ra tên bốn tổ mẫu: bà Tamar (Mt 1:3), bà Ra-kháp, bà Rút (Mt 1:4) và vợ ông Uria (Mt 1:6).  Bốn người phụ nữ thụ thai các con trai của họ bên ngoài phạm trù của sự tinh khiết hoặc ngoài vòng lễ giáo thời bấy giờ.  Vì thế, tình trạng của bốn người phụ nữ này thì bất thường trước Lề Luật Do-Thái.  Sự bất thường của bốn người tổ mẫu này thì hiển nhiên.  Chỉ cần đọc các văn bản của Cựu Ước nơi mà câu chuyện của họ được kể là đã đủ.  Và do đó, tại cuối phần gia phả dấy lên một câu hỏi:  “Và Đức Maria, hiền thê của thánh Giuse, người sinh ra Chúa Giêsu (Mt 1:16), có lẽ cũng phải chịu một số điều bất thường pháp lý chăng?  Đoạn Phúc Âm mà chúng ta suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này nói về điều này.

b)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:

Mt 1:18: Sự không đúng lễ giáo theo pháp luật trong Đức Maria
Đức Maria đã thụ thai trước khi về chung sống với ông Giuse, vị hôn phu của bà.  Người ngoài nhìn vào sự việc thì hẳn nhận biết được có điều bất thường và sẽ nói:  “Bà Maria, thật là quá quắt!”  Chiếu theo lề luật của Môisen, thì những tội này đáng bị ném đá cho chết (Đnl 22:20).  Để tránh điều lý giải sai lầm về các sự kiện này, Mátthêu đã giúp người đọc thấy một khía cạnh khác của việc thụ thai của Đức Maria: “Bà đã thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần”.  Dưới con mắt thế gian điều này dường như là một sự vi phạm Lề Luật, nhưng trong mắt của Thiên Chúa điều này thì hoàn toàn trái ngược lại!

Mt 1:19:  Sự công chính của thánh Giuse
Việc mang thai của Đức Maria xảy ra trước khi bà về sống với ông Giuse, không phải vì một lỡ lầm của con người, mà là vì thánh ý Thiên Chúa.  Thiên Chúa đã trêu ngươi về lề luật khiết tịnh trong cách để cho Đấng Cứu Thế được sinh ra giữa chúng ta!  Nếu thánh Giuse hành động theo như những ràng buộc của lề luật thời bấy giờ, thì ông đã phải tố cáo Đức Maria và có lẽ bà đã bị ném đá.  Mang thai trước hôn nhân là điều không đúng lễ giáo và không theo luật khiết tịnh, thì bà phải bị trừng phạt với bản án tử hình (Đnl 22:20).  Tuy nhiên, thánh Giuse, bởi vì ông là người công chính, đã không tuân theo những ràng buộc của luật khiết tịnh.  Sự công chính của ông thì cao cả hơn.  Thay vì đi tố cáo, ông muốn tôn trọng điều bí ẩn mà ông không hiểu và quyết định lìa bỏ Đức Maria trong sự kín đáo.  Sự công chính cao cả nhất của thánh Giuse đã cứu mạng Đức Maria và cả mạng sống của Chúa Giêsu.
Vì thế, Mátthêu gửi một sứ điệp quan trọng cho các cộng đoàn tại Pa-lét-tin và Syria.  Như thể nói rằng: “Hỡi anh em, điều gì sẽ xảy ra nếu việc tuân giữ nghiêm nhặt lề luật được thực hiện, điều mà những người Biệt Phái đòi hỏi nơi anh em!  Chúng sẽ giết chết Đấng Cứu Thế!”  Sau đó Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn những người Kinh-sư và Biệt Phái, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20).

Mt 1:20-21:  Lời giải nghĩa hoặc giải thích rõ của Thiên Thần Chúa và hai tên được đặt cho Con Trẻ của Đức Maria:  Giêsu và Emmanuel
“Thiên thần của Chúa” giúp khám phá ra chiều kích sâu thẳm nhất của đời sống và của các sự kiện. Người giúp nhìn thấu suốt các sự kiện và nhận thức được ơn gọi của Thiên Chúa mà với con mắt phàm trần của chúng ta không thể nhận biết được.  Thiên thần khiến cho thánh Giuse hiểu được rằng việc thụ thai của Đức Maria là kết quả việc làm của Chúa Thánh Thần.  Chính Thiên Chúa, trong ngày tác tạo trời đất, đã thổi hơi qua các vùng biển và đổ đầy với sức mạnh Lời Tạo Dựng của Chúa (St 1:2).  Việc sáng tạo mới được thực hiện trong Đức Maria.  Đó là sự khởi đầu của trời mới và đất mới, được loan báo bởi ngôn sứ Isaia (Is 65:17).  Con của Đức Maria nhận được hai tên: Giêsu và Emmanuel.  Giêsu có nghĩa là “Cứu-Chúa”.  Ơn cứu rỗi không xuất phát từ những gì chúng ta làm mà là từ Thiên Chúa, đúng ra là từ những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta.  Emmanuel có nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Trong sách Xuất Hành, khi giải thoát dân Do-Thái khỏi đất Ai-Cập, Thiên Chúa hiện xuống với những người dân bị áp bức (Xh 3:8) và phán bảo cùng ông Môisen:  “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12) và từ giây phút đó Chúa không bao giờ lìa bỏ dân Người.  Hai tên, Giêsu và Emmanuel, đưa ra sự chứng thực, và thậm chí vượt qua hẳn những hy vọng của người ta.

Mt 1:22-23:  Giai điệu Tin Mừng của Mátthêu
“Tất cả điều này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ”.  Câu này hoặc những câu tương tự khác giống như một giai điệu, những lời được lập lại nhiều lần trong Tin Mừng của Mátthêu (Mt 1:23; 2:5,15,17,23; 4:14; 8:17; 12:17; 13:14,35; v.v.).  Điều này cho thấy mục đích mà tác giả đã có trong lòng: để xác nhận với các độc giả gốc Do-Thái của ông sự thật rằng Chúa Giêsu chính thực là Đấng Mêssia đã được hứa xưa kia.  Trong Người, mọi lời hứa từ các ngôn sứ đã được ứng nghiệm.
Ở đây Mátthêu trích lời ngôn sứ Isaia:  “Người trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ là Emmanuel” (Is 7:14).  Danh hiệu Emmanuel không chỉ đơn thuần là một tên gọi cho chúng ta thấy ý nghĩa tên gọi của Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu là bằng chứng rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta. Tên của Con Trẻ là Giêsu (Mt 1:25).

Mt 1:24-25:  Sự vâng lời của thánh Giuse
Khi tỉnh dậy, thánh Giuse đã thực hiện như lời Thiên Thần Chúa truyền và tiếp nhận Đức Maria vào nhà ông.  Và thánh Mátthêu tiếp tục nói rằng ông Giuse đã không ăn ở với Đức Maria, để xác nhận rằng Chúa Giêsu được sinh ra từ Chúa Thánh Thần.

c)  Phần phụ chú:


Chìa khóa cho sách Tin Mừng của Mátthêu – Phúc Âm của Mátthêu được gửi tới cho cộng đoàn người Do Thái cải đạo, những người sống trong một cuộc khủng hoảng sâu xa về căn tính liên quan đến quá khứ là người Do Thái của họ.  Vào năm 65 sau Công Nguyên khi cuộc nổi dậy chống lại người Rôma bùng nổ, các Kitô hữu gốc Do-Thái đã không tham gia và họ lìa bỏ Giêrusalem.  Những người Biệt Phái cũng làm như vậy.  Sau khi thành Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70, những người Biệt Phái tái tổ chức những người đã ở lại và họ lập thành hàng ngũ, luôn trong một cách quả quyết hơn, chống lại những các Kitô hữu, những người mà sau cùng mà họ đã ra vạ tuyệt thông.  Vạ tuyệt thông này đã làm cho vấn đề về căn tính thậm chí còn tồi tệ hơn.  Bấy giờ, chính thức bị vạ tuyệt thông, họ không còn có thể đi đến đi đến Hội Đường của họ, hay đến các Giáo-sĩ rabbi của họ.  Và một vấn nạn đã dấy lên trong số họ:  Những lời hứa được thuộc về ai: chúng thuộc về Hội Đường hay thuộc về Giáo Hội?  Ai chính là Dân của Chúa, họ hay là chúng ta?  Đức Giêsu có thật là Đấng Cứu Thế không?  Mátthêu viết quyển Tin Mừng của ông cho cộng đoàn này.  Tin Mừng của Mátthêu có thể được định rõ bởi ba chữ sau đây:
i)  Tin Mừng của sự an ủi cho những ai bị vạ tuyệt thông và bị ngược đãi bởi người Do-Thái anh em của họ là những người không chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Chúa Kitô); nó giúp họ vượt qua cơn chấn thương hoặc kích động của sự chia lìa.
ii)  Tin Mừng của sự mặc khải: Nó cho thấy Chúa Giêsu là Đấng Mêssia thật sự, Đấng Mêssia mới, Đấng mà trong đó hội đủ tất cả mọi lịch sử của Cựu Ước với những lời hứa của nó.
iii)  Tin Mừng của sự thực hành mới: trong đó mô tả sự thực hành của Chúa Giêsu, và cho thấy làm thế nào để đạt được một nền công lý mới, cao cả hơn so với công lý của những người Biệt Phái.

Điều này xảy ra để nó có thể được thực hiện – bằng ý nghĩa của những chữ này được lặp lại nhiều lần trong quyển Tin Mừng của ông, Mátthêu đã đụng chạm đến điểm căng thẳng lớn nhất giữa các Kitô hữu và người Do Thái.  Bắt đầu từ Kinh Thánh, họ nói rằng:  “Ông Giêsu không phải và không thể nào là Đấng Mêssia!”  Cũng bắt đầu từ Kinh Thánh, Mátthêu đã trả lời và khẳng định:  “Đức Giêsu chính thực là Đấng Mêssia!”

Việc mang thai của Đức Maria – Mátthêu cũng như Luca dẫn trích lời ngôn sứ Isaia “Một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7:14).  Nhưng có một sự khác biệt. Thánh Luca đặt Đức Maria tại tâm điểm và cho dấu hiệu của sự trinh tiết thì quan trọng hơn (Lc 1:31). Mátthêu đặt thánh Giuse làm trung tâm và chú ý đến tầm quan trọng ý nghĩa của tên Emmanuel hơn.

Giấc mộng của thánh Giuse – Thiên Thần Chúa hiện đến cùng thánh Giuse trong giấc mơ và giúp ông hiểu thấu.  Với sự trợ giúp của Thiên Thần Chúa, thánh Giuse thành công trong việc khám phá ra việc làm của Thiên Chúa trong sự kiện này, mà theo định kiến của thời bấy giờ, dường như chỉ là hoa trái của sự lầm đường và của tội lỗi.  Thiên thần có nghĩa người đưa tin.  Thiên Thần Chúa mang tin đến và mang sự trợ giúp đến để nhận thức được công việc của Thiên Chúa trong đời sống.  Ngày nay có nhiều Thiên Thần Chúa hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống. Có khi họ làm việc trong lúc chúng ta ngủ, trong các giấc chiêm bao của chúng ta, những lúc khác trong các buổi họp, trong các cuộc đàm luận và trong các cuộc học hỏi Kinh Thánh, trong các sự việc, v.v.  Có rất nhiều Thiên Thần, rất nhiều Thiên Thần!

6.  Cầu Nguyện:  Thánh Vịnh 72 (71): 

Danh Thánh Người tồn tại đến muôn đời!
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!

Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.

Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.

Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.

Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.

Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA
là Thiên Chúa Israel,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
Amen! Amen!

7.  Lời nguyện kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét