25/12/2013
LỄ GIÁNG SINH
Lễ
Rạng Đông
BÀI ĐỌC I: Is 62, 11-12
"Này đây Đấng
Cứu Độ ngươi đến".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Đây
Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion:
Này đây Đấng Cứu Độ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp
trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân
thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 96, 1 và 6.
11-12
Đáp:
Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
Xướng:
1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời
xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. -
Đáp.
2)
Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người
hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người! - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Tt 3, 4-7
"Chúa đã cứu độ
chúng ta theo lượng từ bi Người".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Khi
Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không
phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người,
mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần,
Đấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ
chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng,
chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó
là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 14
Alleluia,
alleluia! - Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho
người thiện tâm. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 15-20
"Các mục tử đã
gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang
Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi
họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ.
Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người
nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn
Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử
trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng
như lời đã báo cho họ. Đó là lời Chúa.
Lễ
Ban Ngày
BÀI ĐỌC I: Is 52, 7-10
"Khắp cùng bờ
cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Đẹp
thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng,
người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng
của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt
họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng,
hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem.
Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ
cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4. 5-6
Đáp: Khắp nơi bờ cõi địa
cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
Xướng: 1) Hãy ca mừng
Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người
đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Đáp.
2)
Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công
minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. -
Đáp.
3)
Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể
địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Đáp.
4)
Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng
với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là
Vua. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 1, 1-6
"Chúa đã phán
dạy chúng ta qua người Con".
Trích
thư gửi tín hữu Do-thái.
Thuở
xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta
qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua
Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà
Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng
bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét
sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Đấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm.
Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các
thiên thần bấy nhiêu.
Phải,
vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng:
"Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con"? Rồi Chúa lại
phán: "Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta". Và khi ban Con Một
mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: "Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ
lạy Người!" Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
Alleluia,
alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ
lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 1-18 {hoặc
1-5. 9-14}
"Ngôi Lời đã
hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt
đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ
nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn
là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ.
Mọi
vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác
thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống
là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp
nhận sự sáng.
Có
một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng
minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông
không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn
có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người
vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận
biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không
tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ
được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những
người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của
đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và
Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi
đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như
của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan
làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Đây là Đấng tôi tiên báo. Người đến
sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Chính
do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì
Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu
Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong
Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta. Đó là lời Chúa.
______________________________
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14
Bắt
đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ
nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn
là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ.
Mọi
vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác
thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống
là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp
nhận sự sáng.
Vẫn
có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người
vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận
biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không
tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ
được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những
người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của
đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và
Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi
đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như
của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Đó là lời Chúa.
Suy niệm : ÁNH
SÁNG RẠNG NGỜI – Ga 1,1-14
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong
đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của
người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đàng sau mình. Qua hình ảnh
đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sức thâm thúy: “Đây là một
minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết
người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới
của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
***
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
***
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Ánh
sáng tình yêu
Thiên Chúa là đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, cứu chuộc và yêu thương họ còn hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Thiên Chúa là đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, cứu chuộc và yêu thương họ còn hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Ánh
sáng chân lý
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết:“Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết:“Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Ánh
sáng ban nguồn sống.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Ánh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
Mừng lễ Giáng Sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho Ánh Sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,20).
***
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Ánh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
Mừng lễ Giáng Sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho Ánh Sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,20).
***
Lạy
Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời. Xin cho chúng con luôn trở nên ngọn đèn rọi
sáng giữa đêm đen. Xin dạy chúng con biết tích cực lan tỏa ánh sáng đến các tâm
hồn, để Ánh sáng rạng ngời của Chúa luôn luôn tỏa sáng. Amen.
.
Trích “Như Thầy Đã Yêu” by Thiên Phúc
Trích “Như Thầy Đã Yêu” by Thiên Phúc
Một Hài Nhi Ðã Sinh Ra Cho Ta
Trong thánh lễ nửa đêm, phụng
vụ đã cho chúng ta được nghe tiếng êm ái tốt lành của Chúa Cha nói với chúng ta
ở trong Ngài: "Hỡi con, hôm nay Ta đã sinh ra Con". Trong thánh lễ
ban ngày bây giờ, phụng vụ lại muốn giúp chúng ta đi vào tinh thần của Ngôi Con
mới sinh ra làm người để lên tới Ngôi Cha, đáp lại tâm tình thắm thiết của
Người trong hành vi đã muốn sinh ra chúng ta làm con.
Thật
vậy, ngay từ bài ca nhập lễ, chúng ta đã được mời gọi chiêm ngưỡng Hài nhi vừa
sinh. Không tầm thường như ta thoạt nhìn đâu. Người Con Ðức Mẹ vừa sinh, bọc
trong khăn, nằm trong máng cỏ có một định mệnh siêu việt. Vương quyền đã đặt
trên vai Người và danh hiệu Người thật là Thiên Chúa. Như vậy, chính phụng vụ
ngày lễ Giáng sinh mời ta phải biết vượt qua những cái bề ngoài của hang đá
máng cỏ, không được nhìn Hài nhi bằng con mắt tầm thường, nhưng phải có con mắt
của tiên tri Isaia, phải biết nhìn con trẻ vừa chào đời trong sứ mệnh cuối cùng
sau này của Người. Người là Con Ðấng Tối Cao, Ngài sẽ ngự trị không những trên
ngai hoàng Ðavít mà còn trên muôn dân muôn nước, hai vai Ngài đã mang nặng
vương quyền thống trị hoàn vũ. Việc các nhà đạo sĩ đến thờ lạy chỉ là một dấu
hiệu báo trước nhạt nhẽo thôi. Cái ngày mà chân tướng đích thật của Hài nhi sẽ
lộ ra theo đúng như Isaia đã cảm thấy lờ mờ, chính là ngày mà con người sẽ ngự
xuống trên mây trời, có hào quang chiếu tỏa; Ngài sẽ phân xử muôn dân và thiết
lập Nước Người duy nhất trong hoàn vũ. Không sức đối nghịch nào sẽ còn có nữa
và ngay đến bóng dáng tử thần cũng phải qua đi.
Phải,
lời của tiên tri Isaia đưa ta đến tận cùng trái đất và lịch sử nhân loại, không
phải để ta bỏ quên thân phận hiện nay của Hài nhi, nhưng để soi sáng cho chúng
ta hiểu đúng những biểu lộ hiện thể của Người Con Thiên Chúa vừa giáng sinh làm
người. Không có cái nhìn đi trước đó, thật khó có thể hiểu được giá trị đích
thực trong thái độ của con trẻ thành Bêlem. Nhưng được ánh sáng tiên tri ấy soi
chiếu, những thái độ hiện thể kia nổi lên sáng ngời.
Ta
sẽ thấy rằng dù ngang bằng Thiên Chúa, Ðức Kitô vẫn không ngại hạ mình mặc lấy
thân phận loài người, để thể hiện lòng hiếu thảo của mình trong đời sống nhân
loại, để nhân loại chúng ta biết cư xử thế nào như người Con Thiên Chúa. Chúng
ta cứ đọc Phúc Âm mà xem: Có lúc nào Ðức Kitô không tỏ ra mình là Người Con vừa
ý Ðức Chúa Cha mọi đàng không? Ngài không giáng thế như một ngôi sao băng từ
trên trời xuống: Người cũng không dùng đường lối khác thường để hiện ra như một
người trưởng thành; Ngài đã muốn sinh ra trong thân phận một hài nhi để sống
tất cả cuộc đời của người làm con. Sau này có lần Ngài sẽ bảo môn đệ, này hỡi
đàn con nhỏ, các con đừng sợ vì chúng con có một Cha ở trên trời. Ngài không
muốn cho chúng ta nhớ lại thời Ngài còn là một hài nhi bé nhỏ ư?
Tất
cả, Ngài phó mặc cho chương trình củ Chúa Cha. Ngài đâu có sợ khi Hêrôđê bực
tức giận dữ xua quân đến Bêlem. Ngài cứ nằm yêu trong cánh tay ấp ủ của thân
mẫu và đúng hơn trong sự quan phòng của Chúa Cha. Thái độ tín nhiệm ấy không có
tính cách bỏ mặc như ta có thể nghĩ. Trẻ Yêsu hồi lên 12 đã làm cho thân phụ
thân mẫu tưng hửng khi cậu nói: Cha mẹ không biết tôi phải lo việc Cha tôi ư? Gớm
thật cậu bé bề ngoài có vẻ sống bình thường đó, lại hằng nung nấu tâm hồn thực
hiện kế hoạch của Ngôi Cha. Sau này có lần Ðức Kitô sẽ dẫn một trẻ em đến trước
mặt các môn đệ để bảo các ông: nếu các ông không trở nên như con trẻ này, các
ông không được vào Nước Trời. Có ông nào lúc đó nghĩ đến việc ngày trước chính
Ngài đã sống như con trẻ không? Và câu kia Ngài nói cũng chỉ cốt để ta nghĩ lại
việc đó, để ta đi vào mầu nhiệm niên thiếu của Ngài hầu biết sống tinh thần làm
con.
Tinh
thần ấy lớn lên Ngài vẫn tiếp tục... Cuộc đời truyền giáo của Ngài là một mạc
khải vĩ đại về Ðức Chúa Cha. Không nói đến giáo lý của Ngài về Chúa Cha nữa,
chúng ta không thể không cảm động khi thấy bất cứ lúc nào Ngài cũng biểu lộ một
tình con sâu đậm. Lúc đi đường gặp một bông hoa đẹp, lòng Ngài dạt dào lòng
biết ơn Chúa Cha đã dựng nên tạo vật tốt đẹp như thế, và khi thấy một người tàn
tật lâu năm, Ngài không thể không động lòng trắc ẩn đối với một người con của
Chúa Cha, nên đã chữa lành y để y ca tụng Thiên Chúa, mặc cho bọn Biệt phái ghi
thêm một điểm nữa vào sổ đen để mai ngày đọc to trong tòa án. Ngài không bao
giờ muốn tỏ mình nhưng chỉ muốn tỏ cho người ta thấy Chúa Cha, nên khi thấy mọi
người chăm chú nhìn mình khi đứng trước mộ Lazarô, Ngài đã ngước mắt nhìn lên
trời để như bảo mọi người nhìn lên Chúa Cha và coi mọi việc sắp làm đây là viêc
của Chúa Cha làm qua bàn tay của Ngài... Chúng ta có thể kể mãi, vì như vậy
phải nói lại tất cả Phúc Âm. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua những giây phút
cuối cùng trong đời Ngài, những phút mà tác giả Yoan đã gọi là Giờ của Ngài,
giờ để Ngài làm những công việc ý nghĩa nhất. Ngài đã tâm sự với các môn đệ về
Chúa Cha, Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu, Ngài đã bằng
lòng chịu đau khổ vì thánh ý Chúa Cha... để cuối cùng ở trên Thánh giá Ngài
trút hơi thở như một người con thiu ngủ trong vòng tay êm ái của người Cha.
Cuộc
đời Chúa Cứu Thế quả thực đã là cuộc đời của người Con, người Con đẹp ý Cha mọi
đàng, nên dĩ nhiên ai cũng muốn kết luận chúng ta muốn sống đúng phận sự làm
con Thiên Chúa phải bắt chước tinh thần và thái độ của Ðức Kitô - kết luận thật
đúng và thật dễ; nhưng làm thế nào để thể hiện được kết luận ấy mới là việc khó
và cần được trả lời.
Ở
trên đã nói, chân tướng đích thực của Chúa Con chỉ lộ ra thực sự trong ngày
quang lâm tái giáng sau này. Nhưng chân tướng đó đã không kiện toàn trong ngày
Phục sinh là gì? Trong ngày đó, Ðức Kitô đã toàn thắng sự chết là thù địch cuối
cùng. Ngài thật đã là vua vinh hiển. Ngài đã là Con Ðức Chúa Cha trong tất cả
những cái gì ở nơi Ngài. Trước đây từ ngày Giáng sinh cho đến khi chịu chết, vì
chúng ta Ngài đã chấp nhận một lối sống mà bề ngoài còn có những cái chưa được
thần linh hóa. Nhưng khi đi qua sự chết Ngài đã giũ bỏ lại mọi vẻ hư nát của
người con. Và lúc Phục sinh, Ngài thật sự đã trở về cùng Chúa Cha, đã là người
Con hoàn toàn của Chúa Cha. Ngài thật đã là Người Con - như lời kinh nhập lễ
nói - Vai mang vương quyền và danh hiệu là Thiên Chúa.
Thế
mà chính thân phận làm con này, Ngài lại muốn thông ban cho chúng ta. Nếu ta
bằng lòng kết hợp với Ngài trong mầu nhiệm tử nạn, Ngài sẽ đưa ta vào mầu nhiệm
phục sinh của Ngài. Ta sẽ là chi thể trong cơ thể phục sinh của Ngài; ta sẽ
được Chúa Cha gọi làm con trong Người Con đã phục sinh từ cõi chết. Vai ta cũng
được mang vương quyền, vì có gì là không ở dưới những người con của Thiên Chúa?
Thành ra sống đời làm con của ta, không còn phải là trở lại cuộc đời làm con
của Ðức Kitô trước ngày phục sinh, nhưng là phải sống đúng tâm trạng của Ðức
Kitô phục sinh đang sống ở trên trời.
Chúng
ta không thể và không phải bắt chước hài nhi ở Bêlem mà sống: thân phận chúng
ta bây giờ đã khác với thân phận Ngài ngày trước. Nhưng bất kỳ ai, ở bất cứ
thân phận nào, vẫn có thể và vẫn phải sống tinh thần làm con của Ðức Kitô phục
sinh đang sống ở trong ta qua bí tích Thánh Thể. Tinh thần ấy là tinh thần đã
từ bỏ những gì hư nát để sống hoàn toàn cho Thiên Chúa. Ðức Kitô đã đi qua và
đã dùng sự chết để trở thành người con hoàn toàn của Chúa Cha, thì người tín
hữu muốn sống đúng địa vị con Thiên Chúa cũng không được dừng lại thụ hưởng say
mê hay tôn thờ những cái hư nát, một phải đi qua, phải dùng để đi về nhà Cha.
Tiền tài, danh vọng, xác thịt, thế gian, tất cả đều là những cái hư nát: chúng
ta không phủ nhận, nhưng chỉ dùng như không dùng để tâm hồn không bị cản trở
bay về tình Cha.
Chính
Ðức Kitô đã thể hiện sứ ngôn Isaia trong lúc từ bỏ đời này để về cùng Chúa Cha.
Ngày Ngài giáng sinh, Isaia viết: một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, vai mang
vương quyền... Suốt cuộc đời trần gian Ngài đã từ chối danh dự làm vua, mãi đến
lúc đứng trước tòa Philatô Ngài mới tuyên bố mình sinh ra để làm vua, và cũng
chính hôm ấy, Ngài tuyên bố không úp mở Ngài quả thật là Con Thiên Chúa.
Như
vậy, lời sứ ngôn Isaia chỉ thể hiện trong mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh. Lời ấy
được nhắc lại hôm nay để mời ta đi vào mầu nhiệm Thánh lễ, là mầu nhiệm mời ta
thể hiện ơn thiên triệu trở thành Con Thiên Chúa trong Ðức Kitô.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Ngày 25 tháng 12, Lễ
Giáng Sinh
Bài đọc: Isa 52:7-10; Heb
1:1-6; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa họat động trong lịch sử con người.
Nhiều
người trong chúng ta dễ dàng bị thuyết phục bởi câu nói xem ra rất chí lý, “đạo
nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy con người làm điều lành tránh điều ác!” Từ
đó, nhiều người đưa đến kết luận, ai theo đạo nào cũng được. Nếu chúng ta chỉ dựa
vào đạo lý để tin vào các thần, sẽ có rất nhiều thần trong thế giới này; nhưng
những thần này có làm lợi gì cho chúng ta đâu? Có những vị thần do trí tưởng tượng
của con người tạo nên, có những vị thần do con người tự nhận, có những vị thần
do con người phong chức cho; đâu là Vị Thần đích thực và là Người điều khiển thế
giới này? Một trong những tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra là dựa vào giòng lịch
sử của con người để tìm hiểu, kiểm chứng, và xác nhận ảnh hưởng và sự can thiệp
của Vị Thần này vào đời sống nhân lọai.
Trong
suốt Mùa Vọng qua, và trong các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của
Vị Thần đích thực này chính là Thiên Chúa. Ngài không phải là một vị thần sống
xa cách và không quan tâm gì đến cuộc sống của dân chúng; trái lại cả Ba Ngôi
Thiên Chúa đều sống mật thiết và quan tâm đến mọi khía cạnh của con người suốt
giòng lịch sử: từ khi tạo dựng cho đến Ngày Cánh Chung. Trong Bài đọc I,
Tiên-tri Isaiah cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa vào cuộc sống của dân trước,
đang, và sau thời gian Lưu Đày. Trong Bài đọc II, Tác giả của Thư Do-Thái cho
thấy 2 cách can thiệp khác nhau của Thiên Chúa: thuở xưa Ngài phán dạy qua các
Tiên-tri; thời nay Ngài dạy dỗ con người qua chính Người Con Nhập Thể. Điều này
cũng đã được Tiên-tri Isaiah và Jeremiah loan báo trước: “Mọi người sẽ được dạy
dỗ bởi chính Thiên Chúa” (Isa 54:13, Jer 31:33, Jn 6:45). Trong Phúc Âm, Thánh
Gioan nhìn thấy vai trò của Ngôi Hai ngay từ ban đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng
con người; và vai trò của Người trong Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Chính Người
Con này đã nhập thể để ở với con người, để yêu thương dạy dỗ, và để hiến mình
thành của lễ hy sinh đền tội cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1.1/
Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước
chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố
ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị."
Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được
thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo
3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu
độ:
(1)
Công bố bình an: Bình
an là một trong những chữ được Tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải
là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con
người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.
(2)
Loan tin tốt lành: Tin
Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người:
tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3)
Công bố ơn cứu độ: Ơn
Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng
Dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội
lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên
Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của
Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai
trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/
Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: “Hỡi Jerusalem điêu
tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người,
và cứu chuộc Jerusalem. Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần
thánh của Người: người bốn bể rồi ra nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta.” Sự kiện Chúa giải phóng dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại
Jerusalem, là một phép lạ mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh
quân sự, không bằng sức cố gắng của dân Do-Thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của
Cyrus, Vua Ba-Tư vào Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội
bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-Thái còn đang dưới
ách đô hộ của Đế-quốc Rôma.
2/
Bài đọc II:
Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
2.1/
Thánh Tử cao trọng hơn các tiên-tri: Trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, những gì Thiên Chúa muốn được
mặc khải qua hai giai đọan:
(1)
“Thời xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua
các ngôn sứ.”
Các tiên-tri, vì khả năng giới hạn, không thể lĩnh hội một lần; nên Thiên Chúa
phải mặc khải nhiều lần và qua nhiều người. Mỗi thời đại có những vấn đề khác
nhau, nên mặc khải của các tiên tri cũng khác nhau, chẳng hạn: Tiên-tri Amos
chú trọng đến công bằng xã hội; Tiên-tri Isaiah chú trọng đến việc sửa dạy để
thanh luyện dân chúng; Tiên-tri Hosea chú trọng đến sự trung thành của Thiên
Chúa và sự bất trung của dân. Các tiên-tri chỉ biết một khía cạnh về Thiên
Chúa, không một tiên tri nào biết tất cả các khía cạnh của Thiên Chúa. Các tiên
tri cũng dùng các cách khác nhau để mặc khải: tuyên sấm (Amos, Isaiah), hành động
như đóng kịch (Jeremiah).
(2)
Thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta trực tiếp qua Thánh Tử: Mặc khải do
Thánh-Tử hòan hảo hơn tất cả mặc khải của các tiên-tri, vì Thánh-Tử biết rõ tất
cả những gì xảy ra nơi Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu. Các tiên-tri là những bạn
hữu của Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu là Người Con của Thiên Chúa. Ngài không chỉ
biết một phần sự thật như các tiên tri; nhưng nơi Ngài ẩn chứa tất cả sự thật.
Qua Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái không chủ ý khinh
thường các tiên tri; nhưng muốn làm nổi bật vai trò của Thánh Tử.
Người
Do Thái quan niệm họ đang sống giữa hai thời đại: thời hiện tại và thời cánh
chung; thời hiện tại hòan tòan xấu và thời tương lai là thời huy hòang của Đức
Chúa. Giữa hai thời đại là Ngày của Đức Chúa đến và Đức Kitô là Người bắt đầu
triều đại của Thiên Chúa.
2.2/
Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần.
1/ Sự cao trọng của Thánh Tử:
C.J. Vaughan chỉ ra
6 điều quan trọng liên quan đến Đức Kitô:
(1)
Vinh quang nguyên thủy của Thiên Chúa thuộc về Đức Kitô: “Người là phản ảnh
vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Vinh quang của
Thiên Chúa gồm chứa không trong sự đánh phạt con người hay giảm họ xuống hàng
tôi tớ, nhưng trong phục vụ, yêu mến, và chết cho con người.
(2)
Vương quốc thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn
loài.” Các tác giả Tin Mừng không bao giờ nghi ngờ sự chiến thắng thuộc về Đức
Kitô; đơn giản vì Ngài là Con Thiên Chúa. Khi mọi việc hòan tất, Ngài sẽ trao
vương quốc lại cho Thiên Chúa.
(3)
Công cuộc tạo dựng cũng thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ.” Thiên
Chúa tạo dựng bằng Lời “Hãy có!” tức thì mọi vật liền có.
(4)
Công việc quan phòng vũ trụ cũng thuộc về Đức Kitô: “Người là Đấng dùng
lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.” Thiên Chúa không những dựng nên vũ
trụ, nhưng còn quan phòng điều khiển nó theo một trật tự hòa điệu. Ngài điều
khiển nó theo sự khôn ngoan, mà Ngôi Lời là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(5)
Công cuộc cứu chuộc là do Đức Kitô: Bằng cái chết, Ngài gánh tội cho con người; bằng sự
hiện diện liên tục với con người, Ngài giải phóng con người khỏi tội.
(6)
Cuộc vinh thắng khải hòan cũng thuộc về Đức Kitô: “Sau khi đã tẩy trừ
tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.” Theo tác giả Sách
Do-Thái, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa để làm Trạng-sư bênh vực cho con người.
2/ Thánh Tử cao trọng hơn
các thiên-thần: Truyền
thống Do-Thái tin thiên thần là các sứ giả (aggeloi, Hy-Lạp, và mal’akim,
Do-Thái) của Thiên Chúa: các thiên-thần có nhiệm vụ trao mệnh lệnh của Thiên
Chúa cho con người và tường thuật những gì con người làm hay cầu xin lên Thiên
Chúa. Quan hệ trực tiếp giữa Thiên Chúa và con người không thể xảy ra; nếu con
người nhìn thấy Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ phải chết (Acts 7:53, Gal 3:19). Vì
thế, dễ dàng cho người Do-Thái chấp nhận các thiên thần hơn là chính Thiên
Chúa. Tác giả Thư Do-Thái muốn nhấn mạnh Đức Kitô không phải là một trong số
các thiên thần; nhưng cao trọng hơn các thiên thần bội phần. “Danh hiệu Người
được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại
trổi hơn họ bấy nhiêu. Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần
nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con; hoặc là: Ta sẽ là Cha
Người, và chính Người sẽ là Con Ta. Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người,
Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.”
3/
Phúc Âm:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”
3.1/
Sự hiện hữu và vai trò của Ngôi Lời:
(1)
Ngôi Lời hiện hữu từ khởi thủy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về
Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên
Chúa.” Từ ngữ “Ngôi Lời” có lịch sử trong cả Do-Thái và Hy-Lạp. Cả hai lịch sử
đều cho “Lời” là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là trí tuệ của Ngài. Thánh sử
Gioan dùng từ Hy-Lạp để nói về Đấng Thiên Sai của Do-Thái, cho người Hy-Lạp hiểu.
Nếu Ngôi Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngôi Lời luôn hiện hữu với Thiên
Chúa từ khởi thủy.
(2)
Vai trò của Ngôi Lời trong việc tạo dựng vũ trụ: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo
thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo
thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” Nếu Ngôi Lời
là trí tuệ của Thiên Chúa, cái gì có trong trí tuệ thì sẽ có; cái gì không có
trong trí tuệ thì sẽ không có. Sự sống và Ánh sáng là hai chủ đề chính trong
Tin Mừng Gioan, và có liên quan mật thiết với nhau. Sự sống không chỉ thuần túy
thể lý, nhưng mở rộng tới sự sống đời đời. Chỉ có Ngôi Lời có khả năng đem sự sống
đời đời này cho con người.
(3)
Ngôi Lời là ánh sáng: “Ánh
sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một
người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng
về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông
đến để làm chứng về ánh sáng.” Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế
gian; ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống”
(Jn 8:12). Bóng tối đối ngược với ánh sáng, và con người cần ánh sáng xua tan
bóng tối để con người có thể nhìn thấy; nhưng cũng có những con người muốn ở
trong bóng tối nên muốn diệt trừ ánh sáng, vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những tội
lỗi của họ cho người khác nhìn thấy.
3.2/
Phản ứng của con người: “Ngôi
Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” Ánh sáng của
Ngôi Lời chính là sự thật Ngài mang từ Thiên Chúa đến cho con người. Đứng trước
sự thật, Thánh-sử Gioan tường thuật 2 phản ứng chính:
(1)
Không nhận biết và không tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà
có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận.” Con người ít nhất hai lần từ chối Ngôi Lời: Lần thứ nhất, Thánh
Phaolô đồng ý với Gioan khi tố cáo: “Con người phải nhận biết Thiên Chúa qua những
gì Thiên Chúa tạo dựng, nhưng họ đã không nhận ra Thiên Chúa” (Rom 1:19-20).
Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời, con người chẳng nhận ra Ngôi Lời cũng chẳng
nhận biết Thiên Chúa. Lần thứ hai là qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, rất nhiều người đã
nhìn thấy Ngôi Lời, nhưng vẫn từ chối tiếp nhận Ngài.
(2)
Phần thưởng dành cho những ai tiếp nhận Người: “Còn những ai đón nhận, tức là
những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ
được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc
do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.” Phần thưởng trọng đại
dành cho những ai tin vào Ngôi Lời là họ trở thành con Thiên Chúa; và được hưởng
tất cả mọi ơn lành dành cho người con.
3.3/
Những hồng ân Ngôi Lời ban cho con người: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng
ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha
ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật… Quả thế, Lề Luật đã được
Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà
có.”
(1)
Ân sủng: “Từ
nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.”
Đức Kitô, tuy trong thân xác con người, nhưng chứa đựng tất cả khôn ngoan, uy
quyền, tình thương, và sự bình an của Thiên Chúa (như các tên gọi của Ngài
trong Thánh Lễ Nửa Đêm). Bất cứ ai có được Ngài, là hưởng được tất cả những gì
Ngài có. Ngài là sự tòan hảo của Thiên Chúa, và Ngài ban cho con người đời sống
thần linh của Ngài.
(2)
Sự thật: “Thiên
Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Người Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng
hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” Ngôi Lời mặc
khải cho con người biết sự thật về Thiên Chúa và tất cả các ý định của Ngài.
Khi Philip xin Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa, Đức Kitô bảo ông: “Ai đã xem thấy
Thầy là đã thấy Cha” (Jn 14:9).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Lịch sử rất quan trọng trong việc hiểu biết và củng cố niềm tin của chúng ta
vào Thiên Chúa. Người không biết lịch sử sẽ dễ dàng chạy theo những niềm tin mơ
hồ. Nguy hiểm của những niềm tin này là con người không đạt được mục đích của đời
mình.
-
Lịch sử của Do-Thái quan trọng cho niềm tin của các Kitô hữu, vì Thiên Chúa đã
chọn họ làm Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta cần học hỏi lịch
sử của họ qua các Sách Cựu Ước để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho
con người.
-
Theo Lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã dùng những cách thức khác nhau để dạy dỗ con
người: thời Cựu Ước, Ngài dùng các tiên-tri để nói thay và dạy dỗ con người; thời
Tân-Ước, Thiên Chúa cho Người Con nhập thể để dạy dỗ và mặc khải rõ ràng Kế Họach
Cứu Độ cho con người.
-
Mọi người chúng ta đều cần được dạy dỗ bởi chính Người Con này. Chúng ta phải
có Đức Kitô trong cuộc đời để Ngài soi sáng, dạy dỗ, ban ơn, và chỉ đường cho
chúng ta về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH
MINH TIÊN, OP.
Giáo Lý Phúc Âm Lễ Giáng Sinh ban ngày,
Năm ABC, ngày 25.12
LỄ GIÁNG SINH BAN NGÀY,
NĂM ABC.
Sách Ngôn Sứ Isaia
52.7-10; Thư Thánh Phaolô Tông Đồ gửi Giáo Đoàn Do Thái 1.1-6
và Phúc Âm
Thánh Gioan 1.1-18
III. Giáo Huấn P.Â.:
Chúa Giêsu sinh làm con người trong thân phận một hài nhi đích thực là Con
Thiên Chúa, là Alpha và Omega. Ngài là Thuỷ Chung.
Buổi đầu sáng tạo, đêm
tối bao trùm. Ánh sáng được tạo thành trước tiên. Chúa Giêsu Giáng Sinh là Lời
tạo thành, là ánh sáng khai mở cho một công trình sáng tạo mới.
Thiên Chúa sáng tạo, sinh
dựng và cứu độ. Mọi hiện hữu hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa.
IV. Vấn nạn
P.Â.
Công
Nguyên
Công nguyên được định nghĩa là Công Lịch Kỷ Nguyên, được dịch từ Anno Domini
trong tiếng Latinh. Anno Domini là Năm của Chúa, hiểu là Năm Chúa Giáng Sinh.
Không rõ tại sao trong tiếng Việt lại là Công Nguyên mà không bỏ từ CHÚA trong
kiểu dịch nầy. Phải chăng nó cũng giống từ Red Cross, chữ thập đỏ. Dùng chữ
“thập” để tránh từ Thánh Giá chăng? Hay cũng có người cho rằng hình thánh giá
có hai gạch giống như chữ thập trong tiếng Hán?
Nhưng chữ thập trong tiếng Hán không hề mang ý nghĩa cứu độ của Thánh Giá mà
Henry Dumant và đồng bạn, những bác sĩ người Công Giáo Thuỵ Sĩ đã thành lập năm
1863 ở Geneve để cứu những thương binh ngoài chiến trường.
Nhưng rồi muốn sao thì muốn, ai cũng phải hiểu Công Nguyên là là Năm Chúa Giáng
Sinh. Chúa sinh làm con người trong lịch sử nhân loại. Chúa Giáng Sinh bắt đầu
kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo. Năm Chúa Giáng Sinh là năm 1 trong cách tính nhưng
đúng là năm Zêro, năm phân chia lịch sử nhân loại thành hai giai đoạn trước
Chúa Giáng Sinh (Before Christ) và sau Chúa Giáng Sinh (After Christ) Nếu coi
ai đó như Voltaire, văn hào của Pháp chủ trương vô thần, không tin có Thiên
Chúa thì cũng phải nói là Voltaire sinh năm 1694 sau Chúa Giáng Sinh. Nên lòng
vòng rồi cũng phải nhìn nhận là Công Nguyên hay kỷ nguyên hay thời đại Kitô
giáo (Christian era), cũng như Computer era (thời vi tính) tức Tây Lịch, lấy
năm Chúa sinh làm tiêu chuẩn tính ngày giờ năm tháng lịch sử con người.
Đức Giáo Hoàng Gioan I yêu cầu một thầy dòng tên Dionysius Exiguus tính xem từ
năm 527 cho đến 626, Lễ Phục Sinh sẽ rơi vào ngày nào? Ông dựa theo lịch của
Roma được xử dụng từ năm 45 trước Công nguyên, được gọi là Julian Calendar
(Julius Ceasar). Những lịch Công Giáo về sau nầy như Lịch Giáo Hoàng Grêgoriô
thứ VIII cũng đã theo cách tính lịch của Dionysius Exiguus. Lịch Anno Domini
lấy năm Chúa Sinh ra làm năm 1 Công Nguyên. Tuy nhiên vì lý do lầm lẫn sao đó
mà Dionysius Exiguus tính năm Chúa sinh trễ hơn sáu năm. Theo Phúc Âm Matthêô
2:16 thì khi Chúa Sinh ra Hêrôđê cả vẫn còn sống và ra lệnh giết những trẻ sơ
sinh từ hai tuổi trở xuống. Lịch sử cho biết Hêrôđê cả chết năm thứ 4 BC. Như
vậy Chúa phải sinh 6 năm B.C. Nếu đây thật là sự tính sai của Dionysius
Exiguus, thì chúng ta đang ở năm 2019 chứ không phải năm 2013.
Không ai có thể hoán chuyển hay thay đổi ngày tháng của lịch sử. Cũng như không
ai có thể chối rằng mình đang sống năm 2013 sau Chúa Sinh Ra. Nên Công Nguyên
là năm Chúa Sinh ra. Chúa sinh bắt đầu thời đại Thiên Chúa Giáo. Nói khác đi Chúa
là người làm nên lịch sử.
III.
Thực hành P.Â.:
Thế
giới vui tưng bừng đón Chúa Giáng Sinh
Các quốc gia Hồi Giáo cấm tín đồ mừng lễ Giáng Sinh. Họ muốn chối bỏ ơn cứu độ
phổ quát. Nước Nhật cũng nhìn thấy lễ Giáng Sinh là một lễ của Tây phương. Nên
người Nhật không chú trọng hay không muốn người dân chia sẻ văn hoá tôn giáo
với người Tây Phương. Các nước cộng sản vài chục năm trước cũng đã cố gắng chận
đứng hay hạn chế việc cử hành lễ Giáng Sinh. Nhưng rồi dần dà cũng xuôi theo
khuynh hướng đám đông dân chúng. Hiện tại trên thế giới, không có chỗ nào không
mừng chúa Giáng sinh. Người dân Tây phương đi làm quanh năm để dành tiền mừng
lễ giáng sinh. Bao nhiêu cơ quan từ thiện bác ái đã chuẩn bị quà, mua gà tây để
bà con nghèo được mừng lễ giáng sinh.
Ai cũng thấy càng ngày lễ Giáng Sinh càng bị trần tục hoá. Nhưng xét cho cùng,
Chúa Giáng trần có nghĩa là Chúa bỏ trời xuống làm người phàm như chúng ta.
Niềm vui Giáng Sinh, niềm vui đón mừng Con Chúa làm người lan tràn vào mọi ngỏ
ngách của xã hội loài người. Cái xã hội mà không phải chỗ nào cũng thánh. Người
ta không tin gì cả, trừ tin Chúa sinh làm người.
Tôi không thấy có gì khó chịu hay gọi là phải “keep Christ in Christmas”. Trào
lưu đang đến như vậy mà. Có chận đứng cũng luống công. Chúng ta không cần hạn
chế người ta đi mua sắm để keep Christ in Christmas. Chúng ta không cần buộc
người ta phải dự lễ như chúng ta để keep Christ in Christmas. Bao lâu người ta
biết mừng lễ Giáng Sinh là người ta đã tin nhận Chúa là niềm vui, là tin vui,
là hồng ân cho muôn người rồi. Có nhiều người bắt đầu thích đi tu làm linh mục
vì thấy linh mục ăn ngon. Chúa có khả hoán chuyển từ ước muốn trần tục thành
siêu nhiên.
Hãy bằng lòng và vui với niềm vui giáng sinh theo kiểu trào lưu trần thế nầy.
Chúa đi vào đời để nối liền đất trời. Đó là cách thế cứu độ. Sau cùng Chúa sẽ
chiến thắng! Chúa đến! là tin mừng, tin vui cho muôn người.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên
Lectio Divina: Lễ Chúa Giáng Sinh (A)
Thứ Tư, 25 Tháng 12, 2013
Lời tựa
của sách Phúc Âm theo thánh Gioan
Ga
1:1-18
1. Lời
nguyện mở đầu
Trong
bóng tối của đêm không trăng sao,
một đêm
không ý nghĩa
Chúa,
Ngôi Lời Sự Sống,
như một
tia chớp trong cơn bão của sự lãng quên,
đã bước vào
bên trong phạm vi của ngờ vực
dưới sự
che chở của các giới hạn mong manh
để ẩn
giấu ánh sáng.
Ngôi
Lời làm bằng sự thinh lặng và bình thường,
Ngôi
Lời trong thân xác loài người, các sứ giả bí mật của Đấng Tối Cao:
giống
như những cái lưới ném vào vùng biển chết
để đi
tìm nhân loại một lần nữa, đắm mình trong những lo lắng điên rồ của mình,
và cảm hóa
họ, bị tước đoạt, nhờ vào ánh sáng rực rỡ thu hút của sự tha
thứ.
Lạy
Chúa, Đại Dương Bình An và bóng mát của sự Vinh Quang vĩnh cửu,
con xin
dâng lời cảm tạ:
Vùng
biển tĩnh lặng trên bờ của con đang chờ đợi làn sóng, con muốn đi tìm Chúa!
Và
nguyện xin cho tình bằng hữu của các anh em bảo vệ con
khi màn
đêm buông xuống trên nỗi ước vọng của con về Chúa. Amen.
2. Bài Đọc
a) Phúc
Âm:
1 Từ
nguyên thủy đã có Ngôi Lời: Ngôi Lời ở với Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên
Chúa. 2 Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. 3 Mọi
vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác
thành trong mọi cái đã được tác thành. 4 Ở nơi Người vẫn
có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; 5 sự sáng
chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. 6 Có
một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. 7 Ông đã
đến như một người chứng, để ông minh chứng về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ
ông mà tin. 8 Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến
để chứng minh về sự sáng. 9 Vẫn có sự sáng thực, sự sáng
soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. 10 Người
vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không
nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà các gia nhân Người,
và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. 12 Nhưng
phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con
Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. 13 Những
người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn
của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. 14 Và Ngôi
Lời đã hóa thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi. Và
chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi
Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.15 Gioan
làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Đây là Đấng tôi tiên
báo. Người đến sau tôi nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước
tôi.” 16 Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy
tiếp nhận ơn này tới ơn khác. 17 Bởi vì Chúa ban lề luật
qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. 18Không
ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha sẽ
mạc khải cho chúng ta.
b) Giây
phút thinh lặng:
Hãy để
cho Lời Chúa vang vọng trong chúng ta.
3. Suy
gẫm
a) Một
vài câu hỏi cho việc suy gẫm:
- Thiên
Chúa là ánh sáng đã quyết định xua tan u tối của loài người bằng cách làm cho
mình trở thành u tối. Người mù từ thuở mới sinh (xem Ga 9:1-41): mù lòa là
tình trạng của anh ta lúc được sinh ra. Cử chỉ tượng trưng của Chúa
Giêsu trong việc lấy bùn bôi lên mắt người bị mù từ lúc mới sinh trong Phúc Âm
Gioan, nói lên sự mới mẻ của hóa thân: Đó là cử chỉ của sự sáng tạo mới. Người
mù có đôi mắt vẫn còn được bao phủ bởi bùn của sự sáng tạo được yêu cầu làm một
hành động không của đức tin mà là hành động của sự vâng lời: đi đến hồ Silôê,
có nghĩa là “được sai đi”. Người “được sai đi” là Chúa Giêsu. Liệu
chúng ta có thể vâng lời với Lời Chúa đến với chúng ta mỗi ngày không?
- Người
mù trong Tin Mừng của Gioan là người nghèo khó: anh ta không kỳ vọng điều gì và
không cậy xin điều gì. Chúng ta thường sống trong sự mù lòa hằng
ngày, bị từ chối rằng chúng ta không xứng đáng hưởng những chân trời tốt đẹp
hơn. Có thể nào chính chúng ta thấy mình chẳng có gì vì thế món
quà của Thiên Chúa cũng chính là của chúng ta nữa, một món quà của sự cứu chuộc
nhục thể, nhưng hơn hết cả đó là món quà của sự sáng và đức tin không?
- “Lề
luật được ban qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu
Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa; nhưng chính Con Một Chúa, Đấng
ngự trong Chúa Cha sẽ mặc khải cho chúng ta” (Ga 1:17-18). Kiến
thức về những gì xảy ra trong câu chuyện của đời sống chúng ta dẫn chúng ta ra
khỏi sự mù lòa của lòng tự phụ và chiêm ngưỡng sự sáng chiếu ngời trên
mặt của Con Thiên Chúa. Mắt của chúng ta, tràn ngập ánh sáng,
được mở ra cho các sự kiện. Đến khi nào thì chúng ta sẽ có thể nhìn
thấy Thiên Chúa ở giữa chúng ta?
b) Điểm
chính dẫn đến bài đọc:
Gioan
là người có thể nhìn thấy ánh sáng tỏa sáng, đã thấy, đã nghe và đã chạm vào sự
sáng. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời: một cách liên tục hướng về tình
yêu của Chúa Cha, Ngôi Lời đã trở thành lời giải thích đích thực của Chúa Cha,
lời giải thích Thánh Kinh duy nhất (Ga 1:18), sự mặc khải tình yêu của
Người. Trong các biểu tượng là sự sống, và sự sống là ánh sáng,
nhưng bóng tối đã không chào đón ánh sáng. Trong Cựu Ước sự mặc khải
về Ngôi Lời là sự mặc khải của ánh sáng: điều này tương ứng với sự
sung mãn của ân sủng, ân sủng của ơn thánh, đã ban cho chúng ta trong Chúa
Giêsu, sự mặc khải tình yêu vô biên của Thiên Chúa (Ga 1:4-5, 16). Toàn
bộ chứng tá của Cựu Ước là một chứng tá cho ánh sáng: từ Abraham đến
Gioan Tẩy Giả, Chúa gửi các nhân chứng cho ánh sáng của Người. Gioan
Tẩy Giả là người cuối cùng trong số những người này: ông công bố ánh sáng sắp hạ sinh
vào trong thế gian và nhận ra trong Chúa Giêsu là ánh sáng đã được trông đợi từ
lâu (Ga 1:6-8, 15).
Ngôi
Lời Gia-Vê là phương tiện truyền thông của Thiên Chúa với loài người, đã xảy ra
với tất cả những ai mà Thiên Chúa đã gọi và đến với những ai mà Lời Chúa đã đến
(xem Is 55:10-11). Như thánh Augustinô đã nói: Lời Chúa
là ánh sáng thật sự.
Lời từ
miệng Thiên Chúa phán ra, mà nó vẫn giữ được đầy đủ hiệu lực, và Lời là Đấng
tạo ra và duy trì thế giới. Lời này, đã được viết ra và lưu truyền,
được xác định trong bộ sách Ngũ Thư (Năm Quyển Sách của Môisen) cùng với sách
Khôn Ngoan là toàn bộ sự mặc khải của Thiên Chúa cho dân Do Thái: Thánh
Luật ban xuống từ Si-on, và từ Giêrusalem, Lời Đức Chúa phán truyền (Is
2:3).
Ngôi
Lời (tiếng Aramaic: Memra) là khái niệm được dùng bởi Gioan đi từ
chữ “dabar” (lời) đến các biểu tượng: trong bản dịch “targum” (bản
dịch Kinh Thánh Cựu Ước ra tiếng Aram), Ngôi Lời có nhiệm vụ
tác tạo, nhưng hơn hết cả là chức năng mặc khải được nói đến một cách đặc biệt
qua hình ảnh của ánh sáng. Trong quyển Targum Neophiti,
bài thơ nổi tiếng của bốn đêm trong sách Xuất Hành 12:42 được viết như
sau: “Đêm đầu tiên là khi Đấng Giavê tỏ mình ra trên thế gian để
tạo ra nó: Thế giới là sa mạc và trống rỗng, và bóng tối bao trùm
vực thẳm. Và Lời Thiên Chúa là ánh sáng chiếu rọi.” Trong
bản thảo Targum Jerushalaim câu 110 viết rằng: “Với
Lời của Thiên Chúa chiếu soi và làm sáng tỏ”.
Phương
pháp giải thích Kinh Thánh kiểu Midrash nhấn mạnh rằng lề luật có trước thế
gian, đó là sự sống, đó là ánh sáng: “Những lời của Huấn Chỉ Ngũ
Thư là ánh sáng cho thế gian” (Midrash Dt Rabba 7:3). Chỉ
có ái nữ của Thiên Chúa, Ngũ Thư Torah đã được viết bằng lửa
đen trong ngọn lửa trắng, ngồi trong lòng Thiên Chúa khi Thiên Chúa đang ngự
trên ngai vinh quang của Người (trích Midrash về Tv 90:3).
Biểu
tượng ánh sáng trở nên hiện hữu trong thế gian. Tất cả là sự sống
trong Người: Ngôi Lời chiếm vị trí của Huấn Chỉ Ngũ Thư. Các
dấu chỉ thì siêu việt, và hơn là một sự thay thế, chúng ta thấy một sự
thực hiện. Nếu đối với người Do Thái, Huấn Chỉ Ngũ Thư Torah là
ái nữ của Thiên Chúa, thì Gioan cho thấy rằng nàng ấy là biểu tượng
mà ngay từ thuở nguyên thủy đã ở với Thiên Chúa, là Đức Chúa Trời. Biểu
tượng này trở nên nhục thể: xác thịt con người, mỏng dòn, hạn chế, hữu hạn, đặt
vinh quang của Người trong thân xác loài người. Người đã hạ Lều của
mình, xuống thế, ở giữa chúng ta, Người đã trở thành Thiên Chúa hiện
hữu(shekinah-Thần cư) ở giữa chúng ta, và Người đã cho thấy vinh
quang của Người, sự hiện diện của Thiên Chúa che phủ loài người. Vinh
quang Thiên Chúa ngự trong Lều Nhà Tạm của người Do Thái của cuộc di cư khỏi
đất Ai Cập (Xh 40:34-38), Chúa ngự trong đền thờ (1V 8:10), giờ đây ngự trong
xác thịt của Con Thiên Chúa. Điều này thực sự là việc Chúa Hiển
Linh. Sự Thần Cư của Thiên Chúa đã có thể thấy
được, bởi vì sự Thần cư(shekinah) là Đức Kitô, nơi có sự hiện hữu
và vinh quang của Thiên Chúa. Có một Đấng đã nhìn thấy vinh quang
của Thiên Chúa: Đó là Đức Chúa Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý;
Người đến để mặc khải cho chúng ta nhan thánh của Chúa Cha, Người là Đấng suy
nhất có thể làm được điều này bởi vì Người có sự hiện hữu của mình trong lòng
Chúa Cha. Từ sự sống sung mãn này đưa đến việc tạo dựng mới. Môisen
đã đưa ra lề luật. Đức Kitô thì ban cho ân sủng và chân
lý, tình yêu và lòng trung tín. Trong Chúa Con, chúng ta có thể
chiêm ngắm Thiên Chúa mà không chết bởi vì bất cứ ai nhìn thấy Chúa Con cũng
nhìn thấy Chúa Cha: Chúa Giêsu là lời giải thích Kinh Thánh, lời
tường thuật của đời sống siêu nhiên.
Và nơi
mặc khải là thân xác của Người. Đây là lý do tại sao Gioan đã cho
biết tại thời điểm hoàn thành: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang
của Người” (Ga 1:14), khi mà tại “thời điểm của vinh quang” chỉ có
bóng tối. Ánh sáng được dấu ẩn khi nó dâng hiến sự sống của mình vì
tình yêu nhân loại, yêu cho đến tận cùng, không giới hạn, tôn trọng quyền tự do
của con người để đóng đinh Tác Giả của Sự Sống vào Thập giá. Thiên Chúa
được tôn vinh tại thời điểm của cuộc thương khó: Một tình yêu viên
mãn, dứt khoát, vô biên; một tình yêu được thể hiện ngay cả khi phải đối diện
với những hậu quả cực đoan của nó. Đây là sự mầu nhiệm của ánh sáng
trở thành đường đi trong bóng tối, bởi vì tình yêu giống như bóng tối trong đêm
đen khi đời sống trở nên thân thiết hơn và lời của một người chết đi
để được sống trong hơi thở lời của người yêu; sự sáng ở trong tình yêu đem lại
ánh sáng trong giờ phút bị tước quyền sở hữu, giờ phút mà một người tự hiến
thân mình để tìm lại được chính mình trong vòng tay của sự sống.
4. Cầu
nguyện
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi
bỏ áo tang khổ nhục,
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa;
và đội lên đầu triều thiên vinh quang
Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.
Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu
thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi
là "Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính",
và "Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa".
Vùng lên, Giêrusalem hỡi,
hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông:
Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về
theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy.
Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui.
Xưa chúng bị quân thù áp giải,
phải rời ngươi, không xe không ngựa.
Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi,
chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.
Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,
để Israel tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Israel,
vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa;
và đội lên đầu triều thiên vinh quang
Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.
Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu
thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi
là "Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính",
và "Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa".
Vùng lên, Giêrusalem hỡi,
hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông:
Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về
theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy.
Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui.
Xưa chúng bị quân thù áp giải,
phải rời ngươi, không xe không ngựa.
Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi,
chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.
Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,
để Israel tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Israel,
vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.
(sách
Barúc 5:1-9)
5. Chiêm
Niệm
Lạy
Chúa Cha của ánh sáng, con chạy đến với Chúa với toàn thân xác con. Sau
khi trải qua những thời gian tốt lành và những thời gian sa vào tội lỗi, cuối
cùng con đã hiểu, bởi vì kinh nghiệm của con, rằng một mình con, con chỉ hiện
hữu trong bóng đêm và sự tối tăm. Không có ánh sáng của Chúa, con
không thể thấy bất cứ điều gì. Thật thế, Chúa là nguồn mạch sự sống;
Chúa, Vầng Thái Dương của công lý, Đấng mở mắt con, Chúa là con đường dẫn đến
Chúa Cha. Hôm nay Chúa đã ngự đến giữa chúng con, Ngôi Lời Hằng Hữu,
như ánh sáng đi qua các trang sử để cống hiến cho nhân loại món quà ân sủng và
niềm hoan lạc trong sa mạc của đói khát và trống rỗng: bánh và rượu
của Danh Thánh Chúa, tại giờ tử nạn trên thập giá sẽ trở nên những dấu chỉ rõ
rệt của tình yêu trọn vẹn, xin hãy cho chúng con được sinh ra với Chúa để
từ đó phần sinh hoa trái là Giáo Hội, là cái nôi của cuộc sống Chúa dành cho
chúng con. Giống như Đức Maria, chúng con ước ao được ở cạnh Chúa để
học hỏi được giống như Mẹ, Đấng đầy ân sủng từ Thiên Chúa Tối Cao. Và
khi lều của chúng con sẽ chào đón đám mây của Chúa Thánh Linh trong ánh sáng
rực rỡ của Ngôi Lời lần nữa, chúng con sẽ hiểu sự vinh quang của Thánh Nhan
Chúa và chúng con sẽ ban phước trong im lặng chiêm ngưỡng mà không còn có sự do
dự nào nữa trước Vẻ Đẹp của Đấng đang ngự cùng Chúa, Ngôi Lời hằng sống.
25/12/13 THỨ TƯ ĐẠI LỄ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH
Ga 1,1-18
Ga 1,1-18
NGÀI ĐÃ ĐẾN NHÀ MÌNH
“Người đã đến nhà mình, nhưng
người nhà không đón nhận.” (Ga 1,18)
Suy niệm: Có thể gọi bài Tựa Tin Mừng này
như bản sơ yếu lý lịch của Đức Giêsu: từ nguyên thủy Ngài là Thiên Chúa, ở với
Thiên Chúa, sáng tạo vũ trụ với Thiên Chúa; rồi Ngài nhập thể làm người, để đem
con người đi vào mối tương quan cha-con với Thiên Chúa, trở thành con cái Thiên
Chúa; sau đó, Ngài lại trở về với Thiên Chúa, đưa con người đi vào cuộc đối
thoại vĩnh cửu với Thiên Chúa. Cũng có thể gọi bài Tựa Tin Mừng này như khúc
nhạc dạo đầu, bởi vì tất cả những chủ đề liên quan đến sứ vụ Đức Giêsu đều được
giới thiệu trước trong phần này, chẳng hạn: sự sống, ân sủng, sự thật, ánh
sáng-bóng tối, đón nhận-từ khước, tin-không tin... Niềm tin và lòng mến giúp ta
nhận ra khuôn mặt siêu vượt mọi khuôn mặt con người nơi Đức Giêsu.
Mời Bạn: Niềm vui của ngày lễ Giáng Sinh
không lúc nào trọn vẹn, vì vẫn còn đó một nỗi buồn “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không
đón nhận.” Không đón nhận vì không
biết Ngài, vì cố tình khước từ Đấng là sự sống, ánh sáng và sự thật cho con
người, hay vì những đam mê, thú vui trần thế quá quyến rũ mà coi thường? Bạn sẽ
làm gì để đón nhận Ngài?
Sống Lời Chúa: Tối nay trước khi đi ngủ, tôi
(và gia đình) sẽ quỳ gối trước hang đá hoặc bàn thờ Chúa để ngợi khen, cảm tạ
Ngôi Hai giáng trần và hứa dành cho Ngài một vị trí xứng đáng trong tâm hồn, gia
đình mình.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Giêsu Hài Nhi, cảm tạ Chúa đã nhập thể làm người để chia vui sẻ buồn và
đưa con vào hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Xin cho chúng con luôn được cảm nếm
niềm vui có Chúa ở cùng với chúng con. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét