TUẦN BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ
GIÁNG SINH
Ngày 20 tháng 12
Mùa Vọng
Bài
Ðọc I: Is 7, 10-14
"Này
đây một trinh nữ sẽ thụ thai".
Bài
trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày
ấy, Chúa phán bảo cùng vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một
dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao". Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi
sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa".
Và
Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít: Làm phiền lòng người ta chưa đủ
ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các
ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên
con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Chúa ngự qua,
chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh (x. c. 7c và 10b).
Xướng:
1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư
trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên
chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2)
Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người
tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3)
Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân
thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm kiếm long nhan Thiên Chúa
nhà Giacóp. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chìa khoá Ðavít, Ngài mở cửa thiên quốc, xin hãy đến cứu thoát
người bị xiềng xích đang ngồi trong bóng tối tăm khỏi cảnh ngục tù! - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 1, 26-38
"Này
trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến
với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít,
trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính
chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ
nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần
liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai,
sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là
con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người
sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng
Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết
đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và
uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh,
và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con
trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ
gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria
liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".
Và Thiên thần cáo biệt Bà.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Ngôi
Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể
Gabriel
trong tiếng Do Thái có nghĩa là: "Thiên Chúa là sức mạnh". Bởi thế,
khi lãnh sứ mạng truyền tin cho Mẹ Maria, hình ảnh sức mạnh nổi bật nơi người
mang sứ điệp và chính tại nội dung của sứ điệp. Mẹ Maria phân vân thắc mắc bằng
những suy nghĩ thường tình của con người: "Việc ấy thành sự sao được? Vì
tôi không biết đến người Nam". Tuy nhiên, thắc mắc này không làm nao núng
vị sứ giả biểu tượng cho sức mạnh Thiên Chúa. Sứ giả đã trấn an Mẹ với lời khẳng
định: Chẳng có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dù cho tuổi già như
Elisabeth thì Ngài vẫn cho sinh hạ một con trai để góp phần gia truyền ơn cứu độ.
Ngài đã tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài đã gầy dựng một dân tộc từ một đôi
vợ chồng son sẻ mà tuổi đã xế chiều, thế mà tại sao Ngài lại không thể tạo cho
mình một thân xác từ trong cung lòng người Nữ được?
Thiên
Chúa Quyền Năng làm được mọi sự, nhưng dù cho quyền năng thế nào đi nữa thì khi
đứng trước tự do của con người Ngài cũng phải đành bó tay, vì Ngài tôn trọng sự
tự do của con người. Quả thật tự do là một món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa tặng
ban cho con người. Với lý trí và tự do con người đã vẽ lại hình ảnh của Thiên
Chúa nơi thân phận thụ tạo của mình. Có tự do mới có tình yêu, vắng bóng tự do
thì chỉ còn là những áp đặt, trói buộc hoặc lợi dụng. Không gì làm đẹp lòng
Thiên Chúa cho bằng khi con người biết dùng tự do để đáp lại tình yêu của Ngài,
và cũng không gì làm đau lòng Ngài cho bằng khi con người sử dụng tự do để phản
bội Ngài. Dù Ngài Quyền Năng tuyệt đối thì Ngài vẫn không dùng Quyền Năng để
ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế mà thảm cảnh đã đến với nhân loại khi
nguyên tổ đã cản ngăn chương trình tốt lành của Thiên Chúa dành cho mọi thụ tạo.
Thế
nhưng, Thiên Chúa lại không bỏ mặc con người nhưng Ngài đã hứa ban ơn cứu độ ấy
được thể hiện qua dòng lịch sử. Khung cảnh được tường thuật trong bài Tin Mừng
hôm nay là điểm cuối của hằng bao thế kỷ chuẩn bị ấy. Và dù phải bỏ công chuẩn
bị suốt một thời gian dài như vậy, Thiên Chúa cũng không dùng quyền năng của
mình để ép buộc Mẹ Maria chấp nhận chương trình của Ngài. Ngài đợi chờ hai tiếng
"Xin Vâng" thốt ra từ môi miệng của Mẹ, Ngài tôn trong tự do nơi Mẹ.
Về phần Mẹ Maria, Mẹ cũng dùng lý trí của Mẹ để tìm hiểu, thắc mắc. Tuy nhiên,
khi dùng lý trí thì Mẹ vẫn không bước ra ngoài sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Câu
hỏi của Mẹ là một thắc mắc chính đáng trong cái suy nghĩ thường tình của con
người: "Làm sao một người nữ lại có thể sinh con khi không có sự tiếp tay
của người nam". Sứ thần đã hướng dẫn lý trí của Mẹ suy nghĩ đến quyền năng
của Thiên Chúa. Lúc này tâm trí của Mẹ không chỉ qui về sự việc bà chị họ mang
thai nhưng bao gồm tất cả chiều dài của chương trình lịch sử cứu độ.
Nhờ
thế mà hôm nay Giáo Hội mới có được lời kinh Magnificat để chúc tụng trong giờ
kinh Phụng Vụ. Và rồi chẳng ngần ngại Mẹ đã thưa "Xin Vâng". Hai tiếng
"Xin Vâng" tuy vắn gọn nhưng không mất tính chất quan trọng của một
chiếc chìa khóa mở cửa cho nguồn ơn cứu độ đến với nhân loại. Chẳng gì là quá
đáng khi chúng ta lập lại lời thơ của Hàn Mặc Tử:
"Lạy
Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel!
Khi
người xuống trần gian truyền tin cho Thánh Nữ.
Người
có nghe xôn xao muôn vị tinh tú?
Người
có nghe náo động cả phương trời?"
Vì
do sự sử dụng tự do của nguyên tổ mà chương trình tốt lành của Thiên Chúa bị cản
ngăn, thì lúc này với sự sử dụng tự do của Mẹ Maria chương trình cứu độ tình
thương của Ngài được thiết lập.
Qua
bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta bắt chước ở nơi Mẹ
Maria thái độ lắng nghe, tìm hiểu và rồi sẽ đáp trả trong tự do và tin tưởng.
Vì mỗi ngày Thiên Chúa vẫn hằng chờ đợi chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể và
trong các biến cố của cuộc sống. Ngài chờ đợi một lời đáp trả trong "tin
yêu", vì Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của ta. Nếu chúng ta biết thưa hai
tiếng "Xin Vâng" như Mẹ Maria đã thưa thì chắc chắn Ngài sẽ đến và sẽ
hành động trong chúng ta. Nhưng nếu một khi đã có Thiên Chúa đến ở với thì tôi
tớ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Cũng vậy, là tạo vật hèn kém, bất xứng nhưng một
khi được Thiên Chúa ở cùng chúng ta sẽ chỉ là chi thể, là bạn hữu và là anh em
của Ngài.
(Veritas Asia)
Lectio Divina: Luca 1:26-38
Thứ Sáu, 20 Tháng 12,
2013
Tuần thứ ba Mùa
Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa của người nghèo khó và khiêm hạ,
Hôm nay chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã chọn Maria
Là Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Giêsu, Con Một Chúa.
Đức tin và sự sẵn lòng phục vụ của Mẹ
Đã mở đường cho thế giới mới của Chúa.
Xin hãy sắp xếp cho chúng con tìm kiếm ý muốn của Chúa
Và hợp tác với kế hoạch của Chúa,
Để cho chúng con cũng giống như Đức Maria,
Có thể đem đến cho thế giới Đấng Cứu Độ,
Đức Giêsu Kitô, Con của Chúa và là Chúa của chúng con.
2. Phúc Âm – Luca 1:26-38
Vào tháng thứ sáu, thiên thần Gabriel được
Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã
đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là
Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ vào chào
rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng
Bà.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa
gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được
nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên
là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối
Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ
Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người
sẽ vô tận.” Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến
thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Thiên Thần thưa: “Chúa
Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì
thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên
Chúa. Và này, Êlisabéth chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong
lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son
sẻ; vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được.”
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ
Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo
biệt bà.
3. Suy Niệm
- Chuyến thăm viếng của Thiên Thần
Gabriel với Đức Maria nhắc nhớ chúng ta cuộc thăm viếng của Thiên Chúa với
những người phụ nữ khác trong Cựu Ước: bà Sarah, mẹ của ông Isaác
(St 18:9-15), bà Anna, mẹ của ông Samuel (1Sm 1:9-18), mẹ của Samson (Tl
13:2-5). Đến với tất cả các bà để loan báo việc ra đời của một người
con trai với một sứ mệnh quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch của Thiên
Chúa.
- Câu chuyện bắt đầu với khái
niệm “vào tháng thứ sáu”. Đây là tháng thứ sáu của thai
kỳ của bà Êlisabéth. Nhu cầu cụ thể của bà Êlisabéth, một phụ nữ luống tuổi lại
có mang con so với nguy cơ khó khăn lúc sanh nở, đây là bối cảnh của cả câu
chuyện này. Bà Êlisabéth được nhắc đến tại đầu câu chuyện (Lc 1:26)
và tại cuối chuyến thăm viếng của thiên thần (Lc 1:36,39).
- Thiên thần chào
rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng
Bà!” Những lời tương tự cũng đã được nói với ông Môisen (Xh 3:12),
với tiên tri Giêrêmia (Gr 1:8), với ông Ghít-ôn (Tl 6:12) và với những người
khác có một sứ vụ quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đức Maria
đã ngạc nhiên khi nghe lời chào và cố gắng để hiểu ý nghĩa của những lời
ấy. Bà là người thực tế. Bà muốn hiểu rõ. Bà
không muốn chỉ chấp nhận bất kỳ một sự linh ứng nào.
- Thiên thần thưa: “Đừng
sợ!” Cũng giống như đã xảy ra trong lần thiên thần đến viếng
ông Giacaria, đây cũng luôn là lời chào đầu tiên của Thiên
Chúa: “Đừng sợ!” Ngay lập tức thiên thần nhớ lại các lời
hứa của quá khứ sẽ được hoàn thành nhờ người con trai sẽ được sinh ra và sẽ
được đặt tên là Giêsu. Người sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao và trong
Người sẽ cai trị Nước Thiên Chúa. Đây là lời giải thích của thiên
thần Chúa trong một cách mà Đức Maria không sợ hãi.
- Đức Maria nhận thức được về nhiệm
vụ mà Bà sắp sửa nhận lãnh, nhưng Bà vẫn tiếp tục là người thực
tiễn. Bà không để cho mình bị lôi cuốn bởi sự cao trọng của lời đề
nghị, và nhận xét tình trạng của mình. Bà phân tích lời đề nghị theo
một số tiêu chuẩn mà Bà sẵn có. Nói một cách khiên nhường, việc đó
không thể được: “Nhưng việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không
biết đến người nam?”
- Thiên thần Chúa giải thích rằng
Chúa Thánh Thần, hiện diện trong Lời Chúa kể từ khi Tạo Dựng (St 1:2), có khả
năng thực hiện những việc mà dường như không thể nào. Đây là lý do
tại sao, Đấng Thánh sẽ được sinh ra bởi Đức Maria sẽ được gọi là Con
Thiên Chúa. Mầu nhiệm tự nó lặp lại cho đến cả ngày
nay. Khi Lời Chúa được chấp nhận bởi người nghèo khó, điều gì
đó mới mẻ sẽ xảy ra, nhờ vào quyền năng của Chúa Thánh Thần! Điều lạ
lùng và ngạc nhiên như việc một bé trai được sinh ra bởi một trinh nữ hay một
bé trai được sinh ra bởi một người phụ nữ luống tuổi, người mà thiên hạ gọi là
son sẻ, rằng bà không thể nào có con! Và thiên thần Chúa cho biết
thêm: “Và này, Êlisabéth chị họ Bà, cũng đã thụ thai con trai, trong
lúc tuổi già, người mà thiên hạ gọi là son sẻ nay đã mang thai được sáu tháng,
vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được.”
- Câu trả lời của thiên thần đã làm
tỏ tường mọi việc cho Đức Maria, và Bà đã phục lệnh: “Này tôi là tôi
tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” Đức Maria dùng
danh xưng Nữ Tỳ, Tôi Tới Chúa. Danh xưng này của ngôn sứ Isaia,
người đại diện cho sứ vụ của dân chúng không phải là một đặc quyền, mà đúng hơn
là việc phục vụ cho những người khác (Is 42:1-9;
49:3-6). Về sau này Chúa Giêsu sẽ xác định sứ vụ của mình như là
việc phục vụ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ!” (Mt 20:28). Chúa đã học được điều này từ
Mẹ Người!
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc
suy gẫm cá nhân
- Điều gì đã khiến bạn cảm động
nhất trong chuyến thăm viếng của Thiên Thần Gabriel với Đức Maria?
- Chúa Giêsu đã ca ngợi Mẹ mình khi
Người nói rằng: “Phúc cho những ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa”
(Lc 11:28). Đức Maria đã liên kết Lời Chúa trong chuyến thăm viếng
của Thiên Thần như thế nào?
5. Lời nguyện kết
Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài,
Làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.
Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,
Đặt vững vàng trên làn nước mênh
mông. (Tv 24:1-2)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 20 tháng 12 MV
Bài đọc: Isa 7:10-14; Lk
1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ơn Cứu Độ đến từ
Thiên Chúa.
Lịch
sử Cựu-Ước đã nhiều lần chứng minh: khi nào con người biết trông cậy hòan tòan
và thực thi ý muốn của Thiên Chúa, con người được bảo vệ và chúc lành; khi nào
con người không trông cậy vào Thiên Chúa, nhưng tin tưởng vào sức mình hay các
quyền lực thế gian, con người bị thất bại và bị nguyền rủa.
Hai
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy 2 phản ứng trái ngược này. Trong Bài đọc I,
Tiên-tri Isaiah khuyên Vua Ahaz phải cậy trông vào sức mạnh và uy quyền của
Thiên Chúa mà không cần phải làm gì cả, vì chính Ngài sẽ giải thóat Judah. Nhà
Vua không chịu nghe lời, sai sứ giả đi cầu viện Assyria để được bảo vệ. Kết quả
là nước mất, nhà tan, vua dân đều bị lưu đày. Nhưng Thiên Chúa vẫn điều khiển mọi
quyền lực và lời Ngài hứa vẫn tiếp tục ứng nghiệm. Trong Phúc Âm, lời hứa ban Đấng
Thiên Sai được nên trọn: Sứ-thần Gabriel truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria về sự
chịu thai và ra đời của Đấng Cứu Thế. Không giống như sự cứng lòng và bất tuân
của Vua Ahaz, Đức Trinh Nữ hòan tòan tin tưởng nơi quyền năng và sự quan phòng
của Thiên Chúa, đã thưa với Sứ-thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Kết quả là Ơn Cứu Độ được lan tràn tới
muôn người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Này đây một thiếu nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.
1.1/
Hòan cảnh lịch sử:
Để hiểu Bài đọc I, chúng ta cần đọc Isa 7:1-9 để hiểu hòan cảnh của nước
Do-Thái thời bấy giờ. Đất nước bị chia đôi thành 2 vương quốc: miền Bắc còn gọi
là Israel, thủ đô đặt tại Samaria; miền Nam còn gọi là Judah, thủ đô đặt tại
Jerusalem. Vương quốc miền Bắc liên minh với Syria thành Syro-Ephraimite, để
xâm chiếm miền Nam. Đứng trước nguy cơ bị thôn tính, Vua Ahaz của Judah đã sai
sứ giả qua Assyria cầu viện mặc dù đã bị ngăn cản bởi Tiên-tri Isaiah, Nhà Vua
sẵn sàng dâng lễ vật triều cống và trở thành vương hầu của Assyria. Nhà Vua còn
lo hơn nữa vì không có người nối dõi tông đường; đứa con duy nhất của Nhà Vua
đã bị sát tế cho Thần Moloch (II Kgs 16:3).
1.2/
Ý muốn của Thiên Chúa:
Khi hay tin Vua Ahaz đã không chịu nghe lời Thiên Chúa, Tiên-tri Isaiah đến gặp
và nói cho Vua biết ý muốn của Thiên Chúa: “Một lần nữa Đức Chúa phán với vua
Ahaz rằng: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một
dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Vua Ahaz trả lời: "Tôi
sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa."” Thực ra, Vua Ahaz đã
không còn tin cậy nơi Thiên Chúa nữa, Nhà Vua chạy theo các thần ngọai, và chỉ
còn biết cậy trông vào sức con người.
Tiên-tri
Isaiah nói tiếp: "Nghe đây, hỡi nhà David! Các ngươi làm phiền thiên hạ
chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính
Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai,
sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.”
Emmanuel
có nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” là một tên biểu tượng được cho đứa trẻ
mà vợ mới của Vua Ahaz sắp sửa cưu mang (Hezekiah). Tiên-tri Isaiah nhấn mạnh:
chính đứa trẻ này sẽ nối ngôi, không do sự cầu viện của Nhà Vua, nhưng hòan
tòan do ý muốn của Thiên Chúa.
Assyria
xâm nhập và tấn công Judah (Isa 8:5-8); niềm hy vọng của Vua Ahaz trở thành cớ
cho Assyria xâm lăng và phá hủy Judah. Tuy nhiên, những gì Thiên Chúa hứa vẫn
tiếp tục được thực hiện. Giòng dõi David và thủ đô Jerusalem vẫn tồn tại sau Thời
Lưu Đày và lời hứa về Đấng Cứu Thế phát sinh từ giòng dõi David vẫn tiếp tục được
ứng nghiệm. Điều này chứng tỏ rõ ràng cho con người biết: Ý muốn của Thiên Chúa
vượt trên mọi tính tóan và khả năng của con người, và Ơn Cứu Độ đến từ Thiên
Chúa!
2/
Phúc Âm:
Lời hứa ban Đấng Cứu Thế được thực hiện.
Hơn
500 năm sau Thời Lưu Đày, qua 14 thế hệ của giòng tộc David, lời hứa ban Đấng Cứu
Thế của Thiên Chúa được ứng nghiệm trong hòan cảnh như sau:
2.1/
Sứ-thần Gabriel truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria: “Sứ thần vào nhà
trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng
bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.
Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ
nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến
muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
2.2/
Phản ứng của Đức Trinh Nữ Maria: Vì đã khấn giữ mình đồng trinh, Maria thưa với sứ thần:
"Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Điều
Maria muốn giữ mình đồng trinh là điều đẹp lòng Thiên Chúa, vì Ngài muốn Con của
Ngài nhập thể trong một cung lòng thanh sạch và tinh tuyền như thế. Hơn nữa, lời
tiên tri của Isaiah cũng đã báo trước về người trinh-nữ này (parthenos,
Isa 7:14).
Đức
Trinh Nữ, cũng giống như nhiều người chúng ta, thắc mắc theo sự hiểu biết của
con người: Làm sao thụ thai và sinh con mà còn đồng trinh? Chúng ta quên đi
cách của Thiên Chúa: có thể giữ mình đồng trinh mà vẫn sinh con. Sứ thần cắt
nghĩa cách của Thiên Chúa: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng
Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là
Con Thiên Chúa.” Sứ thần đưa một bằng chứng cụ thể: “Kìa bà Elizabeth, người họ
hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị
mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được."
Sau
khi đã lắng nghe lời cắt nghĩa của Sứ-thần, Đức Trinh Nữ Maria nói: "Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi
sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra uy quyền và sức mạnh của Thiên
Chúa; đồng thời phải biết khiêm nhường nhận ra sự thấp hèn và yếu đuối của
mình.
-
Chúng ta phải luôn luôn vâng phục và thi hành thánh ý Thiên Chúa, cho dù chúng
ta không luôn luôn hiểu thấu ý định của Ngài.
-
Một điều chúng ta phải tâm niệm: Đối với Thiên Chúa, không có gì gọi là không
thể. Chúng ta đừng bao giờ giới hạn Thiên Chúa vào những cái có thể của con người.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT
GIỐNG NẢY MẦM
TUẦN
BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ GIÁNG SINH
Lc
1,26-38
A.
Hạt giống...
Bài
Tin Mừng hôm nay giới thiệu nhân vật quan trọng nhất trong việc Chúa Cứu Thế
sinh ra : Đức Maria.
1.
Thánh Luca trình bày Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” là âm hưởng
của lời ngôn sứ Xôphônia nói với thiếu nữ Sion : x. Xp 8,14). Ngày xưa qua
miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa). Lời
hứa này hôm nay được thực hiện nơi Đức Mẹ.
2.
So sánh Đức Maria với ông Dacaria : khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria
và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự không
tin (câu 20 : Lời thiên sứ nói “Bởi vì ông không tin”). Còn câu hỏi của Đức
Maria là để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào ?”), và sau đó Người
đã mau mắn thưa Fiat.
B....
nẩy mầm.
1.
Đức Maria hỏi “Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...”. Thiên sứ đáp “Đối với
Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người
tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được : Ngài đã làm
cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu
Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn
là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2.
Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường
Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng
Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác
bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình :
“Xin cứ làm cho tôi...”.
3.
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được.
Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng
hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ.
Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt
bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi
về chiếc đồng hồ. Anh đáp :
-
Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
-
Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao
nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.
4.
Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng một hành vi đức tin của Abraham. Ông
được gọi là “cha của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng bắt đầu bằng
hành vi đức tin của Đức Mẹ. Đức Maria được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Lịch sử
cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vị đức tin của người đó.
5.
“Sứ thần nói với cô Maria : Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt
tên là Giêsu”. Cô Maria thưa với sứ thần : “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi
xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,31.38)
Một
biến cố như cuồng phong chợt đến trong tâm tư người thôn nữ Nadarét, làm đảo lộn
mọi dự tính, mọi ước mơ. Và có nguy cơ bị hiểu lầm, ruồng rẫy… Nhưng Mẹ Maria
đã dám “Xin Vâng”, tin tưởng phó thác vào tình thương và sự tín trung của Thiên
Chúa. Mẹ đã dám “Xin Vâng” và nhận mình là bé nhỏ, là thuộc về. Mẹ đã dám “Xin
Vâng”, và nhận được sự bình an.
Tuổi
trẻ luôn có nhiều ước mơ, hoài bão, tự xây cho mình nhiều kế hoạch để khẳng định
chính mình, nên rất sợ những biến cố, những tai họa, vì chúng tạo ra những thay
đổi, gây nên những thất bại và làm đổ bể mọi kế hoạch. Tôi lo lắng, sợ hãi vì
chưa biết chấp nhận sự nhỏ bé của mình, chưa tin tưởng phó thác vào Tình yêu của
Thiên Chúa, và chưa dám Xin Vâng như Mẹ Maria.
Lạy
Mẹ Maria, xin dạy con biết Xin Vâng như Mẹ. Xin Vâng mỗi ngày trong suốt cuộc sống
của con, để dù cuộc sống có như thác đổ, lòng con vẫn cứ bình an vì biết rằng
Chúa luôn đồng hành với con. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp.Cần Thơ
20/12/13 THỨ SÁU TUẦN 3 MV
Lc 1,26-3
Lc 1,26-3
XIN VÂNG ĐÁP LẠI XIN VÂNG
Bấy giờ bà Maria nói :” Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm nơi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38)
Suy niệm: Nhìn
ngắm mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta nhận ra Chúa Con cũng thưa xin vâng chứ không
riêng chi Đức Maria. Và mọi sự không bắt đầu từ tiếng xin vâng của Đức Mẹ Maria
cho bằng từ tiếng xin vâng của Chúa Con: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thi
hành ý Ngài” (Dt 10,7). Con đến vì “máu các con bò, con dê không thể nào xóa được tội lỗi.”
Con đến vì “Chúa không ưa hy lễ và hiến tế, không thích lễ toàn thiêu và lễ xá
tội.” Con đến để “hiến dâng thân mình làm lễ tế xóa tội.” Đức Mẹ Maria cũng đã hiến dâng chính mình như
thế, trong tiếng xin vâng của Mẹ: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa xin Ngài cứ thực hiện cho tôi như lời sứ
thần truyền.” Với tiếng xin vâng này, Mẹ họa lại cách tuyệt vời tiếng xin vâng
của Chúa con. Với tiếng xin vâng, Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa vì ơn cứu độ
của con người.
Mời Bạn: Đón
mừng Con Chúa giáng trần là chúng ta mừng Con Chúa đến hiến mình cho ta được
sống và sống dồi dào. Là người đang được nếm cảm sự sống dồi dào của Thiên
Chúa, bạn cũng hãy noi gương Chúa Giêsu và Đức Maria, sẵn sàng nói tiếng xin
vâng với lời mời gọi của Thiên Chúa vì ơn cứu độ cho những người chung quanh.
Sống Lời Chúa: Khi an vui cũng như lúc sầu khổ hãy để thánh ý
Chúa được thực hiện nơi chúng ta bằng cách thưa như Đức Mẹ: “Con đây là tôi tớ Chúa, xin
Chúa cứ thực hiện ý Ngài”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin đến và sống trong con, để con trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa, sẵn sàng thưa với Chúa Cha: Lạy Cha, này con đây, con
đến để thi hành ý Ngài. Amen.
Tôi
đây là nữ tỳ của Chúa
Suy
niệm:
Cách
nay gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này
vào
lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.
Hôm
nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng
của
những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.
Các
sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.
Luca
chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc
1, 39-45).
Còn
Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời
đón
nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).
Nhưng
thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,
nhất
là đối với người mẹ trẻ sinh con so.
Các
bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,
mầu
nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.
Dần
dần mỗi chuyển động của thai nhi
và cả nhịp
tim cũng được người mẹ cảm nhận.
Thai
nhi trở thành người trọn vẹn
nhờ được
dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.
Con
Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.
Ngài
không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,
nhưng
Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.
“Khi
vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…
Bấy
giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con
đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).
Con
Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.
Tiếng
Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,
để “trở
nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).
Khi
trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,
Con
Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.
Ngài
vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất
để
Ngài thực sự là anh em của họ.
“Tôi
đây là nữ tỳ của Chúa.
Xin
xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).
Ngay
sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,
và Con
Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).
Ngài
từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…
Đấng
Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,
để
nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.
Đức
Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.
Chúng
ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.
Thời
gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.
Để
có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,
cũng
cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.
Chúng
ta phải mang Ngài trong lòng mình,
kiên
nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.
“Ai
thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin
cho con gặp được ánh mắt của Chúa
ít
là một lần trong đời.
Khi
tương lai con đang vững vàng ổn định,
xin
hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi
và
mời gọi con đứng lên theo Chúa,
bỏ
lại tất cả những gì con cậy dựa.
Khi
con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,
xin
hãy quay lại nhìn con
bằng
ánh mắt xót thương, tha thứ,
để
con òa khóc như trẻ thơ.
Khi
con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,
xin
hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương
như
Chúa đã trìu mến
nhìn
người thanh niên giàu có.
Khi
con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,
xin
Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,
như
Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu
và
cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.
Lạy
Chúa Giêsu,
xin
dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay
bằng
ánh mắt của Chúa.
Chúa
động lòng thương
khi
thấy bao người yếu đau,
thấy
đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.
Ánh
mắt Chúa thấu suốt lòng người.
Chúa
buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,
nhưng
Chúa cũng vui
khi
thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.
Đôi
mắt Chúa đã từng nhòa lệ
trước
cái chết của người bạn thân là Ladarô,
và
trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.
Lạy
Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Xin
cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
"Maria đừng sợ, vì
đã được nghĩa với Chúa".
Rất nhiều lần trong Thánh
Kinh, Thiên Chúa nói với chúng ta "đừng sợ", nhất là khi Người
trao ban cho ai một nhiệm vụ nặng nề nào đó. Đừng sợ vì có Chúa ở cùng để giúp
sức. Chẳng hạn:
Chúa muốn Môsê trở lại
Ai-cập để giải phóng dân Người ra khỏi cảnh nô lệ. Một nhiệm vụ quá sức đối với
Môsê và làm cho ông sợ hãi vì ông đã từng trốn cuộc bách hại của vua Ai-cập.
Khi ấy, Chúa bảo ông: "Đừng sợ, Ta sẽ ở với ngươi" (Xh 3,12).
Với sự trợ giúp của Chúa, Môsê đã dẫn dân Israel ra khỏi Ai-cập, tiến về đất
hứa.
Thẩm phán Ghêđêon cũng
thế. Ông chỉ là một nông dân quê mùa, yếu đuối. Thế mà Chúa trao nhiệm vụ cho
ông lãnh đạo dân Israel chống lại quân Mađian. Khi gọi ông, Chúa cũng nói:
"Đừng sợ, Ta ở với ngươi" (Tl 6,12). Từ một con người yếu
đuối, với sự trợ giúp của Chúa, Ghêđêon chỉ với ba trăm người, đã chiến thắng
quân Mađian hùng mạnh.
Tương tự với Phaolô, Chúa
sai ông đi rao giảng Tin mừng cho dân ngoại. Phía trước cuộc hành trình truyền
giáo, có biết bao khó khăn đang chờ đón ông, nhưng Chúa phán bảo ông: "Đừng
sợ, song cứ nói đi, đừng làm thinh! vì Ta ở cùng ngươi" (Cv 17,9-10a).
Và Phaolô không ngại gian nan, chống đối và cả bắt bớ để rao giảng Lời Chúa.
Ông đã đưa biết bao người trở về với Chúa, và thành lập không ít giáo đoàn.
Thiên Sứ cũng bảo với
Maria: "đừng sợ". Có lẽ nỗi sợ của Maria trước tiên là sự xuất
hiện của Sứ Thần Thiên Chúa. Nhưng chắc chắn, sứ mệnh mà Chúa sắp trao phó sẽ
làm cho Mẹ không khỏi lo sợ. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ ở cùng Mẹ, uy quyền của
Đấng Tối bao sẽ bao trùm Mẹ.
Thái độ cần có của con
người là tin vào Chúa và để cho Chúa hành động. Môsê, Ghêđêon, Maria và Phaolô
đã làm như thế. Thiên Chúa sẽ trợ giúp và hành động trên sự yếu kém của con
người để làm những điều vĩ đại.
Có biết bao điều làm cho
chúng ta sợ hãi. Thiên Chúa không ngừng ngỏ lời với chúng ta: "đừng sợ,
vì Ta ở cùng con". Chúng ta có nhận ra điều đó không?
Hãy tin tưởng và để cho
Chúa đi vào cuộc đời chúng ta.
Hãy để cho Chúa hành động
với chúng ta. Nếu chúng ta tin tưởng vào Chúa, chúng ta không còn sợ gì, vì
Chúa là Emmanuel, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Lạy Chúa, chúng con tin
rằng Chúa luôn ở bên chúng con. Xin cho chúng con luôn ý thức sự hiện diện của
Chúa và trong mọi việc, xin cho chúng con luôn biết để cho Chúa hướng dẫn.
Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20
THÁNG MƯỜI HAI
Ngàn Đời Xưa Cho Tới
Ngàn Đời Sau
Phụng
vụ không chỉ trình bày cho chúng ta niềm vâng phục từ đời đời của Chúa Con: “Lạy
Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa.” Phụng vụ cũng không chỉ giới
thiệu cho chúng ta niềm vâng phục của người phụ nữ được chọn trước để làm người
mẹ trần gian của Chúa Con. Phụng vụ còn nêu rõ nơi chốn mà ở đó mầu nhiệm Nhập
thể được hoàn thành.
Vâng,
lời Ngôn Sứ Mi-ca nói rõ một địa danh: Bê-lem! Đó chính là nơi mà người Con đời
đời được tỏ lộ lần đầu tiên trong hình hài nhân loại. Con Thiên Chúa cũng là
Con Người, Con của Đức Maria. Đây là lời ngôn sứ: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem
Eùp-ra-ta, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho
xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel. Nguồn gốc ngài có từ trước, từ
thuở xa xưa” (Mk 5,1).
Nguồn
gốc ‘từ trước, từ thuở xa xưa’ ấy tất nhiên là từ nguyên thủy. Đó chính là tính
vĩnh cửu của Con Một yêu dấu của Thiên Chúa. “Khi một phụ nữ sẽ sinh con, bấy
giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Israel.” (Mk
5,2). Cuộc sinh hạ này của Con Thiên Chúa từ cung lòng đức Trinh Nữ là sự khởi
đầu của Israel mới, dân mới của Thiên Chúa. Dân mới này của Thiên Chúa là ‘anh
chị em’ của Đức Kitô, là những người nhờ ân sủng sẽ trở thành con trong Chúa
Con. Họ sẽ được ‘trao ban sức mạnh để trở thành con cái Thiên Chúa,’ như thánh
Gioan nói trong lời mở đầu Sách Tin Mừng của ngài (Ga 1,12).
Nơi
chốn mà tất cả những điều đó phải được hoàn thành, một nơi chốn sẽ được ghi nhớ
muôn đời trong lịch sử cứu độ, đó là thị trấn bé nhỏ Bê-lem Eùp-ra-ta.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 20-12
Is 7, 10-14; Lc 1, 26-38.
LỜI SUY NIỆM: “Thưa bà Maria,xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”
Biến cố trọng đại đến với Đức Mẹ là khi sứ thần
Gáp-ri-en truyền tin về chuyện Đức Mẹ làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa, Mẹ đã bối rối
đi đến sợ, nhưng Đức Mẹ đã lắng nghe và Đức Mẹ đã tin “Đối với Thiên Chúa không
có gì là không thể làm được” Nên Đức Mẹ đã cúi đầu “xin vâng” và xin Thiên Chúa
thực hiện như lời sứ thần nói.
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc đời mỗi người trong gia
đình của chúng con đây, cũng đang và sẽ gặp những biến cố lớn nhỏ; mỗi lúc như
vậy; xin cho chúng con biết lắng nghe qua sự nối kết với Lời Chúa để vững tin
phó thác vào sự quan phòng của Chúa.
Mạnh
Phương
20 Tháng Mười Hai
Không Nhà Không Cửa
Hiện
nay trên thế giới có khoảng một trăm triệu người không có nhà để ở. Riêng tại
Châu Mỹ La Tinh, có khoảng 20 triệu trẻ em đang ngủ đầu đường xó chợ. Nhìn
chung, có một tỷ người trên thế giới không có được một nơi ở tươm tất.
Trên
đây là kết quả của một cuộc điều tra dựa trên những con số do các Hội Ðồng Giám
Mục và các Giáo Hội Công Giáo địa phương cung cấp. Cuộc điều tra này do Ủy ban
công lý và hòa bình của tòa thánh thực hiện và ấn hành thành lập một tập tài liệu
vào dịp cuối năm quốc tế những người không nhà không cửa do Liên Hiệp Quốc khởi
xướng năm 1988 vừa qua.
Theo
tập tài liệu này thì vấn đề nhà ở chắc chắn là một trong những vấn đề trầm trọng
nhất của thế giới ngày nay. Tài liệu cho thấy những kẻ không nhà là những người
nghèo nhất trong số những người nghèo và tố cáo những người chủ nhà chỉ vì tính
toán thủ lợi mà thà bỏ trống những căn nhà hơn là hạ giá để nâng đỡ những kẻ
không nhà.
Chúa
Giêsu đã chào đời như một con người không nhà không cửa.
Ngài
đến là để cho con người được sống và sống một cách sung mãn. Tiếng kêu khóc
chào đời của Ngài giữa khung cảnh cùng cực của hang lừa máng cỏ, là tiếng kêu
than của hàng triệu triệu trẻ em đang bị tước đoạt quyền sống, đang bị từ chối
những điều kiện cơ bản nhất để được sống như con người.
Máng
cỏ mà chúng ta đang chuẩn bị ở nhà thờ hay trong gia đình phải là một nhắc nhở
cho chúng ta về sự hiện diện và tiếng van xin của không biết bao nhiêu người
không nhà, không cửa xung quanh chúng ta. Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta
đang nhìn thấy tận, mắt thế nào là cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
Chúng
ta chuẩn bị một trú ngụ cho Hài Nhi Giêsu, chúng ta có nghĩ đến những người
cùng khổ xung quanh chúng ta không?
Chúng
ta có biết rằng khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ của người anh em
chúng ta là chính lúc chúng ta khước từ Chúa Giêsu không?
Chúng
ta có biết rằng ngày Giáng Sinh của Chúa Giêsu cũng là ngày Giáng Sinh của những
con người cùng khổ nhất không?
Chắc
chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ đến trong máng cỏ hào nhoáng của chúng ta, nếu
chúng ta xua đuổi những người khốn khổ xung quanh chúng ta.
(Lẽ
Sống)
20-12
Thánh Elizabeth ở Áo
(1554 -
1592)
L
|
à con gái
của Hoàng Ðế Maximilian II nước Ðức, Elizabeth kết hôn với Vua Charles IX của
Pháp khi mới 15 tuổi. Bốn năm sau ngài đã thành góa phụ, trở về Vienna, nhất
định không tái hôn.
Thánh nữ
là một gương mẫu cho tất cả mọi người. Ðời sống của ngài thật đơn giản, luôn
cầu nguyện, siêng đến nhà thờ, tham dự các buổi nguyện ngắm. Trong khi cố tránh
con mắt dòm ngó của công chúng, ngài gia nhập Dòng Ba Phanxicô, phục vụ bệnh
nhân trong các nhà thương hoặc ở nhà, tiếp tế thuốc men cho những người có nhu
cầu. Nhiều ngày thứ Năm, ngài mời những người nghèo đến ăn cùng bàn với ngài để
tưởng nhớ bữa Tiệc Ly.
Ngài
thường thi hành những công việc hèn mọn ở tu viện Thánh Clara Nghèo Hèn mà ngài
giúp thành lập, ở đó ngài nấu ăn cho người nghèo. Cũng như Cha Thánh Phanxicô,
ngài lo lắng đến việc duy trì giáo hội. Ngài giúp đỡ cho việc giáo dục người
trẻ trong ơn gọi tu trì để phục vụ Giáo Hội.
Thánh
Elizabeth từ trần khi ngài khoảng 38 tuổi, sau khi đã hoàn tất quá nhiều công
việc để vinh danh Thiên Chúa và vì lợi ích cho người dân. Nhiều phép lạ đã xảy
ra tại ngôi mộ của ngài.
Thánh Ðaminh ở Silos
(c. 1073)
Ð
|
aminh sinh
vào đầu thế kỷ mười một và là cậu bé chăn cừu Tây Ban Nha ở dưới chân rặng
Pyrênê. Chính trong thời gian này Ðaminh dần dà yêu quý việc cầu nguyện. Không
bao lâu ngài trở thành một tu sĩ thật tốt lành. Ðaminh được bầu làm tu viện
trưởng và đã đem lại nhiều thay đổi tốt đẹp.
Tuy nhiên,
một ngày kia, quốc vương Garcia III của Navarre, Tây Ban Nha, cho rằng một số
đất đai tu viện là của ông ta, nhưng tu viện trưởng Ðaminh từ chối không trao
lại cho nhà vua. Ngài nghĩ rằng, thật không đúng để trao cho nhà vua những gì
thuộc về Giáo Hội. Quyết định này đã làm nhà vua tức giận. Ông ra lệnh Thánh
Ðaminh phải rời bỏ vương quốc của ông. May mắn thay, Thánh Ðaminh và các tu sĩ
lại được đón nhận bởi một ông vua khác, là Ferdinand I của Castile. Ông này để
cho thánh nhân sử dụng một tu viện cũ, là tu viện St. Sebastian ở Silos. Tu
viện này ở một chỗ rất lẻ loi và trong tình trạng thật xiêu vẹo. Nhưng với bàn
tay của các tu sĩ, không bao lâu, tu viện đã mang một khuôn mặt mới. Thật vậy,
thánh nhân đã biến tu viện này thành một trong những tu viện nổi tiếng nhất ở
Tây Ban Nha.
Thánh
Ðaminh làm nhiều phép lạ chữa lành ngay khi còn sống và ngài cũng cứu thoát
người tín hữu Kitô khỏi tay người Moor. Nhiều năm sau khi từ trần, thánh nhân
hiện ra với một bà mẹ, tên là Joan (bây giờ là Chân Phước Joan ở Aza) khi bà
đến đền kính thánh nhân để cầu xin một đứa con. Thánh Ðaminh nói với bà rằng
Thiên Chúa sẽ gửi cho bà một đứa con trai. Khi người con ấy chào đời, bà đặt
tên con là Ðaminh de Guzman. Và người con này trở thành vị đại thánh sáng lập
dòng Ðaminh ngày nay.
Thánh
Ðaminh ở Silos từ trần ngày 20-12-1073.
(tongdosongdaovt.blogspot.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét