TUẦN BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ
GIÁNG SINH
Ngày 24 tháng 12
Mùa Vọng
Bài
Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 16
"Vương
quốc Ðavít sẽ tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời".
Trích
sách Samuel quyển thứ hai.
Khi
ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi
quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy
không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều
bằng da ư?" Nathan trả lời với vua rằng: "Ðiều gì vua nghĩ trong
lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua".
Nhưng
xảy ra (là) đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với
Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta
một ngôi nhà để ở chăng?" Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn
theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng
ngươi trong mọi nơi ngươi đi; Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi. Và
Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng, như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất.
Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở
đó và sẽ không còn bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó
như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ
cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là
Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc
đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con
sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng:
1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi
loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng
vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2)
Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của
Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập
ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3)
Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu
độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với
người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Lạy Ðức Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ
và dịu dàng, xin hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 1, 67-79
"Vầng
đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
"Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc
dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền
thế? để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự
ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn
bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ
Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để
ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời
ta.
"Hài
nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước
Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết
mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng
thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước
vào đường nẻo bình an".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lời
Ca Ngợi Thiên Chúa Của Zacharia
Trong
bài trích sách Samuel quyển thứ II, chúng ta thấy: "Khi ấy vua David ngự
trong đền và khi Thiên Chúa cho ông được bình an tư bề, khỏi mọi quân thù chung
quanh thì David nói với tiên tri Nathan rằng: Ông thấy không, ta ở trong nhà
làm bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư? Và xảy ra
đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với David tôi tớ của
Ta rằng, có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi đền để ở chăng? Ta đã đem
ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đàn chiên để trở nên thủ lãnh
Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi mọi nơi ngươi đi, Ta sẽ làm cho ngươi nên
cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Nhà của ngươi và triều đại của
người sẽ vững bền đến muôn đời".
Sau
khi đem David ra khỏi nghề chăn chiên để lên làm vua Israel, dẹp yên mọi quân
thù thì ý Thiên Chúa muốn David làm một ngôi Ðền Thờ để thờ phượng Thiên Chúa.
Vua David cũng muốn thế và ông đã thực hiện. Con người không thể cầu nguyện ở
những nơi đông đúc giữa ngã tư đường phố, nơi chợ búa ồn ào được, nhưng cầu
nguyện ở nơi yên tĩnh để tâm sự nói chuyện với Chúa. Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh
nộ khi thấy dân Do Thái biến nơi tôn nghiêm thành nơi buôn bán đổi chác tiền bạc:
"Các ngươi đã biến nhà Ta thành nơi trộm cắp. Nhà Ta là nhà cầu nguyện".
Thiên
Chúa hằng vẫn ở với chúng ta trong Nhà Tạm, Ngài luôn kêu mời mỗi người chúng
ta đến với Ngài, đến để tìm nguồn an ủi trong cuộc sống, đến để tim nguồn nghị
lực và sức mạnh để lướt thắng mọi trở ngại ngăn lối về nhà Cha. Nhưng mấy ai đã
tìm đến với Ngài hay chỉ có ngọn đèn dầu màu đỏ leo lét hẩm hiu vô tri làm bạn
với Chúa hằng ngày mà thôi.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Zacharia được đầy tràn Chúa Thánh Thần, ông nói tiên tri
về Chúa Kitô là Ðấng cứu rỗi sẽ đến. Không phải ai cũng có thể nói tiên tri được,
chỉ những người thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa, Chúa mới cho họ quyền nói tiên
tri, làm phép lạ, nói được các thứ tiếng loài người như trong ngày lễ ngũ tuần
các tông đồ chỉ giảng bằng tiếng của mình mà những người nghe đều hiểu theo tiếng
bản xứ của họ.
Nhưng
Thiên Chúa yêu thích hơn nếu chúng ta có tâm tình mến Chúa thực sự: "Nếu
tôi được ơn nói tiên tri mà tôi không có đức mến Chúa thì cũng chẳng có ích gì.
Nếu làm được nhiều phép lạ mà tôi không có lòng mến Chúa thì cũng ích gì cho
tôi". Ðức tin và đức cậy sẽ mất khi con người nhắm mắt, chỉ còn lòng mến
Chúa là tồn tại mãi trong Nước Trời. Cho nên Thập Giới của đạo Công Giáo chỉ
tóm gọn trong đức "Mến Chúa - Yêu Người", vì thế mà đạo Công Giáo còn
được gọi là đạo của "Yêu Thương".
Lạy
Chúa, xưa Chúa đã phán: "Nhà Ta là nhà cầu nguyện", xin Chúa cho
chúng con luôn nhớ điều đó để chúng con luôn tìm đến với Chúa trong những lúc
âu lo chán nản, đau khổ và thất vọng để chính lúc đó chúng con biết cầu nguyện
cách thật sốt sắng và chỉ biết bám chặt, tin tưởng trọn vẹn vào Ngài.
Lạy
Chúa, luật của Chúa thật ngắn gọn và đơn sơ, đó là "Mến Chúa và Yêu Người"
nhưng không dễ áp dụng, xin Chúa cho chúng con nhìn thấy Chúa qua mọi người
chung quanh để chúng con dễ yêu mến họ hơn.
Lạy
Chúa, hôm nay là ngày cuối của Mùa Vọng, xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị
tâm hồn và thể xác, bên trong lẫn bên ngoài để chúng con hiệp ý với Giáo Hội
hân hoan mừng đón Chúa Giáng Sinh, vì Ngài đến để đem ơn cứu rỗi và sự bình an
cho mọi người. Amen.
(Veritas Asia)
Lectio Divina: Luca 1:67-79
Thứ Ba, 24 Tháng 12, 2013
Tuần thứ tư Mùa
Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa, Thiên Chúa đầy yêu thương và quyền năng
Chúa đã hoàn thành những lời hứa của Chúa để cứu rỗi chúng con
Khi Chúa Giêsu, Con Một Chúa, đã trở nên người phàm như chúng
con.
Chúng con không còn ở trong bóng tối,
Vì Chúa đã để cho ánh sáng của Chúa tỏa sáng trên chúng con.
Giờ đây, xin hãy mang lại ơn cứu độ của Chúa,
Xin hãy giải thoát chúng con khỏi mọi tội lỗi,
Để chúng con trở nên con người hoàn toàn với Chúa Giêsu
Và cùng đi với Người trong đường lối yêu thương và hòa bình của
Chúa.
Xin hãy để cho Người là sức mạnh của chúng con,
Là người bạn đồng hành thường xuyên của chúng trên đường,
Để nhờ Người và tăng trưởng trong nhân tính của Người,
Để cho chúng con có thể là các con cái yêu dấu của Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Luca 1:67-79
Khi ấy, Giacaria, cha của Gioan được đầy Thánh
Thần, liền nói tiên tri rằng:
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel đã
viếng thăm cứu chuộc dân Người.
Từ dòng dõi trung thần Đavít, Người đã cho
xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị
thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa:
Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi
kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao
ước Chúa đã thề với tổ phụ Ábraham:
rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và
cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà
phụng thờ Người suốt cả đời ta.
Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ
của Đấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho
dân Chúa biết:
Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội
khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời
viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn
ta bước vào đường nẻo bình an.”
3. Suy Niệm
- Bài Ca Vịnh của ông Giacaria là
một trong nhiều bài ca vịnh của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi mà chúng ta tìm
thấy được phân tán trong các tác phẩm của Tân Ước: trong các sách
Phúc Âm (Lc 1:46-55; 2:14; 2:29-32), trong các Thư của Thánh Phaolô (1Cr 13:1-13;
Êp 1:3-14; 2:14-18; Pl 2:6-11; Cl 1:15-20) và trong sách Khải Huyền (1:7; 4:8;
11:17-18; 12:10-12; 15:3-4; 18:1 cho đến 19:8). Những bài Ca Vịnh
này cho chúng ta một ý tưởng làm thế nào đức tin và phần phụng vụ hằng tuần đã
được sống trong những thời điểm đầu tiên. Chúng cho chúng ta đoán
rằng phần phụng vụ là việc kỷ niệm mầu nhiệm đồng thời cũng là sự tuyên xưng
đức tin, làm sống động niềm hy vọng và học hỏi giáo lý.
- Ở đây trong bài Ca Vịnh của ông
Giacaria, các thành viên của những cộng đoàn Kitô hữu, hầu hết là những người
Do Thái, đã hát lên niềm vui của việc được sự viếng thăm do lòng nhân hậu của
Thiên Chúa, trong Đức Giêsu, những lời hứa được thực hiện. Bài Ca
Vịnh có cấu trúc tuyệt đẹp, khéo trau chuốt. Nó có vẻ giống như một
cuộc leo núi chậm dẫn dắt các tín hữu lên đỉnh của ngọn núi, từ đó họ quan sát
con đường mà họ đã đi qua từ thời ông Ábraham (Lc 1:68-73), họ trải nghiệm được
sự bắt đầu thực hiện các lời hứa (Lc 1:74-75) và từ đó họ nhìn về phía trước;
họ thấy trước con đường mà trẻ thơ Gioan sẽ phải đi đến thời điểm giáng sinh
của Chúa Giêsu: mặt trời của sự Công Chính, người đến để chuẩn bị
cho mọi người, dẫn đường vào nẻo Bình An (Lc 1:76-79).
- Ông Giacaria bắt đầu chúc tụng Thiên Chúa bởi
vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người (Lc 1:68). Người
đã thiết lập cho chúng ta một vị Cứu Tinh quyền thế từ dòng dõi nhà Đavít, tôi
tớ của Người (Lc 1:69), như Người đã dùng miệng các ngôn sứ của Người phán hứa
từ ngàn xưa (Lc 1:70). Và ông mô tả những gì mà ơn cứu rỗi quyền năng này
bao gồm: rằng Người sẽ giải phóng chúng ta khỏi tay địch thù và
thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét chúng ta (Lc 1:71). Ơn cứu rỗi này
là kết quả, chẳng phải từ những nỗ lực của chúng ta, mà chính là bởi lòng
thương xót nhân hậu của Thiên Chúa là Đấng nhớ lại Giao Ước thánh của Ngài và
lời thề của Chúa với Ábraham, tổ phụ chúng ta (Lc 1:72). Thiên Chúa
là Đấng thành tín. Đây là nền tảng cho sự bình an của chúng ta.
- Ông Giacaria tiếp tục mô tả những gì trong lời
thề của Thiên Chúa với tổ phụ Ábraham gồm có: đó là niềm hy vọng
rằng “được giải thoát khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta có
thể phụng thờ Người trong thánh thiện và công chính, trước nhan Người, suốt cả
đời ta.” Đây là ước muốn lớn nhất của mọi người trong tất cả mọi
thời đại: sống trong bình an, không sợ hãi, phụng thờ Thiên Chúa và
phục vụ tha nhân, trong sự thánh thiện và công chính, mọi ngày suốt đời chúng
ta. Đây là đỉnh của ngọn núi, điển hẹn, hiện ra ở chân trời cùng với
sự chào đời của Gioan Tẩy Giả (Lc 1:73-75).
- Bây giờ sự chú ý của bài Ca Vịnh
được hướng về Gioan Tẩy Giả, hài nhi mới sinh. Em bé sẽ là ngôn sứ
của Đấng Tối Cao, bởi vì em sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Người, bảo cho
Dân Chúa biết về ơn cứu rỗi qua việc tha thứ các tội lỗi của họ (Lc
1:76-77). Ở đây chúng ta có sự ám chỉ rõ ràng về lời tiên tri cứu
thế nói rằng: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với
người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa’, vì thết thảy chúng, từ người
nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ
tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31:34). Trong
Kinh Thánh động từ “biết” cũng đồng nghĩa với “trải nghiệm”. Sự tha
thứ và hòa giải khiến cho chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa.
- Tất cả điều này sẽ là kết quả của
hành động đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và sẽ được thực hiện đầy đủ với sự
giáng sinh của Chúa Giêsu: “Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm ta,
soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào
đường nẻo Bình An” (Lc 1:78-79).
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc
suy gẫm cá nhân
- Đôi khi chúng ta nên đọc các bài
Ca Vịnh như thể chúng ta đọc lần đầu tiên, trong cách như vậy là để có thể khám
phá ra trong đó tất cả các tính chất mới mẻ của Tin Mừng Thiên Chúa.
- Thỉnh thoảng bạn đã có cảm nghiệm
được sự tốt lành của Thiên Chúa chưa? Đôi khi bạn đã có cảm nghiệm
được sự tha thứ của Thiên Chúa chưa?
5. Lời nguyện kết
Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng,
Qua muôn ngàn thế hệ
Miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
Vâng con nói: “Tình thương ấy được
xây dựng tới thiên thu,
Lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.” (Tv 89:1-2)
Lc 1,67-79
A. Hạt giống...
Những ý lớn trong bài ca của Dacaria :
1. Thiên Chúa đã thực hiện Lời hứa cứu độ mà Ngài
đã hứa từ ngàn xưa với các tổ phụ và qua miệng các ngôn sứ.
2. Hôm nay Con Thiên Chúa là “Vầng Đông” đã xuất
hiện, mở màn một kỷ nguyên mới.
3. Gioan sẽ là Tiền hô cho Ngài : mở lối cho
Ngài đi, và báo tin vui cứu độ cho nhân loại.
B.... nẩy mầm.
1. Bài ca này được Phụng vụ chọn cho chúng ta đọc
buổi sáng lúc bắt đầu một ngày mới, nhằm nhắc chúng ta : a/ Hãy sống một
ngày trong ánh sáng của “Vầng đông” Chúa Cứu Thế ; b/ Hãy sống như
Gioan : mở lối cho Chúa đến thăm anh chị em mình ; loan báo tin vui
cứu độ cho họ.
2. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi
Chúa đã làm ra nó trước cà trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất
hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách :
ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quấn
áo. Nhờ có ánh sáng, ta mới thấy được sự vật quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc
chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại ; Hãy nghĩ tới
ánh sáng của các ngọn đèn : ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ
chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối ; Nếu không có ánh sáng, sinh
vật không lớn lên được và sẽ chết dần mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và
vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).
Chúng ta hãy bắt đầu mỗi ngày mới với tâm tình
của Dacaria trong bài ca Benedictus “Chúc tụng Thiên Chúa... cho Vầng đông từ
chốn cao vời viếng thăm ta”.
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
Suy niệm
Tin
mừng trong ngày cuối cùng của mùa vọng, Giáo hội như mời gọi chúng ta hợp ý với
ông Giacaria dâng lên Thiên Chúa lời tri ân chúc tụng qua bài ca Benedictus.
Cùng
với Giacaria chúng ta hãy hướng nhìn về ba phía để tạ ơn và chúc tụng Thiên
Chúa tình thương.
-
Hướng nhìn về quá khứ.
Nhìn
lại quá khứ, Giacaria nhận thấy Chúa là Ðấng thành tín và đầy yêu
thương.
Vì
yêu thương con người, nên ngay khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban
Đấng cứ độ. Để khởi đầu thực hiện lời hứa này, Thiên Chúa chọn gọi tổ phụ
Abraham làm cha của kẻ tin và kí kết với ông lời giao ước cứu độ. Trãi qua dòng
lịch sử với những biến cố thăng trầm của dân tộc Israel, Thiên Chúa vẫn hằng
trung tín. Ngài không hề quên lời hứa qua việc sai các ngôn sứ, các tiên
tri loan báo và chuẩn bị tâm hồn cho dân đón nhận vị cứu tinh quyền thế. Ngài
đến “để cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng
ghen ghét, sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên vì nhớ lại lời xưa giao
ước”.
- Hướng nhìn vào hiện tại
Nhìn vào hiện tại,
Giacaria quá đổi vui mừng vì được Chúa thương ban người con yêu quý là Gioan
Tẩy Gỉa. Trước biến cố lạ lùng này, Giacaria như nhìn thấy một tia sáng hy vọng ở phía chân
trời khi nói
tiên tri về sứ mạng của người con ông: với tư cách Tiền hô, con trẻ rồi đây sẽ công
bố sứ điệp, chuẩn bị lòng dân đón nhận Đấng Cứu Thế, khơi dậy trong tâm
hồn Dân Chúa lòng khát khao ơn
cứu độ. Ơn cứu độ này được thực hiện suốt dòng lịch sử Dân Chúa và sẽ
được thành toàn nơi Đức Kitô, Đấng cứu độ bằng tình thương tha thứ.
- Hướng nhìn đến tương lai
Giacaria kết thúc bài thánh ca
khi cho ta biết lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa được tỏ hiện vì Ngài chạnh lòng
thương chúng ta. Chính vì lòng nhân nghĩa mà “Vầng Đông từ
cao vời viếng thăm ta". "Vầng Đông" chính
là Đấng Mêsia, Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài sẽ soi sáng những kẻ ngồi
trong bóng tối sự chết như những lữ hành lạc đường đợi trời sáng để tiếp tục
cuộc hành trình, và dẫn đưa họ tiến bước trong bình an.
Tâm
tình của Dacaria mở ra con đường đầy hy vọng cho Dân Chúa, đồng thời cũng là
lời mời gọi chúng ta hãy dâng Chúa lời Chúa tụng, ngợi khen vì muôn ơn lành
Chúa thương ban cho ta.
Ước
gì trong giờ phút này khi mà chúng ta đang bận rộn chuẩn bị lễ
Giáng Sinh, nhưng hãy đừng quên hướng về quá khứ để
cảm tạ muôn ơn lành Chúa thương ban trong suốt một năm qua.
Ước
gì trong giờ phút hiện tại này, lòng chúng ta cũng ngập tràn niềm
vui và hạnh phúc như ông Giacaria vì mỗi người chúng ta đã dọn con đường đi vào
cõi lòng sẵn sàng chờ đón Chúa đến viếng thăm.
Xin
cho bây giờ và mãi mãi chúng ta luôn biết
phụng thờ Chúa suốt cả đời ta, bằng đời sống
thánh thiện, công chính trước nhan Ngài. Amen
Lm.Seoka-Gp.Cần Thơ
Thiên
Chúa viếng thăm
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của
Thiên Chúa. Cách duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.
Suy
niệm:
Sau
hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày,
lời
nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng.
Ông
chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel
vì Ngài đã
viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).
Mọi việc
Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng
được
gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên
Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77).
Gioan,
con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76).
Dacaria
vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông.
Thiên
Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một.
Đó
là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69).
Do
lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa,
Đấng
Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78).
Vừng
sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết
và đưa
dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79).
Bình
an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77),
là được
tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).
Cả đời
sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Đây
là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị,
vì là cuộc
viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa.
Ngài
không chỉ thăm như người khách ghé qua.
Ngài đã
thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14).
Khi
Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain,
đám
đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16).
Nhưng
trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy.
Ngôi
Lời đã đến nhà mình,
nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).
Mãi
mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự
chết,
và
cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).
Giêrusalem
đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù,
vì đã
từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44).
Đó
là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch.
Tiếc
thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới.
Hôm
nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người,
và nhiều
người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín.
Ơn
cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao,
là những
điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu.
Bóng
tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.
Mừng
lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Cách
duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.
Hãy
tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ:
một
trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay;
một ông
thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng
đinh thập tự.
Hãy
thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.
Cầu
nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông,
xin
cho con gặp Chúa.
Giữa
những long đong
và
bấp bênh của phận người,
xin
cho con gần Chúa.
Giữa
cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin
cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy
Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin
cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay
giữa những âu lo hằng ngày.
Xin
cho con đón lấy cuộc đời con
với
bao điều không như ý.
Và
cuối cùng,
xin
cho con dám sống như Chúa
vì
Chúa đã dám sống như con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24
THÁNG MƯỜI HAI
Được Chuộc Lại Bởi
Đấng Cứu Độ
Mùa
Vọng, một cách tự nhiên, đem đến cho môi miệng chúng ta lời cầu xin ơn cứu độ.
Chúng ta nhìn lại nỗi thao thức mong chờ ơn cứu độ qua suốt giòng lịch sử Cựu Ước
và tiếp tục vào giai đoạn Tân Ước. Thánh Phaolô nói: "Chúng ta đã được cứu
trong lòng cậy trông" (Rm 8,24) "Vì qua Thánh Thần, nhờ đức tin,
chúng ta mong đợi niềm hy vọng được nên công chính" (Gl 5,5). Ngay cả những
lời cuối cùng của Thánh Kinh cũng là một tiếng kêu van xin Chúa Giêsu, Đấng Cứu
Độ chúng ta, đến và tỏ hiện hoàn toàn: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!"
(Kh 22,20).
Ơn
cứu độ! Đó là niềm khát vọng sâu xa của con người. Mọi trang Kinh Thánh đều làm
chứng điều đó. Thánh Kinh mời gọi chúng ta khám phá nguồn gốc đích thực của ơn
cứu độ. Thánh Kinh cho chúng ta biết Đấng Giải Thoát và Đấng Cứu Chuộc thực sự
của mình là ai.
Kinh
nghiệm nền tảng về ơn cứu độ mà Dân Thiên Chúa đã trải qua trong Cựu Ước là cuộc
giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập. Thánh Kinh gọi đó là sự cứu chuộc, thục hồi,
giải phóng, cứu độ. Đó là hình thức cứu chuộc đầu tiên mà dân Thiên Chúa kinh
nghiệm một cách tập thể trong lịch sử. Hồi ức về ơn cứu độ này in sâu trong đức
tin của Israel.
Biến
cố cứu độ lớn thứ hai trong Thánh Kinh là sự giải phóng khỏi cuộc lưu đày
Babylon. Cả hai biến cố ấy – giải phóng khỏi Aicập và khỏi Babylon – được đan kết
với nhau trong các Sách Ngôn Sứ. Cuộc giải phóng khỏi tình trạng lưu đày bên
Babylon là sự cứu chuộc thứ hai, hay đúng hơn đó là sự tiếp tục và hoàn thành
cuộc cứu chuộc thứ nhất. Và tác nhân của cuộc cứu chuộc ấy vẫn chính là Thiên
Chúa, Đấng Thánh của Israel, Đấng Giải Thoát và Đấng Cứu Chuộc của dân Người.
Ngôn Sứ Giêrêmia nói: "Chúa phán, đây sắp tới ngày Ta sẽ hoàn tất lời Ta
đã hứa với nhà Israel và nhà Giuđa" (Gr 33,14).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 24-12
SÁNG: 2Sm 7, 1-5.8b-12.14a.16; Lc 1,
67-79.
LỜI SUY NIỆM: “Ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: Chúc tụng Đức
Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người”
Ông Da-ca-ri-a, ông kiên trì trong việc cầu nguyện và
đã được Thiên Chúa ban cho hai ông bà điều hằng mong ước. Giờ đây, ông được
tràn đầy Thánh Thần, ông vừa ca ngợi vừa tôn vinh Thiên Chúa và nói tiên tri về
vai trò của con mình.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong gia đình chúng
con, trong mọi sự đều biết cầu nghuyện với Chúa; một cách khiêm nhường, phó
thác, kiên trì và khao khát.
Mạnh
Phương
24 Tháng Mười Hai
Cặp Kính Lão
Tại
một viện dưỡng lão nọ, ai ai cũng cảm thấy vui, vì ngày Giáng Sinh sắp đến. Lễ
Giáng Sinh không những là lễ của nhận quà, mà còn là của tặng quà nữa. Cho nên,
dù không dư dả, các lão ông lão bà cũng cặm cụi suốt ngày để chuẩn bị một món
quà gửi tặng cho thân nhân, người quen.
Duy
chỉ có một bà lão xem chừng như dửng dưng trước những rộn rịp xung quanh. Bà ngồi
trong một góc nhà, gặm nhấm từng nỗi cô đơn của mình. Bà không còn một người
thân nào trên trần gian này. Kỳ thực, bà còn một người con trai, nhưng người
con ấy kể như đã chết với bà. Từ lâu, anh đã bị giam trong một trại khổ sai
chung thân.
Dù
vậy, đối với trái tim của một người mẹ, một đứa con, cho dù có đốn mạt đến đâu,
vẫn là một người con. Cũng như những lão ông lão bà khác, người đàn bà đáng thương
cũng đã có ý nghĩ gửi một món quà cho đứa con bạc phước của mình. Nhưng bà
không có một đồng xu dính túi. Tất cả tài sản của bà chỉ là cặp kính lão còn
đeo trên mắt... Người đàn bà ước ao được gửi cho người con của mình một gói thuốc
lá. Một gói thuốc không là bao, nhưng gói trọn tình thương mà bà vẫn dành cho
anh.
Bà
đi trao đổi với các cụ già, nhưng không ai có gì để trao tặng bà. Cuối cùng, có
một ông lão còn một gói thuốc lá, loại thuốc mà có lẽ con trai bà ưa thích.
Nhưng trong viện dưỡng lão này, dường như ai cũng sống theo nguyên tắc "có
qua có lại". Lão ông chỉ trao cho bà gói thuốc với điều kiện bà cũng trao
tặng cho ông một món quà nào đó.
Người
đàn bà đành lấy cặp kính khỏi đôi mắt và trao cho ông lão. Gương mặt người đàn
ông sáng rỡ lên vì ông đã có thể đọc được tỏ tường. Cuộc trao đổi chấm dứt. Người
đàn bà gói bao thuốc lá lại thành một món quà Giáng Sinh quý giá để gửi tặng
cho con.
Trở
lại góc phòng của mình, người đàn bà làm một cử chỉ máy móc: bà đưa tay lên mắt
để để sửa lại cặp kính lão. Nhưng cặp kính không còn nữa. Dù vậy, người đàn bà
cảm thấy vui hơn bao giờ hết: bởi vì người con trai của bà nơi trại khổ sai sẽ
vui vì nhận được quà Giáng Sinh, bởi vì lão ông trong viện dưỡng lão sẽ đọc được
báo trong những ngày Giáng Sinh.
Quà
tặng chỉ có ý nghĩa khi nó là biểu tượng của người tặng. Người tặng quà không
chỉ gửi đi một cánh thiệp, một cái áo, một chiếc bánh, một món đồ chơi, mà gói
ghém tất cả tình cảm, sự biết ơn, lòng ngưỡng mộ, tâm tình thương mến của mình.
Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao tặng chính bản thân mình.
Do
đó, sự trao tặng nào cũng là một mất mát: mất mát một chút tiền của, mất mát một
ít thì giờ. Sự mất mát càng lớn, thì quà tặng càng có giá trị. Bà cụ trong viện
dưỡng lão trên đây quả thực đã mất mát nhiều: bà đã mất đi một phần ánh sáng của
mình. Nhưng bù lại, niềm vui của người con và niềm vui của người đồng viện của
bà sẽ lớn hơn. Mất đi một chút ánh sáng để cho người khác được thấy, chấp nhận
một chút đau khổ để cho người khác được vui, thua thiệt một phần để cho người
khác được cười: đó là tất cả ý nghĩa của sự tặng quà đích thực.
Nhưng
đó cũng là niềm vui đích thực, bởi vì niềm vui của người chính là niềm vui của
ta. Mục đích của quà tặng là làm cho người khác được vui. Do đó, niềm vui của
người khác phải là quà tặng đích thực mang lại niềm vui cho ta.
Ðó
chính là nghịch lý của Kitô Giáo chúng ta. Càng trao ban, càng mất mát, chúng
ta càng được nhận lãnh.
Chúng
ta sẽ khám phá được nghịch lý ấy trong những ngày mừng lễ Giáng Sinh. Niềm vui
của Thiên Chúa, Vinh Danh của Ngài, quà tặng cao cả nhất mà Ngài đã trao tặng
cho chúng ta: đó là Người Con Một của Ngài. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một của Ngài.
Chúng
ta đón nhận qùa tặng của Thiên Chúa với tất cả cảm mến tri ân. Nhưng mùa Giáng
Sinh không chỉ là mùa của nhận quà, mà còn là mùa của tặng quà nữa. Chúng ta
hãy dâng tặng Thiên Chúa tất cả con người của chúng ta.
(Lẽ
Sống)
Thứ Ba 24-12
Thánh Charbel
(1828-1898)
T
|
hánh Charbel tên thật là
Youssef Makhlouf, sinh ngày 8 tháng Năm 1828 ở một làng vùng cao nguyên
Lebanon. Cuộc đời Youssef rất bình thường, cũng đi học, đi nhà thờ như bất cứ
ai khác. Ngài yêu quý Ðức Mẹ và siêng năng cầu nguyện. Ngài có hai người chú là
đan sĩ. Ngài âm thầm cầu xin Ðức Mẹ giúp ngài trở thành một đan sĩ. Khi gia
đình muốn ngài kết hôn vì họ thấy có một thiếu nữ rất xinh đẹp trong làng mà họ
tin sẽ là người vợ lý tưởng của ngài thì Youssef lại tin rằng đã đến lúc phải
theo đuổi ơn gọi làm đan sĩ. Ngài gia nhập đan viện Ðức Mẹ ở Mayfuq khi hai
mươi ba tuổi, lấy tên Charbel của vị tử đạo người Syria. Ngài khấn trọn năm
1853 khi hai mươi lăm tuổi. Charbel học làm linh mục và được thụ phong năm
1858. Ngài ở tu viện St. Maron trong mười sáu năm tiếp đó.
Cha Charbel là một người
thâm trầm mà sự yêu quý cầu nguyện là đặc tính nổi bật của ngài. Thỉnh thoảng
ngài lui vào nơi ẩn dật của dòng để cầu nguyện. Và trong hai mươi ba năm cuối
đời, Cha Charbel sống rất kham khổ. Ăn ít, ngủ trên đất, và cầu nguyện lâu giờ.
Nhiều khi, Cha Charbel bay bổng trên không khi cầu nguyện, và ngài rất yêu quý
Thánh Thể.
Vào ngày 16-12-1898,
trong khi cử hành Thánh Lễ, ngài bị tai biến mạch máu não và tám ngày sau ngài
đã thở hơi cuối cùng vào ngày 24-12-1898.
Phép lạ bắt đầu xảy ra
tại ngôi mộ của vị đan sĩ thánh thiện này. Ngài được phong chân phước năm 1965
và sau cùng, Cha Charbel được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên xưng hiển thánh
ngày 9-10-1977. Ðức giáo hoàng giải thích rằng, bằng chính đời sống của mình,
Thánh Charbel đã dạy chúng ta con đường đích thực đến với Thiên Chúa. Trong khi
xã hội chúng ta tuyên dương sự giầu sang và tiện nghi, Thánh Charbel, qua gương
mẫu đời sống, ngài đã dạy chúng ta các giá trị khi trở nên nghèo khó, hy sinh
và siêng năng cầu nguyện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét