Trang

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2016

20-03-2016 : (phần 1) CHÚA NHẬT LỄ LÁ năm C

20/03/2016
Chúa Nhật Lễ LÁ năm C
(phần I)

Kiệu Lá:
Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-4
"Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên".
Ðó là lời Chúa.

Thánh Lễ:
Bài Ðọc I: Is 50, 4-7
"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.
2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.
3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.
4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" - Ðáp.

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài)
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.
Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông:
J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa".
C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:
J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!"
C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta".
C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán:
J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!"
C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:
J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!"
C. Rồi Chúa nói:
J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin".
C. Ông thưa Người:
S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết".
C. Nhưng Người đáp:
J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy".
C. Và Người bảo các ông:
J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?"
C. Các ông thưa:
S. "Không thiếu gì cả".
C. Vậy Người nói:
J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất".
C. Các ông thưa Người:
S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây".
C. Và Người bảo:
J. "Ðủ rồi".
C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông:
J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ".
C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng:
J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:
J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn:
J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?"
C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:
S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?"
C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo:
J. "Thôi, đủ rồi".
C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm".
C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.
Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:
S. "Cả ông này cũng theo hắn".
C. Nhưng ông chối và nói:
S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy".
C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:
S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó".
C. Nhưng Phêrô đáp:
S. "Này anh, đâu có phải tôi".
C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:
S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa".
C. Phêrô đáp:
S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?"
C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng:
S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó".
C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay".
C. Người trả lời:
J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng".
C. Mọi người đều hỏi lại:
S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?"
C. Người đáp:
J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa".
C. Bấy giờ họ nói:
S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói".
C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.
Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:
S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".
C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
S. "Ta không thấy người này có tội gì".
C. Nhưng họ cố nài rằng:
S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây".
C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:
S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".
C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:
S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"
C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".
C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"
C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn".
C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:
S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
S. "Ông này quả thật là người công chính".
C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

Hoặc đọc bài vắn này: Lc 23, 1-49
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.
Khi ấy, tất cả công nghị đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:
S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".
C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
S. "Ta không thấy người này có tội gì".
C. Nhưng họ cố nài rằng:
S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây".
C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:
S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".
C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:
S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"
C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".
C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"
C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn".
C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:
S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
S. "Ông này quả thật là người công chính".
C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến.


Suy Niệm: Bước chân theo chân Chúa Giêsu

Chúa nhật hôm nay khai mạc tuần lễ thánh. Phụng vụ sẽ cử hành những mầu nhiệm trọng đại nhất trong lịch sử cứu độ. Ðể chúng ta dễ dàng tham gia, phụng vụ cố gắng cụ thể và hầu như muốn diễn lại tất cả những gì đã xảy ra trong tuần lễ cuối cùng cuộc đời của Chúa. Chúng ta sẽ đáp lại bằng cách đến dự mọi lễ nghi trong tuần này và nhất là bằng lòng yêu mến suy niệm các nghi lễ ấy.
Ðể mở đầu chúng ta hãy ý thức hành vi sắp làm. Chúng ta sẽ cầm lá đi vào nhà thờ. Chúng ta gọi đây là cuộc kiệu lá. Và các bài hát sẽ cho chúng ta có cảm tưởng đang cùng đi với Chúa Giêsu vào đền thờ. Chúng ta đừng có nghĩ mình rước Chúa đi; nhưng hãy nhớ chính Người đi trước và chúng ta bước chân theo chân Người.
Ðiều này chính thánh Luca làm chứng trong câu đầu bài Tin Mừng. Người viết: Bấy giờ Ðức Giêsu cầm đầu các môn đệ để lên Giêrusalem. Người đi một cách quả cảm, đang khi môn đệ rụt rè và ngại ngùng. Người biết những gì sẽ xảy ra; còn họ chỉ có những cảm tình hoang mang.
Ðến núi cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi đến một làng trước mặt mượn một con lừa đem về. Mọi sự xảy ra như đã sắp đặt từ trước, vì đây là kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đã ấn định từ ngàn đời. Dẫn lừa về, môn đệ vứt áo của họ lên lưng con lừa và để Ðức Giêsu cưỡi lên. Vì sao họ làm như thế, có lẽ thoạt đầu họ chưa hiểu hết. Họ làm theo một thúc đẩy bên trong và chỉ dần dần họ chỉ mới ý thức được ý nghĩa. Vì kìa, người ta đang trải áo choàng của họ trên đường Ngài đi. Thái độ của người ta làm nức lòng môn đệ. Và đoàn lũ môn đệ bắt đầu lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa vì hết thảy các phép lạ họ được thấy.
Rõ ràng tác giả Luca đã chú trọng tới họ. Người ít để ý đến Ðức Giêsu. Người hầu như không nói gì đến những người khác. Người nhìn kỹ các môn đồ. Trước mặt Người, họ đã trở thành những con người khác. Ðây không còn chỉ là đoàn 12 rụt rè, ngại ngùng không muốn tiến lên Giêrusalem nữa. Có thể nói cũng không phải là đoàn 72 môn đệ như có lần nào đã được Chúa sai đi từng đội làm việc truyền giáo.Luca nói đến tất cả đoàn lũ môn đồ bắt đầu lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa. Người ám chỉ Hội Thánh ở thời đại của Người, như Người đang nhìn thấy trước mắt. Ðó là cộng đoàn dân Chúa ở buổi sơ khai, vừa hiểu ra ý nghĩa của hết các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, tức là vừa nhận ra Người thật là Chúa.
Thế nên họ tung hô Người như tập đoàn các thiên thần trong ngày Người Giáng sinh. Họ biến bài ca các thiên thần trở thành bài ca của mình và như vậy họ cũng biến mình nên cộng đoàn phụng vụ thờ phượng tung hô Thiên Chúa. Họ chúc tụng Chúa đã sai Ðức Giêsu đến. Họ chúc tụng Ngài là Vua nhân danh Chúa. Họ không còn nhìn thấy Ngài ở dưới đất nữa, nhưng đang ở trên trời rồi; nên họ mới tung hô: Bình an trên trời (chớ không phải dưới đất) và vinh quang trên chốn cao vời!
Ðó phải là thái độ của chúng ta trong cuộc rước này. Chính thánh Luca cũng không nói rõ Ðức Giêsu đã vào Giêrusalem một cách long trọng. Người cho chúng ta hiểu Ðức Giêsu đã tiến vào đền thờ, để chúng ta có tâm trạng tôn giáo và phụng vụ. Chúng ta không đưa (hay không theo) Chúa Giêsu vào Giêrusalem để chịu chết lại. Chúng ta theo Người vào đền thờ, không phải ở dưới đất mà ở trên trời để chúng ta chúc tụng cuộc phục sinh của Người và để chúng ta thấy mình đã được đưa sang một thế giới khác, thế giới của sự thánh thiện và phụng vụ, để chúng ta cũng chúc tụng thờ phượng Chúa như các thiên thần.
Thế nên đừng ai coi phụng vụ của Tuần Thánh như diễn lại các việc xưa kia đã xảy ra. Phụng vụ nhắc lại những việc ấy một cách khác cụ thể và tỉ mỉ, nhưng không phải chúng ta ôn lại điều cũ, mà để chúng ta ngưỡng mộ, tham gia như các thiên thần ở trên trời, tức là với lòng mến yêu, thờ lạy và nhận lấy các mầu nhiệm cứu độ.
Chính với những tâm tình như thế mà chúng ta cầm lá rước vào nhà thờ. Chúng ta không đi như đoàn lũ môn đệ của Chúa, tức là như Hội Thánh đi vào cử hành Phụng vụ. Chúng ta bắt chước các thiên thần sốt sắng chúc tụng các việc Chúa Giêsu làm để cứu độ chúng ta, đặc biệt trong cuộc thương khó mà chúng ta sẽ nghe thuật lại trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta hãy tiến lên để tham dự các mầu nhiệm ấy.
* * *
Mỗi tác giả sách Tin Mừng có lối trình bày riêng cuộc khổ nạn của Chúa. Họ có tự do đến nỗi không bó buộc phải tường thuật tỉ mỉ đầy đủ và theo thứ tự như một máy quay phim. Mọi người đã biết diễn tiến của các sự việc, vì ngay từ khi Phêrô bắt đầu thay mặt anh em Tông đồ rao giảng Chúa Giêsu lần đầu tiên, người ta đã được nghe kể rõ ràng về việc Chúa chịu chết và sống lại. Do đó, những việc mà ai ai cũng biết, các tác giả không cần kể lại theo diễn biến; nhưng độc giả chờ đợi họ một cái nhìn sâu sắc để hiểu ý nghĩa các sự việc. Và tác giả các sách Tin Mừng đã làm công việc này. Mỗi ông cho chúng ta một cái nhìn về diễn biến của cuộc tử nạn để chúng ta hội nhập, tham dự, chia sẻ. Hôm nay chúng ta theo sự hướng dẫn của thánh Luca.
Chúng ta không thể đi theo Người từng bước. Theo lối chia quen thuộc, chúng ta dừng lại ở mấy chặng sau đây: Lúc Ðức Giêsu bị bắt - khi Người ở trước tòa án Do Thái - rồi Philatô xử Người - và sau cùng Người chết trên thập giá. Dường như ở chặng nào chúng ta cũng nhận được một luồng sáng đức tin không phải chỉ để nhìn thấy sự việc xảy ra mà còn được hướng dẫn để đến gần Chúa Giêsu hơn.
Vậy, đang lúc Người còn nói với môn đệ thì một đoàn lũ đã kéo đến mà đi đầu là Giuđa. Y lại gần mà hôn Người như thói quen của môn sinh sau lâu ngày gặp lại Thầy mình. Nhưng Người thấy rõ ý xấu của y; và Người bộc lộ ý xấu cho y hiểu. Người bảo: "Giuđa ngươi dùng cái hôn để nộp Con Người sao?".
Những kẻ đứng quanh Người thấy Người không phải chỉ là bậc Thầy trong cả thái độ và lời nói. Họ xin phép "Chúa" cho phép dùng gươm. Và một người trong họ đã làm liền. Y chém vào tai tên đầy tớ thầy "Thượng tế". Nhưng Ðức Giêsu thật là Chúa. Người bảo "thôi cứ để như vậy", tức là cứ để theo ý Chúa Cha và Người chữa tai cho tên đầy tớ kia. Rồi Người nhắc lại cho mọi người nhớ: hằng ngày Người đã ở nơi Ðền thờ mà chẳng ai dám tra tay vào Người; nhưng bây giờ là thời của các quyền lực tối tăm.
Như vậy, chúng ta không thấy Ðức Giêsu bị bắt như một người có tội. Ngược lại, chúng ta vẫn thấy Người là Chúa. Tác giả Luca luôn luôn chú ý đến điểm này. Trong suốt bài tường thuật, cái đèn pha của Người vẫn pha ánh sáng vào tư cách cao cả của Chúa, đến nỗi những gì xúc phạm đến Chúa như đòn vọt, xỉ nhục đều như bị dìm trong bóng tối. Tác giả chỉ lướt qua một cách nhẹ nhàng để dừng lại trên khuôn mặt khả ái và khả kính của Ðức Giêsu.
Do đó, tác giả muốn môn đệ của Chúa phải xứng đáng để tham dự Mầu nhiệm Tử nạn. Người kể ngay đến câu chuyện Phêrô chối Chúa trước khi người ta đưa Chúa ra tòa. Có vẻ Người thông cảm với Phêrô không để cho ông sa ngã đến chỗ phải thề để chối Chúa. Nhất là Người đã để cho Phêrô trở lại, rồi mới kể đến việc người ta hành hạ và xét xử Chúa. Dường như Người muốn tách rời tội của môn đệ và tội của người ta. Môn đệ sa ngã vì yếu đuối và đã được cái nhìn đầy thương xót của Chúa làm cho khóc lóc rửa sạch linh hồn để tham dự cuộc tử nạn cứu độ của Người.
Thật ra rất hiếm những nét tả về cái chết đau thương và nhục nhã của Ðức Giêsu. Ngược lại nơi tòa án Do Thái, cũng như trước mặt Philatô và trên cây thập giá, Người vẫn là Chúa. Tại tòa Do Thái, chẳng có thể nói là đối diện với Người. Thầy Thượng tế cũng bị chìm ở giữa "người ta". Họ không hỏi Người những điều bất xứng. Họ chỉ muốn biết Người có phải là Ðấng Thiên Sai không? Con Người thì bộc lộ tâm tư của họ ra và cho họ thấy nay đã đến lúc Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng. Như vậy, ai đang xử ai? Ðến nỗi chính họ đã phải thốt ra: "Vậy ra ông là Con của Thiên Chúa!" Và họ cũng chẳng dám coi lời khẳng định của Người là phạm thượng. Tức là ở đây, tại tòa Do Thái, tác giả Luca cũng vẫn cho chúng ta thấy Ðức Giêsu là Chúa.
Ðiều này tác giả cũng chẳng quên khi kể lại việc ở trước tòa Philatô. Ông này luôn trở đi trở lại nhận định "không tìm ra tội trạng nào nơi người ấy". Ông nại đến cả thái độ của Hêrôđê cũng không thấy Người có tội gì. Luca nhấn mạnh đến sự vô tội, nhưng có thể để an ủi các môn đệ của Chúa Kitô bị đưa ra tòa xét xử. Họ hãy nhớ lại phiên tòa Philatô. Ðức Giêsu có cần trả lời gì đâu. Người nói duy nhất một câu để đáp lại câu Philatô hỏi: Ông là vua dân Do Thái sao? Người bảo: Chính ông nói thế. Người nói để khẳng định bản chất cao cả của mình; đang khi đối phương lúng túng và loay hoay trong vấn đề tội trạng.
Khuôn mặt của Hêrôđê đã được tác giả Luca chú ý đặc biệt. Cả tâm lý của ông cũng bị phơi bày ra. Từ lâu rồi ông chỉ mong có ngày được giáp mặt Ðức Giêsu để thấy một phép lạ. Ông không biết rằng Người đã không đến cho hạng người có tâm lý như vậy. Nước Trời không phải là chuyện kỳ lạ, nhưng là ơn độ trì đổi mới con người. Thế nên Ðức Giêsu đã lặng thinh trước mặt Hêrôđê, và đạo của Người sẽ chẳng bao giờ nói gì với những con người hiếu kỳ, chuộng lạ. Và những kẻ chỉ thấy những sự lạ trong đạo của Người sẽ chẳng bao giờ được nghe thấy tiếng Người thực sự. Ngược lại các môn đệ chân chính của Người phải có can đảm nhìn thẳng vào cây thập giá đã được mang đến cho Người để Người vác đi và rồi họ cũng vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi theo Người như Simon, người Kyrênê và đám dân đông đảo cùng phụ nữ hôm nay đã theo sau Người trên đàng đến núi Sọ.
Những người này đã được Chúa nhắn nhủ phải ăn năn thống hối. Họ tiếp tục đi theo Người và được thấy không những Ðức Giêsu cầu xin Chúa Cha tha thứ cho người ta; mà Người còn ban thiên đàng cho kẻ tội lỗi kêu xin. Họ được thấy vạn vật u sầu chia sẻ sự đau khổ của Người và chính Người đang chết ngoan ngoãn trong tay Ðức Chúa Cha. Họ thấy đoàn lũ ra về đấm ngực ăn năn và ông Giuse đến táng liệm xác Chúa một cách trung thành. Tất cả những điều mắt thấy tai nghe ấy làm cho các phụ nữ thấy rõ rệt Chúa đã chết cho kẻ có tội và những người này đã bắt đầu thống hối ăn năn. Cuộc tử nạn của Chúa thật sinh ơn cứu độ.
Ðó chính là điều mà tác giả Luca muốn dùng để kết thúc bài tường thuật. Người muốn chúng ta thấy Chúa đã chết cho chúng ta và chúng ta hãy trở về với Chúa. Chúa không cần chúng ta khóc thương các vết thương của Người vì tác giả Luca đã không chú ý đến khía cạnh đau khổ của cuộc tử nạn. Tác giả muốn chúng ta thấy Ðức Giêsu là Chúa; Người biết rõ tâm can mọi người; Người không chấp tội chúng ta; Người hiến thân chịu chết để biểu lộ lòng thương xót; Người kêu gọi mọi người thống hối ăn năn và độ trì mọi kẻ kêu cầu Người. Sự chết của Người đã đem lại ơn cứu độ chúng ta. Thế nên chúng ta phải có tâm hồn môn đệ để tham dự cuộc khổ nạn hồng phúc của Người. Chúng ta phải khóc lóc tội lỗi mình trước. Như Phêrô, rồi chúng ta gia nhập đoàn lũ đi theo Người cùng các phụ nữ; tức là với tất cả Hội Thánh, chúng ta đi đến chân thánh giá Chúa Giêsu mà chiêm ngưỡng lòng thương xót của Người đang hy sinh mình để cứu độ những ai kêu xin Người. Ðó là tâm tình và thái độ của chúng ta phải có trong tuần lễ thánh này. Xin các mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu tràn ngập hồn xác chúng ta.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


20/03/16 CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa       
Lc 22,14-23,56

Suy niệm: Dân chúng Giê-ru-sa-lem vừa reo hò tung hô Đức Giê-su: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” trong ngày Ngài vào thành thánh cách trọng thể, thì ít ngày sau, cũng chính họ lại nhao nhao tố cáo và đòi lên án tử cho Ngài. Nghi thức kiệu lá và bài Thương Khó trong phụng vụ thánh lễ ngày Lễ Lá nêu bật tính cách mâu thuẫn ấy. Lòng người thay đổi thật nhanh nhưng đồng thời cũng thật dễ bị giật dây, bị tác động. Họ dễ dàng hoà mình vào cái hào khí của đám đông để hoan hô, chúc tụng Đức Giê-su như Đấng Mê-si-a mà họ đang đợi trông. Trái lại họ cũng thật vô ý thức và hèn nhát hùa theo đám đông để đả đảo, đòi lên án tử hình cho người vô tội.
Mời Bạn: Chúng ta vừa chứng kiến một sự sai lầm ghê gớm dẫn đến hậu quả là kết án và giết chết Đấng Cứu Thế. Lắm khi chúng ta cũng áp dụng cung cách sống đó như khuôn vàng thước ngọc để khỏi chuốc lấy bao sự rắc rối: Phán đoán theo chiều gió của dư luận, hành xử theo kiểu ‘ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi làm theo’. Chính vì vậy mà chúng ta không dám tuyên xưng đức tin, không dám bênh vực cho lẽ phải, trái lại, về hùa với số đông, kết án đối xử tệ bạc với những anh chị em thấp bé, nghèo hèn.
Sống Lời Chúa: Đừng kết án để khỏi bị kết án. Không vô cảm, không a dua nhưng có hành động để đồng cảm và bênh vực người chịu cảnh bất công.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bản tính con người yếu đuối của con hay xúi giục con lên án, đổ lỗi cho người khác. Xin đừng để con lên án một ai nữa, để ngay bây giờ con đáng được Chúa thứ tha. Amen.

CHÚC TỤNG ĐỨC VUA 
Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Ðức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.


Suy nim:
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người,
Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu,
chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội
bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi,
bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Ðức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ.
Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Ðức Giêsu,
chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Ðức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế,
ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Ði đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay
giúp ta nhạy cảm hơn với thánh giá của tha nhân,
và nhận ra mình có trách nhiệm
trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Ðức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người.
Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng.
Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý.
Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha,
nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa,
ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa,
một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần.
Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe.
Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô.
Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy
để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ.
Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh.
Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc.
Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...
Tôi thấy mình có nét giống Philatô.
Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức.
Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào.
Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê,
tò mò, háo hức, trông chờ Ðức Giêsu làm phép lạ.
Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh.
Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Ðức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành.
Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác.
Anh tin Ðức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh.
Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.
“Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng”:
Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Ðức Giêsu.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG BA
Phải Chăng Chúng Ta Đã Từ Khước Tình Cha?
Chỗi dậy và trở về với Cha (Lc 15,18), chúng ta sẽ lấy lại được những gì mình đã đánh mất do tội lỗi. Giống như Người Con Đi Hoang, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng khi mình sống trong tội lỗi, mình đã phong tỏa chính mình khỏi sự bảo vệ và tình yêu của Cha. Chúng ta sẽ nhận hiểu tấm lòng Cha yêu thương ta biết mấy – thế mà ta đã quay lưng lại với Ngài!
Sa vào tội lỗi và hoang phí sản nghiệp của Cha, chúng ta đã bứt đứt mọi mối gắn kết giữa Cha với mình. Chúng ta không đáng được Cha tiếp nhận vào nhà. Sự hòa giải chỉ có thể bắt đầu khi Người Con Đi Hoang thực sự muốn quay về. Rồi, tình yêu và lòng nhân hậu của Cha có thể giúp người con ương ngạnh ấy thắng vượt mặc cảm tội lỗi và bất xứng của mình. Chính khi nhìn vào đáy mắt Cha mình là lúc anh ta nghe được lời tha thứ.
Về gần đến nhà Cha mình, người con trai tự nghĩ : “Con không đáng được gọi là con của Cha nữa”. Nhưng Cha anh đang quay quắt đợi chờ, bền bỉ đợi chờ; và thoạt trông thấy bóng anh, ông tràn ngập vui mừng. Người Cha quên hết những điều sai trái mà con mình đã phạm. Người Cha vồn vã ôm chầm lấy đứa con đang hối hận tận đáy lòng. “Lạy Cha, con đã lỗi phạm …, con không đáng được gọi là con của Cha nữa” (Lc 15,21).
Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta – dù tội lỗi có tày đình đến mấy đi nữa – cũng có thể quay về và thú nhận tội lỗi của mình. Chúng ta cần phải vạch mặt chỉ tên rõ ràng những tội lỗi của mình – và tiến về phía vòng tay đang đón đợi của Cha.
Chúng ta hãy bắt đầu cuộc hành trình trở về nhà Cha. Hãy khảo sát lương tâm mình, xưng thú tội lỗi mình, thống hối và quyết tâm sống một đời sống mới. Đó là những bước của một lộ trình hoán cải.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 20-3
Chúa Nhật Lễ Lá
Lc 19:28-40; Is 50:4-7;  Pl 2:6-11; Lc 22:14-23; Lc 23:1-49

LỜI SUY NIỆM: “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các ông và nói: Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Với Bí Tích Thánh Thể, chỉ có người Công Giáo của chúng ta mới cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu đối với nhân loại. Mới thấy được lương thực cần thiết cho đời sống thiêng liêng của mỗi người tín hữu và làm nâng cao phẩm giá của con người cao hơn, để thực thi đức ái đối với anh em mình. Để kết hiệp với Bí Tích Thánh Thể, mỗi người cần phải có tâm tình sám hối và cầu xin ơn tha thứ của Chúa và của nhau, qua sự chuyển cầu của Đức Mẹ, các thiên thần và các thánh và cuối cùng là đón nhận bình an và tin Thật lòng: Bánh trên tay của Chủ tế khi nâng cao và công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian phúc cho ai được mời đến tham dự tiệc Chiên Thiên Chúa.”
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi một Thánh Lễ là ơn ban tha tội, và đổ đầy ân phúc cho con người. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con yêu thích Thánh Lễ, luôn đến để nhận ơn tha tội, lãnh nhận thêm ân sủng của Chúa và được gặp gỡ nhau trong bình an.
Mạnh Phương


20 Tháng Ba
Ánh Sáng Ðô Thị
Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và cũng có lẽ là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề là: "Ánh sáng đô thị". Ðó là câu chuyện tình của một gã lang thang và một cô gái bán hoa.
Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỷ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là Charlot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Cô gái bán hoa tưởng chàng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã chớm nở và nối kết hai tâm hồn. Nàng tưởng mình gặp được người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa của nàng.
Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát giam giữ. Sau một thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Người con gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao?". Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc. Nàng từ từ nhặt cánh hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy sao?". Thế là cả hai đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa.
Cuộc gặp gỡ trong bất cứ một cuộc tình nào cũng là hình bóng của cuộc gặp gỡ trong đức tin giữa chúng ta và Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta là những con người có tự do. Do đó Thiên Chúa không nói với chúng ta bằng một ngôn ngữ nào khác hơn là tình yêu. Tình yêu không bao giờ là một cưỡng bách, nhưng là một mời gọi tự do.
Những người Do Thái thời Chúa Giêsu đòi hỏi những dấu lạ, những bằng chứng hiển nhiên về sứ mệnh của Ngài. "Ông hãy làm cho chúng tôi một dấu lạ".
Ngày nay thì trái lại, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, con người dường như không còn tin ở phép lạ nữa. Tưởng mình có thể chế ngự và làm chủ vũ trụ, con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta có thể ngạc nhiên tại sao Thiên Chúa không làm phép lạ nhãn tiền cho những người biệt phái hay cho những kẻ vô thần ngày nay. Tại sao Ngài không viết tên Ngài trên trời để xóa tan mọi nghi ngờ trong lòng người? Thiên Chúa có lối sư phạm của Ngài. Ngài đã không là Thiên Chúa của những điềm lạ cả thể, nhưng là một Thiên Chúa đã chọn lựa làm tôi tớ để chinh phục tình yêu và lòng tín nhiệm của con người. Thiên Chúa không những là một Thiên Chúa của quyền năng ở bên trên con người, nhưng còn là Thiên Chúa ở bên trong con người. Và, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là dấu lạ cả thể nhất, bởi vì đó là dấu chứng của tình yêu Chúa Giêsu đã nói đến dấu chứng đó khi dùng hình ảnh của tiên tri Giona. Giona được Thiên Chúa sai đến cho dân thành Ninivê. Ông tưởng Chúa sẽ dùng ông để làm một dấu lạ cả thể khiến dân thành sẽ tin vào sứ mệnh của ông. Nhưng cuối cùng, qua con người của ông, Thiên Chúa chỉ kêu mời sự hoán cải và tình yêu.
Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta qua những sinh hoạt và những biến cố tầm thường nhất trong cuộc sống. Ngài mời gọi chúng ta nhận ra Ngài trong cái ăn, cái uống, cái mặc, trong tiếng cười, tiếng khóc, trong tất cả mọi gặp gỡ của chúng ta với tha nhân. Và ngay cả trong cái chết mà con người cho là điểm cuối cùng của cuộc sống, Thiên Chúa cũng có mặt.
Nhận ra Ngài như cô gái bán hoa đã nhận ra giọng nói của chàng Charlot, đó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Một đức tin trưởng thành không đòi hỏi và thử thách Thiên Chúa, nhưng tín thác và nhận ra dấu chỉ của Ngài qua những cái tầm thường nhất của cuộc sống.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét