18/03/2017
Thứ bảy tuần 2 Mùa Chay
Bài Ðọc I: Mk 7, 14-15.
18-20
"Chúa ném mọi
tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển".
Trích sách Tiên tri
Mikha.
Lạy Chúa, với cây trượng
của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của
Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan
và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những
việc lạ lùng.
Có Chúa nào giống như
Chúa là Ðấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc
về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích
lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng
tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho
Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã
thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2.
3-4. 9-10. 11-12
Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Linh hồn tôi
ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người.
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. -
Ðáp.
2) Người đã tha thứ
cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi
khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.
3) Người không chấp
tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng
tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.
4) Cũng như trời xanh
cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ
Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng
tôi. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: 2 Cr 6, 2b
Ðây là lúc thuận tiện,
đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Lc 15, 1-3.
11-32
"Em con đã chết
nay sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, những người
thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy,
những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ
tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn
này:
"Người kia có hai
con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia
tài thuộc về con". Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau,
người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ,
phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền
đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền,
người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng,
nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao
người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết
đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Lạy cha, con
đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin
cha đối xử với con như một người làm công của cha". Vậy nó ra đi và trở về
với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng
thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc
đó thưa rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không
đáng được gọi là con cha nữa". Nhưng người cha bảo các đầy tớ: "Mau
mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy
vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã
chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Và người ta bắt đầu ăn uống
linh đình.
"Người con cả
đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi
một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: "Ðó là em cậu đã
trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ".
Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng
anh trả lời: "Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh
cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng
với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha
với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó".
Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều
là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã
mất nay lại tìm thấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Người con hoang
đàng
Văn hào Nga
Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi các con đến bên giường
bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Khi bà vợ vừa
dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của ông như sau:
“Các con
yêu dấu, các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy tin tưởng tuyệt đối
vào Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài. Cha thương các con vô
cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với tình yêu Thiên Chúa
dành cho những ai Ngài đã tạo dựng. Cho dù các con có phạm tội ác, các con đừng
bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài, hãy khiêm tốn đến trước
mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự sám hối của các con,
như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về”.
Những lời
trăn trối của Dostoievki có lẽ cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng
ta khi cho chúng ta lắng nghe dụ ngôn về người con hoang đàng. Qua dụ ngôn này,
Chúa Giêsu muốn nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa được chính Ngài cụ thể
hoá qua sự gần gũi của Ngài với các tội nhân. Nêu bật lòng thương xót của Thiên
Chúa đối với con người, Chúa Giêsu cũng nhắm đến thái độ chai đá của các biệt
phái và luật sĩ, được Ngài tô vẽ qua hình ảnh của người con cả. Trong một vài
nét ngắn ngủi, nhưng Chúa Giêsu đã phô bày được bộ mặt chai đá, ích kỷ, mù quáng
của biệt phái và luật sĩ. Người con cả là hạng người không bao giờ nhận ra được
tình thương của Thiên Chúa. Bao lâu nay sống bên cạnh cha, người con cả vẫn xem
mình như một thứ người làm công trong nhà, mà không nghĩ rằng “tất cả những gì
của cha đều là của con”.
Đó có thể
là tâm tình của rất nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tuân giữ và thực hành
đúng đắn với giới răn, nhưng có lẽ chúng ta chỉ ngước lên Chúa như một quan toà
công thẳng hay như một viên cảnh sát lúc nào cũng rình rập theo dõi để trừng phạt
chúng ta. Từ một hình ảnh như thế về Thiên Chúa, tâm tình mà chúng ta có đối với
Ngài có lẽ chỉ là sợ hãi, nô lệ. Và bởi lẽ không nhận ra Thiên Chúa như một người
cha, cho nên con người cũng không nhận ra tha nhân là anh em của mình và như vậy
cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Mùa Chay là
mùa của hoán cải. Hoán cải trước tiên là trả lại cho Thiên Chúa gương mặt mà
Chúa Giêsu đã mạc khải, đó là gương mặt của người Cha yêu thương con người đến
thí ban Con Một mình. Nhưng không thể trở về với Thiên Chúa là Cha mà lại không
yêu thương tha thứ cho người anh em của mình.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần II MC
Bài đọc: Mic
7:14-15, 18-20; Lk 15:1-3, 11-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương
tha thứ của Thiên Chúa
Khi chúng ta nghe Chúa
Giêsu đòi hỏi phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người đã xúc phạm
đến chúng ta; nhiều người đã lắc đầu và chép miệng than: Khó quá! Làm sao thực
hiện nổi? Chắc chắn Thiên Chúa không đòi con người làm những gì quá sức mình. Để
giúp con người làm được điều này, Thiên Chúa ban ơn thánh và mời gọi con người
nhìn lại mối liên hệ của họ với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay
giúp con người nhận ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của
con người đã xúc phạm đến Ngài. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Micah xin Thiên Chúa
nối lại mối liên hệ của Ngài với Israel sau Thời Lưu Đày. Điều này chỉ Thiên
Chúa mới có thể làm được, vì mọi con dân Israel đã xúc phạm đến Ngài. Để thực
hiện điều đó, Thiên Chúa phải chà đạp tội lỗi dưới chân hay quăng chúng xuống
đáy biển. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca viết lại cho chúng ta một câu truyện tuyệt
vời về tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện
và phục hồi quyền làm con, khi một người ăn năn trở lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa nhân từ.
1.1/ Xin Thiên Chúa tiếp
tục chăn dắt dân: Những gì Tiên-tri Micah viết
trong chương cuối hôm nay giả sử Thời Lưu Đày đã qua, và Thiên Chúa đã có kế họach
cho dân Do-Thái trở về để tái thiết Đền Thờ và xây dựng lại quê hương. Tiên-tri
ước mơ Thiên Chúa sẽ nối lại tình cha con, như khi họ mới từ Ai-cập vào Đất Hứa:
“Lạy Đức Chúa, xin Ngài dùng gậy để chăn dắt dân là đàn chiên, là cơ nghiệp của
Ngài, đang biệt cư trong rừng giữa vườn cây ăn trái. Xin đưa họ tới đồng cỏ miền
Bashan và Galaat như những ngày thuở xa xưa. Như thời Ngài ra khỏi đất Ai-cập,
xin Ngài cho chúng con thấy những kỳ công.”
1.2/ Thiên Chúa không chấp
tội của con người: Tiên-tri ý thức sâu xa
các tội của dân đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và tình thương như trời biển của
Ngài dành cho dân. Họ xứng đáng lãnh nhận mọi hình phạt và ngay cả cái chết;
nhưng họ còn sống và còn được trở về quê hương là hòan tòan do lòng nhân từ của
Thiên Chúa. Tiên-tri Micah tự hỏi: “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu
đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài? Người
không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa, Người sẽ lại thương xót
chúng ta, tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người
ném xuống đáy biển.”
2/ Phúc Âm: Người Cha nhân hậu
2.1/ Người tội lỗi cần
tình thương của Thiên Chúa: Các người thu
thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những
người Pharisees và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường
tội lỗi và ăn uống với chúng." Chúa Giêsu đưa ra 3 dụ ngôn để giúp họ nhận
ra tình thương Thiên Chúa, và dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” tuyệt vời hơn cả, vì
nó bao hàm tất cả các tiến trình phạm tội, xám hối, trở về, và tình thương tha
thứ.
(1) Tội lỗi và tự do:
Tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng quyền tự do của mình. Thiên Chúa ban cho
con người quyền tự do chọn lựa, và Ngài tôn trọng quyền tự do của con người. Dĩ
nhiên Ngài có thể bắt con người làm theo ý Ngài, nhưng làm như thế là mâu thuẫn
với chính Ngài, và con người cũng không thỏai mái khi bị bắt làm như thế. Người
con thứ cho chúng ta nhìn thấy cách xử dụng tự do không đúng của con người. Người
cha để cho con hòan tòan tự do, mặc dù ông rất đau khổ trong lòng, vì ông biết
có thể đây là lần cuối được nhìn thấy con.
(2) Tội lỗi và hình phạt:
Tự do chọn lựa là phải lãnh nhận hậu quả mang lại. Người biết dùng tự do là người
biết cân nhắc kỹ các hậu quả sẽ mang lại của từng lựa chọn. Người con thứ đã
không nhìn thấy trước hậu quả của lối sống anh ta đã chọn; và khi hậu quả xảy
ra, anh mới biết mình đã lựa chọn không đúng. Vì không có nghề, nên anh phải
chăn heo, là một nghề mà người Do-Thái khinh thường. Chưa hết, vì quá đói nên
anh ước ao được ăn những đồ heo ăn, mà cũng chẳng ai cho. Danh dự của một con
người giờ còn thua cả một con vật nhơ bẩn.
(3) Tội lỗi và xám hối:
Đau khổ cần thiết vì nó giúp con người biết phân biệt phải trái; trong đau khổ,
con người nhận ra nhu cầu phải ăn năn xám hối. Người con thứ nhận ra mình đã
không sống xứng đáng với địa vị làm con, nên muốn xin trở nên như một người làm
công để có cơm ăn cho khỏi chết đói. Và anh ta mạnh dạn đứng lên ra về.
(4) Tội lỗi và tha thứ:
Có một chi tiết nhỏ, nhưng nhiều người đã nhận ra và viết về nó: Làm sao người
cha biết khi nào con trở về mà chạy ra đón con? Có người suy đóan: chắc ngày
nào ông cũng ra đón vì thương con. Điều hợp lý hơn có lẽ Chúa Giêsu muốn ám chỉ
Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa mới biết những gì xảy ra trong tâm hồn con người.
Ngài tha thứ mà chẳng đòi điều kiện nào cả; cũng chẳng cần con kịp nói hết lời.
Không những sẵn sàng tha thứ mọi tội mà còn phục hồi quyền làm con qua việc mặc
áo đẹp nhất, xỏ nhẫn, mang giầy, và ăn mừng.
2.2/ Con người không thể
hiểu được tình thương Thiên Chúa: Tình
thương quá tuyệt vời của người cha làm nhiều người bất mãn, trong đó có người
anh của người con thứ.
(1) Phản ứng của người
anh cả: Khi biết lý do của buổi tiệc, Người anh cả liền nổi giận và không chịu
vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ, và cậu được dịp để bày tỏ nỗi tức giận của
mình:
- Kể công phục vụ:
"Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh,
thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.”
- Từ chối không nhận
em mình: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn
điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
(2) Phản ứng của người
cha: Ông vẫn bênh vực người con thứ và kiên nhẫn cắt nghĩa cho người con cả:
"Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của
con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại
sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta khó tha thứ
cho kẻ thù và cầu nguyện cho người xúc phạm; vì chúng ta không chịu xét mình để
nhìn ra tình thương tha thứ và cách cư xử của Thiên Chúa với chúng ta.
- Một khi chúng ta
nhìn ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa và cách cư xử của Thiên Chúa, chúng
ta sẽ dễ dàng tha thứ cho anh chị em hơn; và nhận ra những gì họ xúc phạm đến
chúng ta không thể so sánh với những gì chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
- Sau cùng, tất cả chỉ
là tình thương. Nếu chúng ta đã nhận được tình thương từ Thiên Chúa, chúng ta
cũng phải chia sẻ tình thương cho nhau.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th. Sy-ri-lô, gm
Giê-ru-sa-lem, tiến sĩ HT Lc 15,1-3.11-32
NỖI MONG, NỖI NHỚ!
“Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã
trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để.” (Lc 15,20)
Suy niệm: Nỗi đợi chờ nơi
người cha già đầy ắp yêu thương và hy vọng. Ông quay quắt mong đứa con đi hoang
trở về; vì thế khi người con còn ở đàng xa, ông đã nhìn thấy. Tình yêu thúc
giục ông chạy đến đón con, ôm con vào lòng và hôn con thắm thiết! Người cha già
nhân hậu đó chính là Thiên Chúa. Còn người con đi hoang chính là chúng ta, là
tôi là bạn… Thiên Chúa tha thiết mong ta trở về. Ngài quên hết mọi lỗi lầm của
ta. Tình yêu của Ngài lớn hơn mọi tội ta đã phạm!
Mời Bạn: Bạn
có khi nào quá ‘sĩ diện’ đến nỗi không dám trở về làm hoà với Chúa dù biết mình
đã lỗi phạm? Bạn hãy nhớ lại những lần bạn đến lãnh nhận bí tích giao hoà, bạn
có thành tâm sám hối vì cảm nhận được lòng Chúa nhân từ hay bạn chỉ làm một
cách khô khan, theo thói quen? Hãy để cho câu chuyện Tình Phụ Tử
hôm nay in đậm trong tâm trí bạn, đánh động tâm hồn bạn, nhờ đó bạn sẽ có thể
quay về với Chúa mỗi ngày.
Chia sẻ: Làm
thế nào để việc ‘xưng tội’ thực sự trở thành một cuộc giao hoà với Chúa và với
anh chị em?
Sống Lời Chúa: Cảm
nhận sự thực rằng Thiên Chúa đang mong chờ bạn. Mỗi ngày, đặc biệt trong mùa
Chay thánh này, bạn hãy quyết tâm quay về với Chúa bằng cách dứt khoát chừa bỏ
một thói hư, một tật xấu đang hoành hành nơi bạn.
Cầu nguyện: Đọc kinh Ăn Năn Tội hoặc
hát một bài thánh ca diễn tả tâm tình thống hối.
(5 phút lời Chúa)
Ăn mừng (18.3.2017 – Thứ bảy Tuần 2 Mùa Chay)
Hoán cải bao giờ cũng khó. Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha. Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào. Cả hai người con đều cần hoán cải.
Suy niệm:
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó Đức Giêsu cho thấy
tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài
giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là
người tôn trọng tự do của đứa con thứ,
người đã chia một phần ba
gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con, như
người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm
muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người
đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì
thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông
đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm
ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi,
không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi
ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu
vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở
trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng
khó.
Con thứ phải can đảm lắm
mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản
ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong
tình trạng thân tàn ma dại?
Nhưng con cả cũng không
dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt
tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận
sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần
hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào
với cha không kém gì đứa em (c. 30).
Em bỏ nhà ra đi nên đói,
còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.
Anh phục vụ cha rất tốt
nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).
Anh ở gần cha, nhưng thực
sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về
thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở
về với Cha, trở lại với anh em.
Người con thứ đã đứng lên
trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có
vào nhà cha và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự
định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội
của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh
phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do
bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến
chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban
tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình
tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và
bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về
với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh
những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng
lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn
hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy
Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được
Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình
hiền hòa hơn với tha nhân.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG BA
Hệ Tại Ở Tấm Lòng
Giáo Hội kêu gọi chúng
ta hòa giải với Thiên Chúa. Tin Mừng nhắc chúng ta rằng việc hòa giải hệ tại ở
tấm lòng. Cốt lõi của đời sống đức tin chính là một thái độ đúng đắn đối với
chính mình và đối với Thiên Chúa. Nếu chúng ta là những môn đệ đích thực và những
chứng nhân của Đức Kitô, chúng ta không thể sống mà không tìm kiếm sự hòa giải
bên trong tâm hồn mình đối với Thiên Chúa. Chúng ta không thể ở lại trong tội lỗi,
cũng không thể tiến bước trên đường về nhà Cha bằng … nửa tấm lòng – trong khi
Cha đang nóng ruột quay quắt chờ mong trông thấy bóng ta trở về!
Qua dụ ngôn Người Con
Đi Hoang, Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy sức mạnh và cái đẹp của sự giao hòa
bằng cách đánh động không chỉ trí năng của ta mà cả óc tưởng tượng, trái tim và
lương tâm ta nữa. Biết bao con người trong các thời đại đã qua, và biết bao con
người thời nay đã gặp đi gặp lại nơi dụ ngôn này câu chuyện riêng tư của chính
mình!
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 18 – 3
Thánh Cyrillô
Giêrusalem, tiến sĩ Hội Thánh
Mk 7, 14-15.18-20;
Lc 15, 1-3.11-32.
Lời suy niệm: “Các người
thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những
người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: Ông này đón tiếp phường tội
lỗi và ăn uống với chúng.”
Chúa Giêsu thường để
những người tội lỗi và những người thu thuế lui tới với Người và Người thường
ăn uống với họ, bởi vì họ là những người đã nhận ra mình là người tội lỗi cần đến
lòng thương xót của Người. Đồng thời Chúa cũng cần phải chữa lành họ, như một vị
lương y.
Lạy Chúa Giêsu. Ước gì
mỗi người chúng con được vui hưởng trong ơn Cứu Độ của Chúa như ngôn sứ Isaia
đã nói: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và được Người
thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng
hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.” (Is 25,9)
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 18-03: Thánh
CYRILÔ Thành GIÊRUSALEM
Giám mục Tiến sĩ
(315 - 387)
Xi-ri-lô nhiệt thành học
kinh thánh tại Giêrusalem. Khoảng 30 tuổi, Ngài được thụ phong linh mục và sau
nhiều thăng trầm Ngài trở thành giám mục Giêrusalem.
Một phép lạ ghi dấu khởi
đầu đời giám mục của Ngài. Chính Ngài đã kể lại phép lạ ấy trong một lá thư gửi
cho các vua Constansce. Ngày 7 tháng 5 năm 351, vào buổi sáng, trên nền trời
thành phố hiện ra một cây thánh giá sáng chói. Thánh giá trải dài từ đỉnh Canvê
tới cây dầu. Cảm kích tột độ, đàn ông đàn bà và trẻ em bỏ nhà chạy đến nhà thờ,
lớn tiếng ca ngợi Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Các khách hành hương đến viếng đất
thánh loan đi khắp nơi.
Nhiều lương dân và người
Do thái trở lại, Xi-ri-lô viết thư cho hoàng đế Constance biết hiện tượng lạ
thường này như lời kêu gọi nhà vua trở về với đức tin công giáo.
Mục đích đầu tiên của
Xi-ri-lô là nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất giữa các tâm hồn vì không có sự phân rẽ
nào có thể tổn tại được trong lòng Giáo hội, lòng bác ái của Ngài bao trùm hết
những người đau khổ, đến nỗi Ngài bị trách cứ là đã bán đồ thánh và nhất là những
đồ trang hoàng đại đế Contastinô đã hiến dâng cho nhà thờ.
Các giáo huấn của Ngài
còn giữ lại được, đã chúng tỏ rằng: trong những thế kỷ đầu, người ta đã tôn
kính dấu thánh giá thế nào, Ngài khuyên : - "Hãy in dấu thánh giá Chúa
Giêsu Kitô trên trán các con. Thấy dấu này quỉ ma sẽ chạy trốn. Hãy làm dấu
thánh giá khi ăn uống, khi thức dậy cũng như khi ngủ. Hãy làm dấu thánh giá
trong mọi hành động".
Là mục tử gương mẫu,
thánh Xi-ri-lô kiên quyết bảo vệ chân lý đức tin chống lại những kẻ lạc giáo.
Ba lần Ngài bệ đày khỏi Giêrusalem và ba lần Ngài được tái lập tại tòa giám mục.
Dưới thời Julianô bội giáo, khi trở lại địa phận, Ngài sẽ là chứng nhân của một
sự lạ nữa không thể quên được.
Nhà vua muốn đưa ra một
sự phủ nhận đối với lời tuyên bố của Chúa Giêsu về việc tàn phá đền thờ
Giêrusalem, Chúa Giêsu đã loan báo rằng: đền thờ sẽ bị phá huỷ và không còn hòn
đá nào trên hòn đá nào. Nhà vua muốn phủ nhận lời tiên báo, định xây lại nhà thờ
tái lập lại việc thờ phượng của Do thái giáo. Các công nhân đổ về Giêrusalem. Để
tái thiết đền thờ người ta đã dâng hiến mọi của cải cần thiết. Dân Do thái khắp
nơi tụ tập lại. Hãnh diện vì sự bao bọc của nhà vua, họ khinh miệt và đe dọa
các Kitô hữu. Đức giám mục bị tấn công cả từ phía các lương dân lẫn các tín hữu
quá yếu kém lòng tin.
iữa những nhục mạ của
một số người và nước mắt của một số người khác, Ngài quả quyết rằng sự thách thức
bất lương sẽ đổi thành cơn bấn loạn cho lương dân và cho người Do thái. Trong
khi đó, đêm ngày triệt hạ cái nền móng cũ một cách vô tình, người Do thái đã nỗ
lực hoàn thành lời tiên báo không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi họ bắt đầu
thực hiện việc xây cất thì có những cơn giông thổi lửa xuống đất, thiêu đốt các
công nhân, làm cho họ không ai tới nơi để thực hiện công trình được. Julianô đã
nghĩ tới truyện trả thù Xi-ri-lô vì sự thất bại khủng khiếp của ông. Nhưng cái
chết đã ngăn cản không cho ông thực hiện ý định.
Đang khi lo lắng cho địa
phận mình, Xi-ri-lô lại nhận được sắc lệnh lưu đày mới thời Valens. Ngài bị lưu
đày mười một năm và đã trở lại vĩnh viễn tại Giêrusalem dưới thời vua Gratianô.
Ngài đã tham dự công đồng
Constantinople. Các giám mục họp lại, viết thư cho Đức Giáo hoàng để ca tụng đức
tin và thái độ anh hùng của Xi-ri-lô. Đây là chứng tích cuối cùng về con người
vĩ đại đã bảo vệ đức tin Kitô giáo này.
(daminhvn.net)
18 Tháng Ba
Ðất Thánh
Một giáo xứ miền
quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có được một ngôi nhà thờ xây cất hẳn
hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy
nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng... Với sự hăng say bộc
phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của
các chức sắc trong giáo xứ: kẻ góp tiền, người cho vật dụng... Thế nhưng vấn đề
cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất nhà thờ. Người trong
làng này thì muốn ngôi nhà thờ tọa lạc trong làng của mình. Người bên làng kia
thì lại muốn ngôi nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ
tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền đã có sẵn, vật dụng cũng đã
đầy đủ, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên bên làng nào.
Giữa lúc vấn đề địa
điểm chưa ngã ngũ, thì một vấn đề lớn lại xảy ra: một nạn hạn hán trầm trọng đe
dọa dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn
hán hơn là xây cất nhà thờ. Nhưng sức người có hạn, việc dẫn thủy nhập điền
không đạt được chỉ tiêu. Năm đó, toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói
khát.
Sống bên cạnh nhau,
cho nên mặc dù ngăn cách về hành chính, dân hai làng vẫn coi nhau như bà con ruột
thịt... Có hai gia đình nông dân nọ rất mực thương nhau và tương trợ nhau. Một
người bên làng này luôn nghĩ đến cảnh đói khổ mà người bạn bên làng kia đang phải
chịu. Thế là một đêm nọ, anh đã phân chia phần lúa thóc thu hoạch được trong vụ
mùa vừa qua và lặng lẽ vác lên vai để mang qua cứu trợ người bạn của làng bên cạnh...
Trong khi đó thì người bạn bên làng bên cạnh cũng có một ý nghĩ tương tự. Anh
cũng hành động y như người bạn của mình. Cũng chính đêm hôm đó, anh đã sớt bớt
phần lúa của mình để mang qua biếu người bạn ở làng kế bên... Giữa đêm tối,
không hẹn hò, hai người bạn đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động.
Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, hai người đã hiểu
nhau: Họ bỏ bao lúa xuống đất và ôm trầm lấy nhau... Ðiểm gặp gỡ của tình bạn,
của tình tương thân tương ái, của tình liên đới, của chia sẻ ấy đã được giáo
dân của hai ngôi làng gọi là đất Thánh và không cần phải mất nhiều thủ tục để
giải quyết, họ đã đồng thanh chọn địa điểm ấy làm nơi xây cất nhà thờ.
Nhà thờ là nơi hẹn hò:
hẹn hò với Thiên Chúa, hẹn hò với con người. Không ai đến nhà thờ mà không tìm
gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi đỡ nâng từ những người anh em của
mình... Do đó, nhà thờ phải là điểm đến của mọi nẻo đường, nhà thờ phải là nơi
hội tụ của mọi xây dựng, nhà thờ phải là giải đáp của mọi tranh luận... Người
ta không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ mà lại làm ngơ trước
những người đang dẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ
trong khi bên lề đường có bao nhiêu kẻ lê lết trong đói khổ... Phải chăng, nhà
thờ chỉ có thể xây dựng ngay chính trên đất Thánh của chia sẻ, của san sớt, của
tình liên đới mà thôi? Phải chăng, việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi
nó là điểm đến, là biểu trưng của chính những viên gạch bác ái mà người ta
không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày?
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Luca
15:1-3, 11-32
Thứ Bảy, 18 Tháng 3, 2017
Thứ Bảy Tuần II Mùa Chay
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Chúa Cha Trung Tín, Chúa là Thiên Chúa của chúng con
Chúa của ân sủng, lòng thương xót và tha thứ.
Lạy Chúa, khi mà lòng thương xót và tha thứ nghe có vẻ như thuộc về chế
độ gia trưởng cho người thời nay,
Thì lại khiến cho chúng con nhận ra được,
Rằng Chúa thách thức chúng con phải đối diện với chính mình
Và trở thành con người mới,
Chịu trách nhiệm về số phận của chính mình
Và vì hạnh phúc của người khác.
Xin Chúa hãy làm cho chúng con biết đáp trả lại tình yêu của Chúa
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2.
Phúc Âm – Luca 15:1-3, 11-32
Khi ấy, những người thu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để
nghe Người giảng. Thấy vậy, những người
Biệt Phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông
này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
“Người kia có hai con trai. Đứa
em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về
con’. Người cha liền chia gia tài cho
các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt
tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền
của.
Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu
cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc
cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng,
nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới
hồi tâm lại và tự nhủ: ‘Biết bao người
làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết
đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi
và thưa người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không
đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của
cha”’. Vậy nó ra đi và trở về với cha
nó.
Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông
chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu.
Người con trai lúc đó thưa rằng:
‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi
là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo các
đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và
mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng,
vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
Người con cả đang ở ngoài đồng.
Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy
tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ
nói: ‘Đó là em cậu đã trở về và cha cậu
đã giết con bê béo, vì thấy cậu trở về mạnh khỏe’. Anh liền nổi giận và quyết định không vào
nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh
trả lời: ‘Cha coi, đã bao nhiều năm con
hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng
con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi
phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt
con bê béo ăn mừng nó’.
Nhưng người cha bảo: ‘Hỡi con,
con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã
chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’”.
3.
Suy Niệm
- Chương 15 của sách Tin Mừng
Luca được kèm theo những dữ kiện sau đây:
“Những người thu thuế và những người tội lỗi, tất cả mọi người đều vây
quanh Chúa Giêsu để nghe Người giảng, và các người Biệt Phái và Kinh Sư lẩm bẩm
rằng: ‘Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi
và ngồi ăn uống với chúng’ (Lc 15:1-3).
Ngay lập tức, Luca trình bày ba dụ ngôn được kết lại với nhau bởi cùng một
chủ đề: con chiên lạc (Lc 15:4-7), đồng
tiền bị đánh mất (Lc 15:8-10), đứa con bị mất (Lc 15:11-32). Dụ ngôn cuối cùng này tạo thành chủ đề của
bài Tin Mừng hôm nay.
- Lc 15:11-13: Quyết định của người con thứ. Người kia có hai con trai. Đứa em xin chia phần gia tài thuộc về nó. Người cha chia tất cả gia tài cho hai con và
cả hai đều nhận phần gia tài của chúng.
Được nhận phần thừa kế không phải vì bất cứ công trạng nào của chúng
ta. Đó là món quà cho không. Việc thừa kế những ân huệ của Thiên Chúa được
phân chia cho tất cả nhân loại, cho dù là dân Do Thái hay dân ngoại, cho dù là
Kitô hữu hay không phải là Kitô hữu. Tất
cả mọi người đều nhận được một phần gia nghiệp của Chúa Cha. Nhưng không phải tất cả ai cũng chăm sóc nó
trong cùng một cách. Trong trường hợp
tương tự, đứa con thứ bỏ nhà và trẩy đi miền đất xa xôi, và phung phí tiền bạc
của mình vào cuộc sống trác táng, lìa xa người Cha. Vào thời thánh sử Luca, người con cả được tượng
trưng cho các cộng đoàn phát xuất từ Do Thái giáo, và người con thứ được tượng
trưng cho các cộng đoàn họp thành từ dân ngoại.
Và ngày nay, người con út là ai, và người con cả là ai?
- Lc 15:14-19: Ảo tưởng và ý chí quay trở về nhà Cha. Nhu cầu sinh nhai khiến cho người thanh niên
đánh mất sự tự do của mình và anh ta trở thành người làm công và phải chăn
heo. Đây là tình trạng đời sống của hàng
triệu người nô lệ trong Đế quốc La Mã vào thời thánh Luca. Tình huống khiến người con thứ hồi tưởng lại
cuộc sống ngày xưa ở nhà Cha mình. Cuối
cùng, anh ta nhủ thầm những lời mà anh ta sẽ nói với người Cha: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến
cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người
làm công của cha!” Người làm công làm
theo lệnh của chủ, phải hoàn thành bổn phận của người tôi tớ. Người con thứ muốn tuân thủ lề luật y như người
Biệt Phái và Kinh Sư của thời Chúa Giêsu muốn (Lc 15:1). Sứ vụ của người Biệt Phái cáo buộc dân ngoại
là những người đã cải đạo sang đạo Thiên Chúa của ông Abraham (Mt 23:15). Vào thời của ông Luca, một số Kitô hữu xuất
phát từ Do Thái giáo, tự mang cái ách của Lề Luật vào mình (Ga 1:6-10).
- Lc 15:20-24: Niềm vui mừng của người Cha khi ông được gặp
lại người con thứ của mình. Dụ ngôn nói
rằng khi người con thứ còn ở đàng xa, mà người Cha đã trông thấy con mình, và
chạy lại, ôm choàng lấy nó và hôn nó.
Chúa Giêsu cho chúng ta ấn tượng rằng người Cha vẫn luôn ở bên cửa sổ để
ngóng xem con mình có xuất hiện ở đầu ngõ không. Theo lối suy nghĩ và cảm xúc của con người,
niềm vui mừng của người Cha dường như được phóng đại. Thậm chí ông ấy đã không để cho con mình nói
hết những gì nó muốn nói. Không ai muốn
nghe! Người Cha không muốn con của ông
trở thành kẻ nô lệ cho mình. Ông muốn nó
là con của ông! Đây là Tin Mừng tuyệt vời
mà Chúa Giêsu đã đem đến cho chúng ta! Một
chiếc áo mới, giầy mới, nhẫn đeo vào tay nó, con bê, tiệc mừng! Trong niềm vui lớn lao của việc gặp gỡ, Chúa
Giêsu cho chúng ta thấy nỗi buồn to lớn của người Cha như thế nào vì sự mất mát
con trai của ông. Thiên Chúa đã rất buồn
và người ta bây giờ đã ý thức được điều này, khi nhìn thấy niềm vui bao la của
người Cha vì được gặp lại con mình! Đó
là niềm vui được chia sẻ với tất cả mọi người trong tiệc mừng mà ông đã chuẩn bị
sẵn sàng.
- Lc 15:25-28a: Phản ứng của người con cả. Người con cả từ ngoài ruộng trở về và trông
thấy trong nhà đang có yến tiệc linh đình.
Anh ta từ chối bước vào nhà. Anh
ta muốn biết chuyện gì đang xảy ra. Khi
được biết lý do cho việc ăn uống linh đình, anh ta liền nổi giận và quyết định
không vào nhà. Anh ta tự cách biệt, anh
ta nghĩ mình có quyền lợi riêng. Anh ta
không thích việc yến tiệc và không hiểu được lý do cho sự vui mừng của Cha
mình. Đây là dấu hiệu cho thấy anh ta đã
không có sự gắn bó mật thiết với Cha, mặc dù thực tế là họ sống trong cùng một
nhà. Thật ra, nếu người con cả đã có
liên hệ mật thiết với Cha mình, thì anh ta đã nhận ra được nỗi muộn phiền của
người Cha vì mất đi người con thứ và sẽ hiểu được niềm vui mừng của ông khi thấy
con mình trở về. Những ai sống rất lo lắng
về việc tuân giữ Lề Luật Thiên Chúa, có nguy cơ quên chính Thiên Chúa! Người con thứ, dù rằng sống xa nhà, dường như
biết về Cha nhiều hơn người con cả là kẻ sống chung nhà với ông. Bởi vì người con thứ đã có can đảm để quay trở
về với Cha mình, trong khi đó người con cả thì lại không muốn bước vào nhà
Cha. Anh ta không ý thức được rằng không
có anh ta, người Cha sẽ mất đi niềm vui mừng.
Bởi vì, anh ta, người con trưởng, cũng là con, giống như người con thứ!
- Lc 15:28b-30: Thái độ của người Cha và câu trả lời của người
con cả. Người Cha đi ra và xin người con
cả vào nhà. Nhưng anh ta trả lời: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha,
không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con
bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết
tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê
béo ăn mừng nó”. Người con cả cũng muốn
có một bữa tiệc và vui chơi, nhưng chỉ với nhóm bạn riêng của anh ta thôi. Không muốn vui với em mình và càng không muốn
với Cha mình, và anh ta không gọi em mình là em, mà lại gọi “thằng con của cha
kia”, như thể rằng người con thứ không còn là em của anh ta nữa. Và anh ta, người con cả, nói đến những cô gái
mãi dâm. Đó là ác tâm mà anh ta diễn giải
cuộc sống của em mình theo cách này. Đã
bao nhiêu lần, người Công Giáo chúng ta đã diễn giải tồi tệ về đời sống và tôn
giáo của các kẻ khác! Thái độ của người
Cha thì ngược lại! Ông chấp nhận người
con thứ, nhưng cũng không muốn mất người con cả. Cả hai đều là phần tử của gia đình. Người này không thể loại trừ người kia!
- Lc 15:31-32: Câu trả lời cuối cùng của người Cha. Người Cha là người đã không chú ý đến lời đối
đáp của người con thứ, thì trong cùng một cách, ông cũng không màng đến những lời
của người con cả và nói rằng: “Hỡi con,
con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã
chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy!”
Có phải là người con cả đã thực sự nhận thức được rằng anh ta luôn ở bên
Cha mình và tìm thấy rằng sự hiện diện của anh ta là nguyên nhân cho niềm vui của
cha mình không? Câu nói: “Mọi sự của cha đều là của con!” cũng bao gồm
cả người con thứ là người đã quay về nhà!
Người con cả không có quyền phân biệt, và nếu anh ta muốn là con trai của
người Cha, thì anh ta phải chấp nhận người cha như thế và không như là người
cha mà anh ta muốn! Câu chuyện dụ ngôn
không nói đến câu trả lời của người con cả ra sao sau đó. Điều đó tùy thuộc vào người con cả, mà chúng
ta là người ấy, cho câu trả lời!
- Những ai có kinh nghiệm về sự dạt
dào đáng ngạc nhiên và cho không về tình yêu Thiên Chúa trong đời sống của mình
thì trở nên vui vẻ và mong muốn được truyền bá niềm vui mừng này cho những người
khác. Hành động cứu độ của Thiên Chúa là
nguồn mạch của sự vui mừng: “Hãy chung
vui với tôi!” (Lc 15:6-9). Và từ kinh
nghiệm này về sự cho không của Thiên Chúa dấy lên ý nghĩa của tiệc mừng và niềm
vui (Lc 15:32). Vào cuối câu chuyện dụ
ngôn, người Cha đòi hỏi phải được hạnh phúc và ăn mừng, tiệc vui. Niềm vui mừng đang bị đe dọa bởi người con cả,
là người không muốn vào nhà. Anh ta nghĩ
rằng mình có quyền vui vẻ nhưng chỉ riêng với chúng bạn của mình và không muốn
chia sẻ niềm vui mừng với tất cả các thành viên của gia đình nhân loại. Anh ta đại diện cho những ai tự coi mình là
công chính và tuân giữ lề luật, và những ai nghĩ rằng họ không cần bất kỳ một sự
chuyển đổi nào.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Đâu là hình ảnh về Thiên Chúa
mà tôi đã có từ thời thơ ấu? Hình ảnh ấy
có đã thay đổi trong những năm qua không?
Nếu nó đã thay đổi, tại sao?
- Trong hai người con, tôi nhận
thấy mình giống người con nào: người con thứ hay người con cả? Tại sao?
5. Lời
nguyện kết
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
Toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
(Tv 103:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét