THỨ BA 10/12/2013
Thứ Ba Tuần II Mùa
Vọng
Bài
Ðọc I: Is 40, 1-11
"Thiên
Chúa an ủi dân Người".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Chúa
ngươi phán: Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! Hãy nói với Giêrusalem, và kêu
gọi rằng: Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp
hai lần tội lỗi.
Và
có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng
ta trong hoang địa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi;
con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng.
Và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, mọi người sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa,
vì Ngài đã phán. Có tiếng bảo: "Hãy hô lên!", và tôi nói: "Tôi sẽ
hô lên điều gì?" Mọi xác phàm như cỏ dại; mọi vinh quang của nó đều như
hoa ngoài đồng. Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, vì hơi Chúa đã thổi trên chúng. Vì
chưng, dân là cỏ dại: Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, mà lời Chúa chúng ta tồn tại đến
muôn đời.
Hỡi
ngươi là kẻ đem tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi ngươi là kẻ đưa
tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng. Hãy cất tiếng cao, đừng sợ!
Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Ðây Thiên Chúa các ngươi,
đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực, và cánh tay Người sẽ
thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng, và đưa đi trước những
chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như một mục tử. Người ẵm những
chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 95, 1-2. 3 và 10ac. 11-12. 13
Ðáp: Thiên Chúa
chúng ta sẽ đến trong uy quyền (Is 40, 9-10).
Xướng:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa
cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2)
Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị, Người cai quản chư dân theo
đường đoan chính. - Ðáp.
3)
Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó
hãy reo lên; đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. - Ðáp.
4)
Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở, trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì
Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư
dân cách chân thành. - Ðáp.
Alleluia:
Lc 3, 4. 6
Alleluia,
alleluia! - Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người
sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 18, 12-14
"Chúa
không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một
trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con
trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy
bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên
không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những
kẻ bé nhỏ này phải hư đi".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Phải
Tha Thứ Luôn Luôn
Sống
ở trên đời, ai cũng mong ước mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là
gặp được nhiều may mắn thành công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông
cảm cho đến đỉnh cao của tiền tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ
cùng cực cất đầu không lên được với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự
an ủi mình bằng câu: "Thất bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con
người mới thấy giá trị đích thực của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con
người mới cảm thấy giá trị của đau khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công
từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu
như con người từ nhỏ đến lớn sống hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc
đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ.
Vì thế theo thông thường chúng ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía
cạnh này thì vướng mắc khía cạnh khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm
lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận
ra được khuyết điểm sai lỗi của chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết
điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong
các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ
chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an
ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ
cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý
nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.
Từ
thái độ đó thường làm cho người có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù
sao đi nữa thì trong tâm trạng đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên,
vui vẻ lạc quan yêu đời như trước khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình
trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu
nói của một triết gia nọ: "Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng
nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp
mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ
soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì?
Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên
Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con
trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng
vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".
Thiên
Chúa đã dạy chúng ta không những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần
bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa
Giêsu nói: "Nếu trong một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy
lần người ấy đến nói với con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho
nó". Khi thấy điều đó khó thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã
thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn
nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ
hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.
Trong
dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi
trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin
cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời
xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay
cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của
cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con
trong nhà. Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã
chết nay được sống lại. Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi
lầm của đứa con hoang đàng trở về.
Trong
đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông
vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán
anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới
chân chủ mà van lơn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả
cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh
ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta
tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới
chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó
tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng
thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình
hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh.
Chúng
ta đôi khi cũng thế, lòng Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta
không biết bao nhiêu, vậy mà đối với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ,
không tha thứ cho nhau dù chỉ là những lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa
là người Cha đầy tình thương dung thứ.
Lạy
Chúa, xin cho mỗi người chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của
Thiên Chúa để chúng con đáp lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài.
Xin Chúa cho chúng con biết tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy
mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.
(Veriras Asia)
Lectio: Mátthêu 18:12-14
Thứ Ba, 10 Tháng 12, 2013
Tuần thứ hai Mùa
Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con,
Chúa đang ở gần bên chúng con
Trong Đức Giêsu Kitô Con của Chúa.
Khi chúng con đi lạc,
Chúa đi tìm chúng con cho đến khi tìm thấy chúng con.
Xin Chúa hãy đưa chúng con trở về bên Chúa,
Xin cho chúng con thấy đường đi đến Chúa
Và đến với nhau
Nhờ Người là đường của chúng con,
Đức Giêsu Kitô, Con của Chúa và là Chúa của chúng con,
Đấng hằng sống với Chúa và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời.
2. Phúc Âm – Mátthêu 18:12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ
rằng: “Chúng con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên
mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để
đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật Thầy bảo
chúng con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên
không thất lạc. Cũng vậy, Cha chúng con ở trên trời không muốn để
một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi.”
3. Suy Niệm
- Một dụ ngôn không phải là một
giáo lý để được tiếp nhận một cách thụ động hay là chỉ để giữ lại trong trí
nhớ, mà nó là một lời mời gọi tham gia vào việc khám phá ra chân lý. Đức
Giêsu bắt đầu bằng câu hỏi: “Chúng con nghĩ sao?” Một dụ
ngôn là một câu hỏi với một câu trả lời không được vạch rõ. Câu trả
lời tùy thuộc vào phản ứng và sự tham gia của người nghe. Vì thế,
chúng ta hãy tìm kiếm câu trả lời cho bài dụ ngôn chiên lạc này.
- Chúa Giêsu kể một câu chuyện rất
ngắn và trong một cách rất đơn giản: một người chăn chiên có một
trăm con chiên, mà lạc mất một con, người đó đã bỏ chín mươi chín con trên núi
và đi tìm con chiên lạc. Và Chúa Giêsu hỏi: “Các con nghĩ
sao?” Có nghĩa là: “Các con có sẽ làm như thế
không?” Câu trả lời của các mục tử và của những người khác đang lắng
nghe Chúa Giêsu kể câu chuyện này sẽ là gì? Liệu họ có sẽ cũng làm
như thế không? Câu trả lời của tôi cho câu hỏi của Chúa Giêsu là
gì? Chúng ta hãy suy nghĩ kỹ trước khi trả lời.
- Nếu bạn có một trăm con chiên mà
lạc mất một con, thì bạn sẽ làm gì? Chúng ta không nên quên rằng núi
non là nơi rất khó lên xuống, với những vách núi đá, nơi mà những thú dữ trú
ngụ và bọn trộm cướp ẩn náu. Và bạn không thể quên rằng bạn đã chỉ
lạc mất có một con chiên, và vì thế, bạn vẫn còn có chín mươi chín con! Bạn
chỉ mất mát rất ít. Liệu bạn có sẽ bỏ rơi chín mươi chín con chiên
kia trên núi không? Một người với một chút suy nghĩ bình thường có
sẽ hành động như người mục tử trong câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu
không? Hãy suy nghĩ cho kỹ!
- Những người chăn chiên đang lắng
nghe trong câu chuyện của Chúa Giêsu, có lẽ đã suy nghĩ và nhận xét: “Chỉ
có kẻ chăn chiên thiếu chín chắn mới hành động như thế!” Cách chắc
chắn, họ sẽ hỏi lại Chúa Giêsu: “Thưa Ngài Giêsu, xin thứ lỗi cho
chúng tôi, nhưng kẻ chăn chiên nào mà Ngài đang nói tới thế? Kẻ nào mà đi
làm những chuyện như thế thì thật là đồ ngốc!
- Chúa Giêsu đáp lời: “Vị
Mục Tử này là Thiên Chúa, Chúa Cha của chúng ta, và con chiên lạc là các
con!” Nói cách khác, người đi làm việc này là Thiên Chúa, được thúc
đẩy bởi tình yêu cao cả dành cho những kẻ bé mọn, cho những người nghèo khó,
những kẻ bị khinh chê! Chỉ có tình yêu tuyệt vời mới có khả năng làm
được những việc đến độ ngông cuồng như vậy. Tình yêu mà Thiên Chúa
yêu thương chúng ta vượt hẳn mọi sự thận trọng và lý lẽ khôn ngoan của loài
người. Tình yêu của Thiên Chúa liên lụy đến những việc ngốc
nghếch. Tạ ơn Chúa! Nếu không có những việc ngông cuồng
như thế này, thì chúng ta sẽ bị hư mất!
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc
suy gẫm cá nhân
- Bạn hãy đặt mình trong trường hợp
con chiên lạc và làm sinh động đức tin và niềm cậy trông của bạn. Bạn đang
là con chiên đó!
- Bạn hãy mình vào vị trí của người
chăn chiên và minh xác xem tình yêu thương của bạn dành cho những kẻ bé mọn có
thật hay không.
5. Lời nguyện kết
Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
Hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!
Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh!
Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu
độ. (Tv 96)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần II MV
Bài đọc: Isa 40:1-11; Mt
18:12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tha thứ
Con
người thường có khuynh hướng yêu những người đáng yêu và lọai bỏ những người
đáng ghét; nhưng nếu con người cứ theo khuynh hướng này, thì chẳng mấy chốc con
người sẽ hết người để yêu, vì người nào cũng là tập hợp của cả cái đáng yêu và
cái đáng ghét. Một tình yêu chân thật đòi mọi người phải biết yêu thương tha thứ
cho tha nhân như Thiên Chúa luôn yêu thương tha thứ cho con người.
Các
Bài đọc hôm nay đều xoay quanh chủ đề yêu thương và tha thứ. Trong Bài đọc I,
Tiên Tri Isaiah ví Thiên Chúa như Mục Tử: Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập
trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ,
cũng tận tình dẫn dắt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho khán giả: “Ai
có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia
trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?” Một con chiên lạc có thể không gây sự
quan tâm cho con người, nhưng là một quan tâm cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu chính
là Mục Tử Tốt Lành, Ngài xuống trần để tìm những chiên lạc về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Mọi người đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
1.1/
Dân chúng bị lưu đày vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa: Đền Thờ bị phá hủy,
Thành Jerusalem bị san phẳng, vua quan và dân chúng bị lưu đày vì đã phạm tội
và khinh thường những lời Chúa cảnh cáo qua các tiên tri. Chúa có quyền ngỏanh
mặt để kẻ thù trừng trị đích đáng dân phản nghịch; nhưng Ngài không nỡ để dân
phải chết, vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương. Ngài phải sửa phạt để thanh luyện
tội lỗi, nhưng luôn quan tâm và gởi các sứ giả đến khích lệ dân trong thời gian
lưu đày, như trình thuật của Tiên Tri Isaiah hôm nay: “Thiên Chúa anh em phán:
"Hãy an ủi, an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Jerusalem, và hô lên
cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành
đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm."” Thành ở đây là
Jerusalem, được nhân cách hóa để chỉ Israel.
1.2/
Tội sẽ được tha nếu dân biết ăn năn sám hối:
(1)
Dân phải chuẩn bị đường cho Chúa tới: Vì dân đã phạm tội nên Thiên Chúa rời xa họ. Để được
Thiên Chúa trở lại, họ phải thanh tẩy mọi tội lỗi đã xúc phạm đến Ngài; vì
Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện, Ngài không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi.
Thiên Chúa gởi sứ giả của Ngài tới tận nơi lưu đày để kêu gọi và giúp dân ăn
năn trở lại. TT Isaiah tường thuật: “Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy mở một
con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho
Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ
vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng
Đức Chúa đã tuyên phán."”
(2)
Tội nặng nhất là tội không biết kính sợ Thiên Chúa: Trong hầu hết các
Sách Khôn Ngoan, các tác giả đều tuyên xưng: “Kính sợ Đức Chúa là nguồn gốc mọi
khôn ngoan.” Vì thế, không biết kính sợ Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi điên rồ.
Đọan văn kế tiếp nói lên sự rồ dại của con người: “Có tiếng nói: "Hãy hô
lên!" Tôi thưa: "Phải hô lên điều gì?" "Người phàm nào cũng
đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức
Chúa thổi qua. Phải, dân là cỏ: cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng
ta đời đời bền vững."”
Con
người là cỏ hoa mà nghĩ mình sống không cần đến Thiên Chúa. Ngay từ đầu Sách,
Tiên Tri đã kết án sự rồ dại này, và coi dân phản nghịch còn thua lòai bò lừa:
“Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì Đức Chúa phán: "Ta đã nuôi nấng
đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta. Con bò còn
biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết,
dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa 1:2-3).
1.3/
Thiên Chúa sẽ đón nhận và chăn dắt dân nếu họ biết ăn năn trở lại: Thời gian Lưu Đày
là thời gian thuận tiện để Israel biết ăn năn xét mình, và nhận ra họ không thể
sống mà không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi họ biết phục tùng Thiên Chúa,
Ngài sẽ làm cho họ những điều mà họ không bao giờ ngờ tới; vì Ngài nắm trong
tay mọi chủ quyền. Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước 2 điều sẽ xảy ra khi dân biết
ăn năn trở lại:
(1)
Tương lai gần: Chúa
sẽ cho dân hồi hương để tái thiết lại Đền Thờ và xứ sở: “Hỡi kẻ loan tin mừng
cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Jerusalem, hãy cất tiếng
lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Judah rằng:
“Kìa Thiên Chúa các ngươi!" Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn
chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp
làm nên.”
(2)
Tương lai xa:
Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cai trị dân Ngài: “Như mục tử, Chúa chăn giữ
đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ
vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.”
2/
Phúc Âm:
Cha của anh em không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Con
người có thể đặt câu hỏi: Làm sao Thiên Chúa có thể biết và quan tâm đến tất cả
mọi người trong thế giới này? Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi của Tin Mừng Matthêu,
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy quyền năng và sự quan tâm của Thiên Chúa đến tất cả
mọi người.
2.1/
Thiên Chúa luôn tìm kiếm, dù chỉ một con chiên lạc: Chúa Giêsu đặt câu
hỏi với con người: "Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một
con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc
sao?” Đối với con người, một con chiên lạc không đáng kể gì, vì vẫn còn 99 con
chiên khác; nhất là đối với những con chiên không chịu vâng lời, cố tình đi lạc.
Nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài để 99 con chiên lại để đi tìm con chiên lạc, cho
đến khi tìm được.
2.2/
Ngài vui mừng khi tìm thấy con chiên lạc: Không những đi tìm con chiên lạc, “và nếu may mà tìm
được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì
chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời,
không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thế giới hôm nay đề cao chủ nghĩa cá nhân: chỉ quan tâm đến những gì ích lợi
cho mình, và gạt bỏ những gì gây gánh nặng cho cuộc sống: người già, bệnh nhân,
kẻ thù. Nếu Thiên Chúa cũng lọai bỏ như con người, làm sao chúng ta có cơ hội
được cứu độ?
-
Như lời Kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Xin tha nợ chúng con, như chúng
con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con;” chúng ta phải tha thứ cho
nhau trước khi xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ.
-
Cách tốt nhất để dễ tha thứ cho tha nhân là năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải. Mỗi
khi xét mình trước khi xưng tội, chúng ta nhận ra rất nhiều cái đáng ghét nơi
con người của mình. Điều này làm chúng ta nhìn lỗi lầm của tha nhân với lòng
bao dung hơn, vì họ cũng yếu đuối tội lỗi như mình. Người không năng xét mình
xưng tội rất dễ kết án tha nhân, vì họ tưởng mình không có tội.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mt 18,12-14
A. Hạt giống...
Ta cần lưu ý tới văn mạch của đoạn Tin Mừng này
là Mt chương 18 trong đó Mt gom chung những lời Chúa Giêsu dạy về nếp sống
trong cộng đoàn Giáo Hội : phải phục vụ nhau (cc 1-4), đừng làm cớ cho anh
chị em mình vấp ngã (cc 5-11), tìm cứu những anh chị em lầm lạc (đoạn này), sửa
lỗi cho nhau (cc 15-18) v.v.
Trong một tập thể nhiều người, dĩ nhiên có người
lầm lạc. Nếu không thương nhau thì tập thể sẽ bỏ mặc kẻ lầm lạc đó. Còn nếu
thương nhau thực thì phải tiếc vì một người anh chị em mình bị lạc và do đó cố
gắng tìm về.
Do đó, có thể nói rằng tập thể nào không tiếc xót
một thành viên trong tập thể bị lầm lạc và không tận tình tìm cứu thành viên đó
thì không phải là một tập thể yêu thương, không phải là tập thể có tính Giáo
Hội.
B.... nẩy mầm.
1. Người ta chỉ cố sức tìm lại cái bị mất khi
người ta thấy cái đó có giá trị. Người mục tử mới lặn lội đi tìm con chiên lạc
vì vẫn coi con chiên đó là quý mặc dù nó đi lạc. Đối với Thiên Chúa, người nào
cũng có giá trị, cho dù người đó là tội nhân. Bởi thế Ngài vẫn yêu thương, vẫn
quý chuộng và lặn lội tìm cứu : “Con người đến để tìm cứu những gì hư mất”
(Lc 19,10). Khi tôi không tìm cứu người lầm lạc trong cộng đoàn của tôi là tôi
không còn coi người đó là anh chị em mình nữa, nhưng coi đó là đồ bỏ.
2. “Để 99 con trên núi mà đi tìm con chiên
lạc”... “Vui mừng vì con chiên đó hơn là vì 99 con không bị lạc”. Ta sẽ không
thể hiểu được những câu này nếu ta chỉ suy nghĩ theo luận lý tính toán vụ lợi.
Trái lại ta sẽ hiểu rất dễ nếu suy nghĩ theo lý lẽ của con tim. Như một người
mẹ lạc con, phải chăng bà để các đứa con khác ở nhà và tất tả đi tìm đứa bị
lạc !
3. Việc để 99 con chiên kia trên núi để đi tìm
con chiên lạc chứng tỏ trong tình cảnh đó trong đầu người mục tử không còn nghĩ
gì khác, và trong lòng ông cũng không còn tâm tình gì khác ngoài nỗi lo lắng
cho con chiên lạc : nó rất khổ, nó đói khát, nó phải gặp biết bao nguy
hiểm... Càng thương nó, người mục tử càng thấy lòng mình như bị kim châm, lửa
đốt...
4. Một trong những ý của bài đọc Cựu Ước :
“Ngài chăn dắt đoàn chiên Ngài như một mục tử. Ngài ẵm những con chiên trên
cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ”.
Nhiều khi tôi quen sống trái ngược với tâm tình
của Chúa. Tôi vô tâm, bám vào khẩu hiệu “thiểu số phục tùng đa số”. Do đó có
những cá nhân bơ vơ lạc lõng giữa công đoàn, họ trở thành vô danh giữa đám đông
vô tình, chẳng ai ngó ngàng dìu họ về với nếp sống cộng đoàn.
Lạy Chúa, về một khiá cạnh nào đó, con cũng lại
là một con chiên lạc. Vì ham vui, vì dại dột, vì cố ý… con đã tách rời khỏi bầu
khí của cộng đoàn. Con trở nên lạc lõng bơ vơ giữa cộng đoàn đông người. Nhưng
Chúa hằng lưu tâm tới mỗi cá nhân. Xin Chúa thương dắt con về với cộng đoàn.
5. “Người chăn chiên để 99 con kia trên núi mà đi
tìm con chiên lạc” (Mt 18,12)
Đã có lần tôi cảm thấy ngao ngán khi phải đến
thánh đường. Tất cả những sinh hoạt tôn giáo đối với tôi chỉ mất thời gian và
vô nghĩa. Chúa ở đâu ? Tôi chẳng cần biết nữa. Và tôi tự giải thoát bằng
đam mê học tập, lo toan kiếm sống và chạy theo những thú vui… Cuộc sống vẫn
trôi, vẫn vui.
Rồi một ngày, trên đường đến trường, tôi gặp đám
tang của một bạn trẻ. Sau quan tài, bà mẹ được hai người dìu bước, khóc nức nở…
Cảnh tượng ấy làm tôi hết sức xúc động. Nhìn gương mặt tươi trẻ của anh trong
khuôn ảnh, tôi tự hỏi : Cuộc sống chỉ có thế thôi sao ? Bạn ấy sẽ đi
về đâu ? Còn tôi ? Chẳng lẽ cuộc sống lại kết liễu dễ dàng như vậy
sao ? Tôi cảm thấy băn khoăn, trống rỗng. Chẳng biết phải làm gì nữa, tôi
lại tìm đến Chúa… Nhìn lên thập giá, Chúa Giêsu đang dang tay, đầu gục xuống,
như mong mỏi, chờ đợi tôi từ lâu. Trong thinh lặng, tôi đã nhận ra chính Ngài
đã kiếm tìm tôi qua sự kiện bất ngờ ấy.
Lạy Chúa, xin cho con luôn cảm nhận được tình
Ngài luôn dõi bước theo con, kiếm tìm con, chờ đợi con, dẫu có những lúc con đã
quên Ngài (Epphata).
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
10/12/13 THỨ BA TUẦN 2 MV
Mt 18,12-14
Mt 18,12-14
CHÚA QUÁ YÊU TA
“Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18,14)
Suy niệm: Người mục tử bỏ 99 con chiên trên núi để đi
tìm một con chiên lạc. Chúng ta dễ nghĩ rằng người mục tử này sao lại không biết
cân nhắc tính toán thiệt hơn: đi tìm một con chiên lạc chưa chắc chi tìm được
mà lại có nguy cơ mất thêm mấy chục con khác! Có khi lợi bất cập hại! Thế nhưng
trọng tâm điều Chúa muốn nói chính là tình yêu lớn lao mà người mục tử dành cho
từng con chiên, yêu đến mức không tính toán thiệt hơn, yêu đến nỗi vui mừng vì
một con chiên lạc được tìm thấy, dường như thể niềm vui có 99 con chiên chưa
thể trọn vẹn khi thiếu vắng con chiên thất lạc xấu số này.
Mời Bạn: Chúa
Giêsu chính là người mục tử nhân
lành đó, Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi hy sinh cả mạng sống để cứu chuộc chúng
ta. Cái chết của Ngài trên thập giá là bằng chứng tình yêu vô cùng của người
Mục Tử Giêsu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống
mình vì người mình yêu.” Chúa
đi tìm ta không chỉ một lần mà Ngài vẫn mãi mãi đi tìm ta. Bí tích Hoà giải là
phương thế Chúa lập ra để “đi tìm” chúng ta. Mỗi khi bạn “đi lạc” là phạm tội,
bạn nhớ đến với bí tích hoà giải để Ngài đưa bạn về với đàn chiên.
Chia sẻ: Sau
mỗi lần đi xưng tội, bạn cảm thấy an vui thế nào trong tâm hồn?
Sống Lời Chúa: Siêng
năng xưng tội, nhất là mỗi khi phạm tội trọng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không muốn cho một ai trong
chúng con phải hư mất vì “đi lạc.” Xin cho chúng con cảm nhận sâu xa hạnh phúc
được ở bên Chúa, để mỗi khi chúng con lỡ “đi lạc” chúng con mau quay đầu trở về.
Không
muốn ai hư mất
Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một
người đang lạc ở đâu đó. Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng
niềm vui trọn vẹn.
Suy
niệm:
Chăn
chiên là một nghề đã có từ lâu.
Nhiều
nhà lãnh đạo dân Do Thái như Môsê, Đavít, đều làm nghề này.
Trên
những đồng cỏ mênh mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử,
nên
giữa đôi bên có một sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi.
Chính
vì thế trong Cựu Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên.
Đàn
chiên là dân Do Thái, là dân riêng Ngài rất mực quý yêu:
“Như
mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa…
Lũ
chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy
chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Như
Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ví mình với người mục tử tốt lành.
“Tôi
biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14).
Sự
hiểu biết thân thương này mạnh đến độ
Ngài
dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15).
Sau
khi chết và phục sinh, Đức Giêsu muốn Simon nhận sứ mạng mục tử.
Ngài
mời ông chăm sóc và chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17).
Như
thế đoàn chiên mới của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ.
Qua
bao thế kỷ Giáo Hội vẫn không ngừng có những mục tử mới,
nối
gót Simon Phêrô để phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên.
Nhưng
Đức Giêsu không dạy người mục tử chỉ lo cho cả đoàn,
mà
quên chăm sóc cho từng con chiên một.
Ngài
mời ta để ý đến tập thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ.
Có
khi chỉ một con chiên lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng
đến
nỗi để chín mươi chín con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12).
Không
phải vì coi thường chín mươi chín con không bị lạc,
nhưng
vì người mục tử không muốn mất con nào.
Con
chiên lạc lại có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim mục tử.
Chúng
ta ai cũng có kinh nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất.
Khi
mất thì đứng ngồi không yên,
khi
tìm thấy thì bình an và niềm vui òa vỡ.
Người
mục tử lo âu, vất vả tìm kiếm con chiên lạc,
nhưng
khi tìm được rồi thì niềm vui là vô bờ.
Có
thể nói còn vui hơn chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13).
Dường
như người ta bắt đầu quý một điều từ khi mất điều đó.
Có
khi một người bắt đầu hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi.
Cha
không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14).
Cha
muốn cho mọi người được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4).
Mùa
Vọng là thời gian chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta,
những
người từ lâu đã bỏ nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa.
Mỗi
người chúng ta phải là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau,
khởi
đi từ những người trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen.
Chúng
ta quý nhau vì Thiên Chúa quý từng người chúng ta.
Chúng
ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó.
Nếu
chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu,
Khi
làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa
đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu
rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và
bầu trời vắng tiếng chim.
thì
đó là lỗi của chúng con.
Lạy
Chúa Giêsu,
Chúa
đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy
mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao
trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao
kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó
là lỗi của chúng con.
Lạy
Chúa Giêsu,
Chúa
đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy
mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến
tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người
ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó
là lỗi của chúng con.
Lạy
Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa
đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng
bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa
đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa
đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó
là lỗi của chúng con.
Vì
lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và
giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi
lần đến gần máng cỏ Belem,
xin
cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để
yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và
xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Tinh thần của mùa
Vọng không chỉ là mong chờ, nhưng nhất là tin tưởng vào Đấng đã đến,
đang đến và sẽ đến vì yêu thương.
Đấng đó chính là
Thiên Chúa được mặc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô, vị Mục Tử nhân
lành. Ngài không chỉ yêu thương những con chiên ở trong đàn; điều đó
là tất nhiên rồi, mà Ngài còn yêu thương, quan tâm, tìm kiếm những con
chiên lạc.
Quả thật, Đức Giêsu
đã đến cũng chỉ vì sự lầm lạc của ông bà Nguyên Tổ, đã làm những
điều sai trái để không xứng đáng ở trong khu vườn hạnh phúc nữa. Họ
đã tìm kiếm một vùng trời hạnh phúc khác ngoài đồng cỏ xanh tươi
Chúa đang chăn dắt họ. Họ đã chạy theo quyền lực mà ác quỷ đã gieo
vào lòng họ. Họ đã lạc đàn.
Đức Giêsu đang đến
giữa cuộc đời, trong mỗi người và từng người để quy tụ tất cả về
cánh đồng xanh thơm ngát mùi cỏ non, về dòng suối mát trong thơm lành
vị mật ngọt…
Tuy nhiên vẫn còn
những con chiên chưa chịu quay đầu vì còn nhiều những con quỷ chưa
chịu làm thinh. Còn cám dỗ ắt sẽ còn những giây phút nao lòng. Biển
chưa yên thì con tàu chưa thể cập bến. Chính vì vậy Đức Giêsu Kitô
vẫn phải còn thao thức, trăn trở trên thập giá để gọi mời yêu thương,
để lôi kéo con người trở về với suối nguồn hạnh phúc.
Niềm vui thật lớn lao
khi có nhiều con chiên bước vào đàn chiên của Chúa. Niềm vui sẽ dâng
trào hơn khi một vài con chiên quay trở lại đàn chiên năm cũ.
Quay trở lại vì sau
một thời gian đi tìm niềm vui mới, tìm hoài chẳng thấy, tìm mãi
chẳng ra. Đói, khát, hiểm nguy khiến con chiên phải tìm về nơi chốn an
toàn.
Nhưng chính trong lúc
con chiên bỏ đàn đi tìm đàn mới, thì vị mục tử đã lặn lội phía
sau, âm thầm gìn giữ, cẩn thận chở che, tế nhị cung cấp những thứ
tối thiểu để nó được sống, can đảm chiến đấu với thú dữ đang ngày
đêm rình rập con chiên của anh ta.
Tất cả những điều đó
cho chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào tình thương của vị Mục Tử Tối
Cao mà chúng ta đang được vinh dự làm con chiên của Ngài.
Mùa Vọng để tin tưởng
đợi chờ. Tin tưởng vào lòng Thương Xót Chúa. Đợi chờ ơn cứu độ Chúa.
Hai tâm tình đó thúc
bách tôi hoán cải, sửa đổi, quay về.
Lạy Chúa, mỗi khi Mùa
Vọng đến, con hay van xin: Mây ơi mau hãy mưa vị cứu tinh! Nhưng Mùa
Vọng năm nay con không van xin Chúa nữa vì con biết Chúa đã đến, đang
đến và sẽ đến. Ngược lại con sẽ van xin chính bản thân con: chiên ơi
mau hãy quay lại với quay đầu là bờ!
10 Tháng Mười Hai
Quyền Con Người
Ngày
mùng 10 tháng 12 năm 1948, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản
tuyên ngôn quyền con người... Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử nhận loại, cộng
đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như
một nghĩa vụ trường kỳ.
Khoản
1 và 2 của bản tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định rằng: Tất cả mọi người sinh
ra đều tự do và bình đẳng trong phẩm giá và quyền lợi, và mỗi một cá nhân,
không phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến,
nguồn gốc dân tộc hay xã hội... đều được hưởng mọi quyền lợi và tự do, được
công bố trong bản tuyên ngôn.
Trong
21 khoản đầu của tuyên ngôn, chúng ta có thể kể ra những quyền cơ bản sau đây:
quyền được sống, được tự do và được đảm bảo an ninh cá nhân, quyền không bị bắt
làm nô lệ, quyền không bị tra tấn hay chịu những hình phạt độc ác, vô nhân đạo
hay chà đạp phẩm giá con người, quyền được bình đẳng trước pháp luật và được
pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, quyền được nại đến sự xét xử của những tòa
án quốc gia có thẩm quyền, quyền không bị bắt giữ, giam cầm hay dày ải trái
phép, quyền không bị độc đoán vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín,
quyền được đi lại, quyền được cư trú, quyền được một quốc tịch, quyền được kết
hôn và lập gia đình, quyền được sở hữu, quyền được tự do tư tưởng, lương tâm,
tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do hội họp.
Ðó
là một số những quyền và tự do cơ bản của con người.
Bản
tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến.
Thảm kịch của chiến tranh đã cho nhân loại mỗi lúc một hiểu rằng hòa bình chỉ
thực sự có khi con người biết tôn trọng quyền lợi và tự do căn bản của con người.
Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có
chiến tranh đẫm máu, người ta chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.
Nhìn
nhận và tôn trọng quyền con người là bổn phận hàng đầu của người Kitô chúng ta
vì chúng ta tin nhận rằng con người đã được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên
Chúa và được cứu rỗi bằng chính Máu của Ðức Kitô. Ðó là tất cả phẩm giá của con
người.
Với
ý thức ấy, người Kitô luôn được kêu mời để nhận ra hình ảnh và sự hiện diện của
Thiên Chúa trong mọi người và mỗi người, nhất là những người kém may mắn, cùng
khổ nhất.
Trong
một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Edward Desmond được đăng trên tạp chí Time số
ra ngày 04 tháng 12 năm 1989, Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel
Hòa Bình năm 1979 vì công tác phục vụ người nghèo tại Ấn Ðộ, đã xác quyết về
công cuộc của Mẹ: đó là cái nhìn tôn trọng đối với người nghèo. Ðược hỏi: ơn
cao trọng nhất mà Chúa đã ban cho Mẹ là gì? Vị sáng lập dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác
Ái đã đáp gọn: "Ðó là người nghèo". Bởi vì, theo Mẹ Têrêxa, với người
nghèo Mẹ có dịp ở với Chúa Giêsu 24 giờ mỗi ngày. Mẹ nói: "Họ là Chúa
Giêsu đối với tôi. Tôi tin tưởng ở điều đó còn hơn là làm những điều lớn lao
cho họ".
Nhìn
những người nghèo, những người cùng khổ, những người bị xã hội tước đoạt mọi
quyền lợi và bị đẩy ra bên lề, như chính hiện thân của Chúa Giêsu: đó phải là
cái nhìn và động lực của mọi hoạt động của người Kitô chúng ta. Tôn trọng nhân
quyền, bệnh vực nhân quyền là thế đó.
(Lẽ
Sống)
Thứ Hai 9-12
Thánh Juan Diego
(1474-1548)
L
|
úc đầu người ta gọi ngài
là Cuauhtlatohuac ("Con đại bàng cất tiếng"), tên Juan Diego thì mãi
mãi đi liền với Ðức Mẹ Guadalupe vì chính ngài là người được Ðức Mẹ hiện ra ở
đồi Tepeyac lần đầu tiên vào ngày 9-12-1531.
Ông là một thổ dân nghèo
hèn, 57 tuổi, goá vợ, tên thật là Cuatitlatoatzin và sau khi rửa tội có tên là
Juan Diego. Vào buổi sáng thứ Bảy, 9 tháng Mười Hai 1531, ông đến nhà nguyện
gần đó để tham dự lễ kính Ðức Mẹ. Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì
ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót. Sau đó một đám mây sáng
chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như
công chúa của bộ lạc Aztec. Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và
sai ông đến với Ðức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de
Zumarraga, và yêu cầu đức giám mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện
ra.
Dĩ nhiên vị giám mục
không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ. Trong thời gian này,
người chú của ông bị bệnh nặng. Ðiều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp
Trinh Nữ. Tuy nhiên, đức trinh nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi
bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị giám mục.
Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay,
gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp. Và ông đã dùng
chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị giám mục.
Trước sự hiện diện của
đức giám mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến
vị giám mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy. Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc
áo tơi lại có in hình Ðức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac.
Ðó là ngày 12 tháng Mười Hai 1531.
Sau đó, người ta không
đề cập gì nhiều đến Juan Diego. Có lúc ông sống gần một ngôi đền được dựng ở
Tepeyac, được mọi người kính trọng như một giáo lý viên thánh thiện, vô vị lợi
và đầy lòng nhân ái qua lời nói cũng như gương mẫu.
Trong chuyến tông du năm
1990 đến Mễ Tây Cơ, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xác nhận một nghi thức có
từ lâu đời nhằm vinh danh Juan Diego qua việc phong chân phước cho ông. Mười
hai năm sau, đức giáo hoàng đã tuyên xưng ông là thánh.
Lời Bàn
Thiên Chúa mong đợi Juan
Diego đóng một vai trò khiêm tốn nhưng bao la trong việc đem Tin Mừng cho người
dân Mễ Tây Cơ. Cố vượt qua sự lo sợ cũng như sự hồ nghi của Ðức Giám Mục Juan
de Zumarraga, chân phước Juan Diego đã cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa khi
ông cho dân chúng thấy rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu thì không riêng cho một ai.
Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nhân cơ hội phong chân phước này để thúc
giục người Mễ Tây Cơ hãy nhận lấy trách nhiệm rao truyền cũng như làm chứng cho
Tin Mừng.
Lời Trích
"Cũng như các
nhân vật trong phúc âm xưa đại diện chung cho mọi dân tộc, chúng ta cũng có thể
nói rằng Juan Diego đại diện cho những người thổ dân đã chấp nhận Tin Mừng của
Ðức Giêsu, nhờ sự trợ giúp của Mẹ Maria, là người luôn luôn sát cánh với hành
động của Con Mẹ và sự phát triển của Giáo Hội, như khi ngài hiện diện với các
Tông Ðồ trong ngày Hiện Xuống" (Bài giảng lễ phong chân phước của ÐGH
Gioan Phaolô II).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét