THỨ HAI 23/09/2013
Thứ Hai sau Chúa Nhật
25 Quanh Năm
Thánh Piô Pietrelcina, linh mục. Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na
gần Bênêventô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành
Capútxinô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại
tu viện ở thị trấn Xan Giovanni Rôtônđô miền Pu-li-a. Trong tinh thần cầu nguyện
và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc linh hướng, bí tích Hòa Giải
và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng
hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết
thúc cuộc hành trình ở thế gian này.
Bài Ðọc I: (Năm I) Esd 1, 1-6
"Ai thuộc dân
Chúa, hãy lên Giêrusalem và xây cất nhà Chúa".
Khởi
đầu sách Esdra.
Năm
thứ nhất triều đại Kyrô vua nước Ba-tư, để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi miệng
Giêrêmia, Chúa giục lòng Kyrô vua nước Ba-tư, và ông truyền công bố bằng lời
rao và sắc chỉ trong khắp nước rằng: "Ðây là lệnh của Kyrô vua nước Ba-tư:
Chúa là Chúa Trời đã ban cho ta mọi nước trên mặt đất, chính Người truyền dạy
ta phải xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong nước Giuđêa. Ai trong
các ngươi thuộc về dân Người? Xin Thiên Chúa của nó ở cùng nó. Nó hãy lên
Giêrusalem trong xứ Giuđêa, và xây cất nhà của Chúa là Thiên Chúa Israel, chính
Người là Thiên Chúa ngự ở Giêrusalem. Và tất cả những người khác đang cư ngụ bất
kỳ nơi nào, thì từ nơi mình ở, hãy giúp họ bằng vàng bạc, của cải và súc vật, đừng
kể những gì tình nguyện dâng cho đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem.
Các
trưởng tộc thuộc chi họ Giuđa, Bêngiamin, các tư tế, các thầy Lêvi và mọi người
được Chúa thúc giục trong lòng, đều vùng dậy tiến lên, để xây cất đền thờ Chúa ở
Giêrusalem. Toàn thể dân chúng sống trong vùng lân cận cũng tiếp tay giúp họ
vàng bạc, của cải, súc vật, những đồ quý, không kể những gì họ tự ý dâng cúng.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3.
4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại
lượng với chúng tôi (c. 3a).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những
người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ; bấy giờ miệng
chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2)
Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.
Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3)
Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo
trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.
4)
Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai
mang những bó lúa. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 21
Alleluia,
alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng; lời đó có
thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 16-18
"Ðặt đèn trên
giá đèn, để những ai đi vào đều thấy sự sáng".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che
lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều
thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu
mà không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe
thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có
cũng sẽ bị lấy đi".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Ngọn Ðèn Ðức Tin
Bất
cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều phải thán phục tinh thần
làm việc và óc thực dụng của người Mỹ: tất cả những nghiên cứu của đại học đều
được kỹ nghệ đỡ đầu, tất cả những phát minh mới của khoa học đều tìm được ứng dụng
trong kỹ nghệ. Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để rút ra bài học cho đời sống
đức tin của mình không?
Thánh
Yacôbê Tông đồ đã viết: "Một đức tin không có việc làm là đức tin chết".
Một đức tin không được diễn đạt, không được ứng dụng trong đời sống hàng ngày
phải chăng không là đức tin chết?
Trong
Tin Mừng hôm nay, khi đưa ra hình ảnh chiếc đèn, Chúa Giêsu muốn nối lại truyền
thống thực tiễn của Cựu Ước. Cựu Ước không thích những lý luận trừu tượng, uyên
bác của Hy Lạp. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước không lý
giải về những phẩm tính trừu tượng của Ngài, nhưng tìm cách đo lường sự trung
thành của Ngài trong lịch sử nhân loại. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân
thật, Cựu Ước luôn nói đến những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử con người.
Khi Thiên Chúa phán một lời, lời đó không phải là một lời nói suông, mà trở
thành thực tế; Thiên Chúa không chỉ nói qua các tiên tri, nhưng cuối cùng Lời của
Ngài đã thành xác phàm.
Chiếc
đèn được đốt lên phải đặt trên cao để soi cho mọi người trong nhà. Ðây là hình ảnh
cuộc sống đức tin của người Kitô hữu: cũng như chiếc đèn, đức tin cần phải được
thắp lên và chiếu sáng; nó phải được đốt lên bằng những hành động cụ thể hằng
ngày. Thiên Chúa là Ðấng chân thật, bởi vì sự chân thật ấy được thể hiện bằng một
chuỗi những yêu thương đối với con người. Người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu
khi cuộc sống của họ thể hiện chính cuộc sống của Chúa, là yêu thương và phục vụ.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 25 TN1
Bài đọc: Esd 1:1-6;
Lk 8:16-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có uy
quyền điều khiển tâm trí con người.
Thay
đổi tâm tính một người là điều không thể đối với con người; nhưng là điều có thể
đối với Thiên Chúa, vì Ngài có uy quyền điều khiển tâm trí người đó từ bên trong.
Các
bài đọc hôm nay muốn nêu bật uy quyền điều khiển tâm trí con người. Trong bài đọc
I, Sách Ezra tường thuật biến cố vua Cyrus của Ba-tư, được Thiên Chúa tác động
trên tâm trí, đã ban chiếu chỉ phóng thích dân Do-thái, cho về hồi hương để tái
thiết Đền Thờ tại Jerusalem, xứ Judah. Không những thế, ông còn lo lắng cho dân
Do-thái có đủ tài chánh để hoàn thành việc tái thiết. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
dạy các môn đệ hãy biết sống thành thực và làm gương sáng, vì Thiên Chúa là Đấng
thấu suốt mọi sụ xảy ra trong tâm hồn con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất.
1.1/
Đức Chúa tác động trên tâm trí Cyrus, vua Ba-tư: Ngôn-sứ Jeremiah đã loan báo
trước Thời Lưu Đày là 70 năm (Jer 25:12; 29:10). Việc vua Cyrus làm là để được ứng
nghiệm những gì đã được loan báo bởi ngôn sứ Jeremiah khi chưa bị lưu đày. Điều
này cho thấy mọi việc xảy ra là trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Trình
thuật của Ezra hôm nay cho chúng ta một cái nhìn sâu bên trong làm thế nào
Thiên Chúa điều khiển con người: Ngài tác động trên tâm trí con người. Nói cách
khác, Ngài điều khiển tâm trí con người bằng việc gởi Thánh Thần của Ngài vào
tâm hồn vua Cyrus, để Nhà Vua thi hành những gì Ngài muốn. Được Thánh Thần soi
sáng và hướng dẫn, Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau:
"Cyrus, vua Ba-tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban
cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người đã trao cho ta trách nhiệm tái thiết
cho Người một Ngôi Nhà ở Jerusalem tại Judah.”
Vua
Cyrus nhận ra Đức Chúa là Thiên Chúa trên trời, và chiến thắng của Nhà Vua tại
Babylon là do sự sắp đặt của Thiên Chúa: “Ngài ban cho ta mọi vương quốc dươi đất.”
Nhà Vua đón nhận thánh ý của Thiên Chúa để thực thi: “Chính Người đã trao cho
ta trách nhiệm tái thiết cho Người một Ngôi Nhà ở Jerusalem tại Judah.” Tại sao
lại phải tái thiết Đền Thờ Jerusaem tại Judah, mà không xây một Đền Thờ khác
ngay trong vương quốc? Thưa vì Thiên Chúa muốn như vậy. Không một quyền lực nào
trong thế gian có thể điều khiển một Vua Dân Ngoại chưa biết Thiên Chúa thốt
lên những lời này, chỉ có quyền lực của Thiên Chúa điều khiển tâm trí của Nhà
Vua từ bên trong.
1.2/
Tất cả những người được Thiên Chúa tác động trên tâm trí, hãy trỗi dậy để đi
lên xây Nhà Đức Chúa ở Jerusalem.
Sắc
chỉ của Nhà Vua là thế; nhưng để tái thiết Đền Thờ, cần đến nhiều việc phải xảy
ra:
(1)
Dân Do-thái phải ao ước được về Jerusalem: Tuy sống khổ cực trong nơi Lưu Đày, nhưng phải về
quê hương để tái thiết Đền Thờ vơi hai bàn tay trắng là điều không dễ làm. Điều
này cũng được vua Cyrus nói đến: “Những người đứng đầu các gia tộc của Judah và
Benjamin, các tư tế và các thầy Lêvi, tất cả những người được Thiên Chúa tác động
trên tâm trí, trỗi dậy để đi lên xây Nhà Đức Chúa ở Jerusalem .”
(2)
Phải có tài chánh để xây dựng Đền Thờ: Tái thiết Đền Thờ Jerusalem là một công trình khó
khăn đòi rất nhiều tài chánh. Vua Cyrus không những phóng thích cho dân Do-thái
về xây dựng Đền Thờ, lại còn lo lắng cho họ có đủ tài chánh để hoàn thành nhiệm
vụ. Vua truyền cho dân chúng như sau: “Và mọi người còn lại ở bất cứ nơi nào họ
đang trú ngụ, phải được dân địa phương cấp cho bạc vàng, của cải và thú vật,
cũng như lễ vật tự nguyện, để dâng cúng cho Nhà Thiên Chúa ở Jerusalem. Mọi người
hàng xóm láng giềng đều mạnh tay giúp họ: bạc, vàng, của cải, thú vật, những đồ
vật có giá, không kể mọi lễ vật tự nguyện.” Nói cách khác, giống như hồi dân
Do-thái còn ở bên Ai-cập trước khi xuất hành, Thiên Chúa “tác động trên tâm
trí” của dân chúng trong đế-quốc Ba-tư để họ tình nguyện giúp dân Do-thái hoàn
thành dự án của cua Cyrus.
2/
Phúc Âm: Cuộc sống của Kitô hữu.
Đọan
Phúc Âm tuy rất ngắn nhưng cho chúng ta 3 tư tưởng chính tương ứng với 3 câu:
2.1/
Đời sống của Kitô hữu là làm gương sáng cho mọi người chung quanh. Chúng ta có thể
rao giảng bằng Lời Chúa hay bằng chính cuộc sống của chúng ta. Điều mong ước nhất
là làm sao cho có cả hai như tục ngữ Việt Nam dạy: “Lời nói phải đi đôi với
hành động.” Nếu không được cả hai, rao giảng bằng việc làm vẫn hữu hiệu hơn; vì
“Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo.” Nhưng có người lại cho rằng Chúa đã từng
sửa trị các Kinh-sư và Biệt-phái về tính phô trương làm việc lành của họ; vì thế
không nên làm điều tốt trước mặt mọi người. Đúng, nhưng có sự khác biệt giữa
làm việc tốt trong thinh lặng và khua chiêng trống khi làm việc tốt cho người
khác biết.
2.2/
Đời sống của Kitô hữu là biết sống thành thật: “Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại
không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và
không bị đưa ra ánh sáng.” Có 3 trường hợp con người muốn che giấu:
(1)
Con người có thể giấu chính mình bằng cách không chấp nhận sự thật. Ví dụ, biết mình có
tội nhưng vẫn cứ tìm lý do để tự biện hộ cho mình và không coi đó là tội.
(2)
Con người có thể giấu tha nhân, nhưng con người sẽ không hạnh phúc vì lúc nào cũng lo
sợ bị người khác khám phá.
(3)
Sau cùng, có người nghĩ họ có thể giấu được Thiên Chúa như trường hợp của Cain
khi Chúa hỏi “Em ngươi đâu?”
2.3/
Đời sống Kitô hữu là cuộc sống không ngừng cố gắng để trở nên hoàn thiện, “Vì ai đã có, thì
được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất.”
Điều này có thể áp dụng trong nhiều trường hợp:
- Trong lãnh vực tri thức nhất là ngọai
ngữ: Nếu
cố gắng trau dồi mỗi ngày thì khả năng sinh ngữ sẽ mỗi ngày mỗi tiến bộ hơn,
nhưng nếu không dùng tới thường xuyên, vốn liếng đã có sẽ từ từ tàn lụi đi và mất
hẳn.
- Trong lãnh vực đức tin cũng thế
như Chúa đã ví việc nghe và thực hành Lời Chúa như người xây nhà trên đá: Nếu cố gắng sống đức
tin theo những gì Chúa dạy, thì đức tin mỗi ngày một lớn mạnh hơn, và có thể đứng
vững trước những phong ba của cuộc đời; nhưng nếu lười biếng không chịu thực
hành đức tin, thì đức tin sẽ mỗi ngày một tàn lụi đi và sẽ bị bão táp cuốn đi
như người xây nhà trên cát.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự xảy ra trong trời đất. Ngài không chỉ điều
khiển từ bên ngoài, nhưng còn cả tâm trí con người bên trong. Chúng ta hãy
ngoan ngoãn và vâng lời làm theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa.
-
Chúng ta đã lãnh nhận ngọn nến cháy sáng khi chịu bí-tích Rửa Tội và đã hứa trước
mặt Hội Thánh sẽ giữ ngọn đèn cháy sáng mãi cho tới ngày ra đón Chúa Kitô khi
Ngài trở lại. Ngọn đèn sáng là đức tin của chúng ta: Nó phải luôn tỏa gương
sáng cho mọi người chung quanh bằng cuộc sống tốt lành và thành thật. Nó cũng
phải được luôn tăng trưởng mỗi ngày để có thể đứng vững trước mọi thử thách đau
khổ của cuộc đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 25–
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Lc 8,16-18
A. Hạt giống...
Qua hình ảnh chiếc đèn được đặt nơi cao tỏa chiếu
ánh sáng, Chúa Giêsu muốn khuyên tín hữu phải có một cuộc sống gương mẫu để
chiếu sáng trước mặt người khác : Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến trần gian, giảng
dạy về Nước Trời, thành lập Giáo hội. Ngài không muốn những điều trên dành
riêng cho một nhóm người nào riêng biệt, nhưng muốn thông ban cho mọi người.
Riêng các Kitô hữu, họ phải sống sao cho người ta nhìn vào mà nhận ra Tin Mừng
Nước Trời. Họ đã được hưởng ánh sáng Tin Mừng thì họ đừng giữ cho riêng mình,
đừng dập tắt, trái lại phải tìm cách làm lan tỏa ánh sáng đó ra chung quanh.
- “Chẳng có gì bí ẩn mà không trở nên hiển hiện,
chẳng có gì che dấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” :
Những chữ “gì” này nói đến các mầu nhiệm Nước Chúa ấy. Trong thời kỳ của Chúa
Giêsu thì chúng còn được che dấu, còn là bí ẩn. Nhưng đến thời các tông đồ và
thời của Giáo Hội, chúng phải được loan truyền, tỏa lan rực rỡ như ánh sáng của
ngọn đèn đặt trên nơi cao.
- “Vậy hãy để ý đến cách thức anh em nghe” : Do
cách nghe lời Chúa mà lời đó có kết quả hay không.
- “Ai có thì sẽ được cho thêm, còn ai không có
thì ngay cái họ tưởng có cũng sẽ bị lấy mất” : Câu này là một ngạn ngữ được
Chúa Giêsu mượn dùng. Một kinh nghiệm ở đời là kẻ đã giàu thì ngày càng giàu
thêm, còn người đã nghèo lại cứ nghèo thêm, bởi vì “vốn sinh lãi, nợ đẻ nợ”.
Chúa Giêsu mượn kinh nghiệm này để khuyến khích người ta chăm chỉ lắng nghe Lời
Chúa : càng thực thi Lời Chúa thì lại càng được hiểu Lời Chúa nhiều
hơn.
B.... nẩy mầm.
1. Lời Chúa là chiếc đèn soi sáng cho tôi và cho
mọi người. Mỗi ngày ngọn đèn Lời Chúa được thắp sáng trong Thánh lễ và lúc
nguyện gẫm. Để đèn trên giá cao là tôi sống Lời Chúa và nói Lời Chúa cho nhiều
người khác được nghe. Lấy hũ che đèn lại hoặc đặt đèn dưới gầm giường là nghe
Lời Chúa xong rồi quên đi, suốt ngày không nghĩ tới và không nói tới nữa.
2. Thực tế của các kitô hữu Việt Nam là đọc kinh,
dự lễ nhiều nhưng chưa có thói quen học hỏi và sống Lời Chúa.
3. Thánh Giacôbê đã viết : “Một đức tin không có
việc làm là đức tin chết”. Một đức tin không được diễn đạt, không được ứng dụng
trong đời sống hằng ngày phải chăng không là đức tin chết ? ("Mỗi ngày một
tin vui")
4. “Chẳng có gì bí ẩn mà không trở nên hiển hiện,
chẳng có gì che dấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” (Lc
8,17)
Với ước mong “làm được cái gì đó” cho những người
dân quê, chúng ta lên đường tham gia chiến dịch Ánh sáng văn hóa hè ở biên giới
Tây Ninh. Lòng nhiệt thành hăng say của tuổi trẻ khiến chúng tôi bị hụt hẫng
khi nhận ra những giới hạn của mình. Chúng tôi muốn làm một điều gì đó thật lớn
lao cho họ nhưng đành bất lực.
Xin cảm tạ Cha vì Ngài đã cho con biết rằng :
không phải khi nào con làm được điều gì lớn lao mới là lúc con làm vinh danh
Chúa, nhưng từ những hành vi dù rất nhỏ bé của con : kể một câu chuyện, tập hát
cho lũ trẻ, nghe và chia sẻ cùng thanh niên, đi làm chung với những người già…
thì hình ảnh của Cha cũng sẽ ngày càng lớn lên trong mọi người (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
23/09/13 THỨ HAI TUẦN 25 TN
Th. Piô Piếtrenxina, linh mục
Lc 8,16-18
Th. Piô Piếtrenxina, linh mục
Lc 8,16-18
TRUNG THÀNH TỎA SÁNG
“Chẳng có ai đốt
đèn rồi lấy cái hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những
ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.” (Lc 8,16)
Suy niệm: Phải
nói sao về một ai đó thắp đèn rồi lại bưng bít chính ngọn đèn mình vừa thắp lên
để không ai có thể nhìn thấy ánh sáng của nó? Hình ảnh đó nói lên tâm trạng của
nhiều kitô hữu ngày nay: không dám “chường mặt ra” với tư cách mình là kitô hữu. Người ta có thể
viện ra hàng tá lý do khôn ngoan để làm như thế. Theo bản tính tự nhiên, hầu
như ai cũng sợ mình khác với khuôn mẫu chung mà mọi người vốn vẫn chấp nhận. Mà
có gì khác nhau, đối chọi nhau hơn ánh sáng đối với bóng tối ? Chính vì sợ khác
với bóng tối mà có những người đã phải úp chụp ánh sáng của mình trong hũ kín,
hay phải giấu đút ngọn đèn của mình dưới gầm giường. Đành rằng nó vẫn toả sáng,
nhưng trong tư thế đó, nó không thể soi sáng cho ai nữa, nó không còn lý do để
hiện hữu nữa, hay nói đúng ra, nó coi như không còn hiện hữu. Cũng thế, đức tin
sẽ tàn lụi nếu không toả sáng; người kitô hữu sẽ không còn là kitô hữu nữa nếu
không sống đời sống chứng nhân Tin Mừng.
Mời Bạn: Bạn
có thấy mình ít nhiều nằm trong số những kitô hữu thoái hoá đó không? Bạn hãy
xét xem mình có dám chấp nhận chịu thiệt thòi, bị mất quyền lợi, chỉ vì trung
thành sống theo những giới răn Chúa dạy hay không?
Sống Lời Chúa: Không
hổ thẹn sống chứng nhân Tin Mừng, đó là sứ mạng của người kitô hữu, của bạn,
của tôi, của chúng ta. Hãy cầu nguyện cho nhau sống được như thế.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con thực
hành những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống, để con nên nhân chứng của Chúa ở
giữa đời. Amen.
Ánh Sáng Chúa Kitô
Chúa
Giêsu Kitô là ánh sáng chiếu soi cho mọi người mặc dù ánh sáng đó đôi khi gặp
phải sự khước từ của phần nhân loại không tin. Thánh Gioan, nơi đầu sách Tin Mừng
của ngài đã nhận định như sau: "Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng
tối đã không diệt được ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế
gian và chiếu soi mọi người. Người đến ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người
mà có nhưng lại không nhận biết Người". Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi mọi
người mang đến ơn cứu rỗi cho mọi người, cho mọi người được chứa chan niềm vui
khi họ mở rộng tâm hồn tin Người và chấp nhận những sự thật do Người mạc khải.
Niềm vui vì biết được sự thật, niềm vui vì sống theo sự thật, niềm vui được biến
đổi bởi ánh sáng Chúa Kitô và cũng được trở nên ánh sáng, niềm vui đó phản chiếu
ánh sáng của Chúa Kitô. Ðây là căn bản của niềm hy vọng nơi mỗi người tin Chúa
được trở nên ánh sáng trong Chúa, Ðấng là ánh sáng. Không phải chỉ có Chúa Kitô
là ánh sáng mà thôi nhưng mọi đồ đệ Chúa cũng được biến đổi để trở thành ánh
sáng. Nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5, câu 14 trở đi, chúng ta đọc được những
lời xác quyết trực tiếp của Chúa Giêsu: "Chúng con là ánh sáng thế gian,
ánh sáng chúng con phải chiếu sáng được trước mặt mọi người để họ nhờ những việc
làm tốt của chúng con, mà ngợi khen Cha chúng con trên trời".
Trở
nên ánh sáng, không phải là đặc ân của một nhóm nhỏ mà là ân ban cho tất cả mọi
người chấp nhận tuân theo Chúa, chấp nhận ánh sáng của Chúa. Ðây là lời mời gọi
dấn thân, lời nhắc nhở trách nhiệm của người Kitô: ánh sáng phải chiếu sáng, phải
phục vụ. Người Kitô phải là ánh sáng cho anh chị em bằng những việc tốt như
Chúa Kitô là ánh sáng: "Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không bước
đi trong bóng tối, nhưng có ánh sáng ban sự sống". Ánh sáng của Chúa Kitô
được trao ban cho chúng ta để được cháy sáng, được phát triển luôn mãi trên
bình diện thiêng liêng. Có được ánh sáng Chúa Kitô, không phải là tình trạng thụ
động, mà là tích cực sinh động, mỗi ngày cần được phát triển thêm: "Ai có
thì sẽ được cho thêm, ai không có thì cái mình tưởng là có cũng sẽ bị lấy mất
đi". Ai có kho tàng đức tin và tình thương, có thiện chí và sức mạnh làm
việc tốt thì sẽ được Chúa ban cho thêm những ân lành nhiều hơn nữa để cháy sáng
thêm nữa nhờ lắng nghe Lời Chúa; ngược lại ai không có tình thương và thiện
chí, không lo thực hiện việc tốt thì cả đức tin được trao ban cho cũng sẽ bị mất
đi, không còn có đức tin nữa. Người Kitô nào không thực hành đạo thì sớm muộn
gì cũng sẽ mất luôn cả đức tin.
Ước
chi lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta trước trách nhiệm sống đức tin, làm việc
tốt để được luôn luôn lớn lên trong Chúa Kitô, trở thành ánh sáng trong ánh
sáng Chúa Kitô.
Lạy
Cha
Chúng
con cảm tạ Cha vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô làm ánh sáng soi dẫn
chúng con, và cho chính chúng con được biến đổi, được trở thành ánh sáng trong
ánh sáng của Chúa giữa thế gian. Xin giải thoát chúng con khỏi những bóng tối tật
xấu, tội lỗi, làm che mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con; xin giúp chúng con thoát
khỏi ảnh hưởng xấu của hận thù, mánh mung, láo khoét, buồn chán. Xin cho chúng
con luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa cho đến ngày chúng con được đạt đến
vương quốc ánh sáng vĩnh viễn muôn đời, nơi chúng con sẽ được kết hợp với Chúa
mãi mãi muôn đời.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy
Niệm:
Người ta ví cuộc đời này như biển cả, mỗi người như
một con thuyền. Những chiếc thuyền đi biển cần có ánh sáng hải đăng soi đường
chỉ hướng, thì cũng thế người đời cần có những gương sáng soi đường chỉ lối để
họ đi theo. Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ Chúa hãy là những ngọn hải đăng
cho cuộc đời bằng cách sống và thực hiện Lời Chúa.
Mỗi người Kitô hữu chính là ngọn đèn được Thiên Chúa
thắp sáng. Chúng ta có bổn phận làm cho ánh sáng của Chúa ngày càng sáng hơn và
chiếu tỏa ra cho anh em để họ cũng được hưởng ánh sáng ấy. Như lời thánh
Phaolô: "Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời".
Môn đệ Chúa phải sống Lời Chúa một cách mạnh dạn. Điều này không có nghĩa là
phô trương, nhưng là âm thầm sống theo Lời Chúa thực sự, nên cuộc sống ấy đương
nhiên là một chiếc đèn tỏa chiếu trước mặt thiên hạ: "chẳng có gì bí ẩn
mà không trở nên hiển hiện; chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và
không bị đưa ra ánh sáng". Lời Chúa chính là ánh sáng hướng dẫn cuộc
đời chúng ta. Nếu chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, biết để cho Lời Chúa chiếu
soi những tối tăm của tội lỗi, của đam mê tham vọng trong con người của chúng
ta, Lời Chúa sẽ biến chúng ta thành ánh sáng cho thế gian.
"Hãy để ý cách anh em nghe. Vì ai đã có thì
được cho thêm; còn ai không có thì ngay cái họ tưởng là có cũng sẽ bị lấy mất".
Cách nghe Lời Chúa hiệu quả nhất là sống theo, vì càng sống như thế thì càng
được "cho thêm" nghĩa là càng hiểu lời Chúa hơn. Khi ta biết
dùng Lời Chúa để cầu nguyện, để suy gẫm, để làm đèn soi cho cuộc sống của mình
thì đời ta sẽ được biến đổi và tỏa sáng, từ đó mà ta có thể soi sáng cho kẻ
khác nữa.
Lạy Chúa, ngọn đèn cháy sáng trong ngày rửa
tội tượng trưng cho ánh sáng mà Chúa trao cho chúng con. Ðó là ánh sáng đức
tin, và lời Chúa luôn soi dẫn cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết chiến
đấu không ngừng với tội lỗi để duy trì ánh sáng mà Chúa đã thắp lên trong chúng
con. Hầu chính chúng con và anh chị em chúng con cùng nhận biết Chúa. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng Chín
23
THÁNG CHÍN
Các Bạn Là Con Cái
Của Thiên Chúa Các bạn là ai ?
Các
bạn là thế hệ môn đệ mới của Đức Kitô, những người đã lãnh nhận Phép Rửa. Qua
bí tích đầu tiên đó các bạn được đón nhận vào cộng đoàn Giáo Hội. Đối với hầu hết
chúng ta, bí tích khai tâm này được lãnh nhận trong những tuần lễ đầu đời của
mình. Cha mẹ ruột và cha mẹ đỡ đầu đưa chúng ta đến lãnh nhận Phép Rửa. Từ đó,
chúng ta sống trong ơn thánh hóa. Thiên Chúa đã đặt ấn tín vô hình và vĩnh viễn
trên chúng ta. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, linh hồn chúng ta được khắc
ghi ân sủng.
Ân
sủng này và ấn tín thiêng liêng này của Phép Rửa, chúng ta có được là nhờ Đức
Kitô – nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Thực vậy, qua Phép Rửa chúng ta
được dìm vào trong cái chết của Đức Kitô, và như vậy chúng ta có thể sống lại với
Người trong sự sống mới. Tông đồ Phaolô dạy chúng ta trong thư gởi giáo đoàn
Rôma: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng
với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng
vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới”(Rm 6,4).
Kể
từ giây phút được lãnh Phép Rửa, chúng ta trở thành người thông phần vào sự sống
mới trong Đức Kitô – sự sống của Con Thiên Chúa. Và chúng ta trở thành những dưỡng
tử của Thiên Chúa. Chúng ta được nâng lên phẩm giá làm con trong Đức Kitô, người
Con Duy Nhất của Chúa Cha. Vì Chúa Con chia sẻ trọn vẹn sự sống trong mối hiệp
nhất với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nên chúng ta cũng lãnh nhận sự sống mới
trong Phép Rửa. Chúng ta đã được thanh tẩy nhân danh Ba Ngôi Chí Thánh: Nhân
danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
Phép
Rửa là sự tái sinh con người nhờ nước và Thánh Thần (Ga 3,5). Vì vậy chúng ta
trở nên thông phần vào sự sống mới trong Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa. Chúng ta
đang mang trong mình chúng ta mối đảm bảo sự sống đời đời.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
23-9
Thánh
Piô Pietrelcina, linh mục
Er
1, 1-6; Lc 8, 16-18
LỜI SUY NIỆM: “Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hủ che đi hoặc
đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào, thì nhìn thấy ánh
sáng” (Lc 8,16)
Trong thực tế, đèn được đốt lên là để
xua tan bóng tối, giúp cho con người thấy rõ mọi vật. Chúng ta là những Ki-Tô hữu,
đã học biết về Đức Ki-Tô, đã học biết Giáo Huấn của Ngài, qua Giáo Hội. Chúng
ta phải đem ra thực hành trong đời sống một cách công khai. Để mọi việc chúng
ta làm trở thành ánh sáng soi đường cho những con người đang đi tìm “Chân Thiện
Mỹ” thấy mà noi theo.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 23/9 - Thánh Piô ở Pietrelcina
(1887-1968)
Thánh
Padre Piô tên thật là Francesco Forgione, thuộc một gia đình nông dân ở
Pietrelcina, miền nam nước Ý. Ðã hai lần, cha của Francesco phải xa nhà, đi làm
việc ở Jamaica, Nữu Ước để nuôi gia đình.
Khi
được 15 tuổi, Francesco gia nhập dòng Capuchin và lấy tên Piô. Ngài được thụ
phong linh mục năm 1910 và bị động viên trong Thế Chiến I. Sau khi bác sĩ thấy
ngài bị ho lao, họ đã cho ngài giải ngũ. Vào năm 1917, ngài được bài sai đến
làm việc ở tu viện San Giovanni Rotondo, cách thành phố Bari 75 dặm.
Vào
ngày 20-9-1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy
Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và
cạnh sườn.
Sau
biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của
Giáo Hội và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa
vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành
Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách
này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924 ngài không còn viết gì
thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết
trước năm 1924.
Sau
khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến
thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội
cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất
cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc
giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy
số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ
mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
Cha
Piô nhìn thấy Chúa Giêsu trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc
của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây
cất bệnh viện được phát khởi vào năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập.
Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật
vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng,
"Nhà Chữa Trị Người Ðau Khổ" được hình thành với 350 giường bệnh.
Nhiều
người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự
Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động.
Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm
kỷ niệm.
Một
trong những sự đau khổ của Cha Piô là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao
những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri
về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề mà ngài
cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. Ngài từ trần
ngày 23-9-1968, và được phong thánh năm 2002.
Lời Bàn
Hơn
bất cứ ai khác, có lẽ người Hoa Kỳ ngày nay rất thích những cuốn sách chỉ dẫn,
cũng những chương trình truyền thanh, các bài báo có tính cách chỉ bảo. Chúng
ta say mê với tiến bộ kỹ thuật và không ngừng tìm kiếm các lối tắt để tiết kiệm
thời giờ và sức lực. Nhưng như Thánh Phanxicô và Cha Piô biết rất rõ, không có
con đường nào ngắn hơn khi sống theo Phúc Âm, không có cách nào tránh được những
"giáo huấn khó khăn" của Chúa Giêsu (x. Gioan 6:60). Rao giảng về
Kitô Giáo mà không có sự hy sinh cá nhân, không có thập giá, thì cũng không
khác gì người mãi võ sơn đông quảng cáo bán thuốc trị bá bệnh. Cha Piô coi sự
đau khổ của ngài như đáp ứng với lời kêu gọi sống phúc âm.
Lời Trích
"Cuộc
đời Kitô Hữu không gì khác hơn là cuộc chiến đấu dai dẳng với chính mình; không
có sự thăng hoa của linh hồn để đạt đến sự tuyệt hảo mỹ miều nếu không phải trả
giá sự đau khổ" (Lời của Cha Piô).
(nguoitinhuu.com)
23 Tháng Chín
Một trong những bức tranh bất hủ
của danh họa Rafaello, người Italia, hiện đang được cất giữ trong bảo tàng viện
Vatican: đó là bức họa Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê.
Trong bức tranh, người ta thấy có
ba tầng. Ở tầng cao nhất của bức tranh là khuôn mặt và toàn thân Chúa Giêsu
trong cảnh chiếu sáng rực rỡ giữa các tầng mây. Ở tầng dưới của bức tranh và kề
sát với Chúa Giêsu là ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong tình trạng
ngây ngất trước sự biến dạng rực rỡ của Chúa Giêsu. Và ở tầng thấp nhất của bức
tranh, người ta thấy một nhóm môn đệ và một gia đình đang quây quanh một em bé
đang đau liệt: tất cả đều chìm ngập trong một khung cảnh ảm đạm, mờ ảo.
Có lẽ danh họa Rafaello đã cố gắng
giải thích cho chúng ta về sứ điệp của bài Tin Mừng tường thuật cuộc biến hình
của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng và là Ðấng cứu chữa con người.
Ðứa bé đau liệt trong bức tranh là chính mỗi người trong chúng ta, là toàn thể
nhân loại đang chịu đựng vì không biết bao nhiêu bệnh tật trong thân xác lẫn
tâm hồn. Trong đám môn đệ đang quây quanh cậu bé đau liệt, Rafaello đã làm nổi
bật hai cử chỉ: cử chỉ của một người môn đệ đang trỏ tay chỉ về cậu bé và cử chỉ
của một người môn đệ khác đang chỉ tay về Chúa Giêsu...
Phải chăng Rafaello đã không muốn
đánh thức ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đang say sưa chiêm ngưỡng Thánh
nhan rực rỡ của Chúa Giêsu mà quên đi cảnh nhân loại đang quằn quại trong đau
thương khốn khổ?
Trong đời sống
đạo, chúng ta dễ rơi vào hai thái cực: hoặc chỉ chăm chú cầu nguyện mà không đếm
xỉa gì đến lòng bác ái đối với tha nhân, hoặc ngược lại, xem hành động bác ái
là một lời cầu nguyện mà không màng đến đời sống nội tâm.
Nơi Chúa
Giêsu, cầu nguyện đưa đến hoạt động và hoạt động dẫn đến cầu nguyện. Mỗi một gặp
gỡ của Ngài với tha nhân cũng là một lời cầu nguyện và mỗi một lời cầu nguyện của
Ngài cũng ôm trọn lấy tất cả những ai mà Ngài đã hoặc sẽ gặp gỡ.
Chúng ta hãy
chiêm ngắm mẫu gương của Chúa Giêsu... Cả cuộc đời của chúng ta phải là một lời
nguyện dâng lên Thiên Chúa, chứ không chỉ có những lời kinh mà chúng ta đọc
ngoài môi mép.
Người ta
không lên xe để ở mãi trên đó... Một môn sinh không đến thụ giáo để ở mãi bên cạnh
thầy mình... Cũng thế, chúng ta không leo lên núi cao để ở lại mãi trên đó. Sau
cơn ngây ngất của ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi Tacôbê, Chúa
Giêsu đã kêu gọi các ngài hãy trở lại với thực tế: đó là thực tế của những cuộc
gặp gỡ, đương đầu và cuối cùng là cái chết.
Từ đỉnh cao
của sự cầu nguyện, từ bốn bức tường của nhà thờ, từ cung thánh của những giây
phút ngất ngây trong sự kết hiệp, chúng ta hãy quay lại với cuộc sống, nơi đó
có những nghĩa vụ để thi hành, nơi đó có những con người để gặp gỡ và yêu
thương.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét