THỨ BA 17/09/2013
Thứ Ba sau Chúa Nhật 24 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 3, 1-13
"Vị chủ tịch
giáo đoàn phải là người không ai trách cứ được: các vị phụ tá cũng vậy, phải nắm
giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm trong sạch".
Trích thư thứ
nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Ðây là lời
chân thật: Nếu ai ao ước chức chủ tịch giáo đoàn, thì đó là ước ao một nhiệm vụ
tốt đẹp. Vậy vị chủ tịch giáo đoàn phải là người không có ai trách cứ được, người
chỉ kết hôn một lần, ăn ở tiết độ, khôn ngoan, thanh lịch, đoan trang, hiếu
khách, biết giảng dạy, không mê rượu chè, không gây gỗ, nhưng hoà nhã: không cạnh
tranh, không tham lam, nhưng biết cai quản gia đình mình, dạy con cái biết vâng
phục và tiết hạnh. Nếu ai không biết cai quản gia đình mình, thì làm sao coi
sóc được cộng đoàn Thiên Chúa? Vị chủ tịch giáo đoàn không phải là tân tòng, kẻo
cậy mình kiêu căng mà sa vào án phạt của ma quỷ. Người phải có tiếng tốt nơi
người ngoại, kẻo bị ô danh và sa lưới ma quỷ.
Cũng thế, những
người phụ tá phải đoan trang, không ăn nói nước đôi, không nghiện rượu, không
tìm lợi cách đê tiện, nhưng phải nắm giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm
thanh sạch. Những kẻ ấy phải được thử thách trước, rồi nếu không có gì đáng
trách, thì mới được phục vụ. Người phụ nữ cũng vậy, phải đoan trang, không nói
hành, phải tiết độ và trung tín trong mọi sự. Các vị phụ tá phải là người chỉ kết
hôn một lần: biết coi sóc con cái và nhà cửa mình. Vì những phụ tá khi thi hành
đứng đắn chức vụ, sẽ được lên bậc cao trọng và sẽ đầy hiên ngang trong lòng tin
vào Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 100, 1-2ab.
2cd-3ab. 5. 6
Ðáp: Con sẽ sống theo lòng vô tội (c.
2b).
Xướng:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương và đức công minh, lạy Chúa, con sẽ đàn hát mừng
Ngài. Con sẽ tiến thân trên đường liêm khiết, khi nào Chúa sẽ đến viếng thăm
con? - Ðáp.
2) Con sẽ sống
theo lòng vô tội trong nơi cung thất của con. Con sẽ không để bày ra trước mắt
một chút chuyện chi gian trá. - Ðáp.
3) Ai bí mật
nói xấu người lân cận, con sẽ tiêu diệt thứ người này. Hạng người mắt nhìn cao
và lòng kiêu hãnh, hạng người đó con cũng không dung. -
Ðáp.
4) Mắt con
theo dõi những người trung thành trong đất nước, để họ cùng được cư ngụ với
con. Ai sinh sống theo đường liêm khiết, con người đó sẽ được hầu hạ con. - Ðáp.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia,
alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những
mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 11-17
"Hỡi thanh
niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa
Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với
Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người
con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ
nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Ðừng khóc nữa".
Ðoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy
giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".
Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều
sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa
chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền
danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Ðó là lời
Chúa.
Suy niệm : Ý Nghĩa Của
Cuộc Sống
Trong cuộc sống
công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự
nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại
không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của
Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ
là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của
những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng
trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu
đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng
hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh
cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là
thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu
đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào
cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã
nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến
chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế
nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người
khi đi vào cái chết.
Một trong những
cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự
sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc
sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người
phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác
phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống
là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối
không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu
đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy
thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào
là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào
vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích
thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của
Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó
là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin
Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón
nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục
sinh vinh hiển của Ngài.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 24 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: I Tim
3:1-13; Lk 7:11-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành trong
ơn gọi và bổn phận của mình.
Cả
Thiên Chúa lẫn con người đều đề cao sự trung thành: Thiên Chúa đòi con người phải
trung thành với nhau trong đời sống hôn nhân, khi thịnh vượng cũng như lúc gian
nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để tôn trọng và yêu thương nhau suốt đời.
Chúa Giêsu cũng hứa với các môn đệ: "Ai trung thành đến cùng sẽ được cứu rỗi."
Khi chọn người lãnh đạo, con người cũng muốn chọn những người khả dĩ có thể tin
cậy được, như trung thành với quốc gia và những gì họ đã hứa khi tranh cử.
Các
Bài Đọc hôm nay đưa ra những trường hợp khác nhau của những người trung thành.
Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô liệt kê những điều kiện cần thiết để chọn Giám-quản
và Trợ-tá để điều khiển các giáo-đoàn. Điều kiện quan trọng nhất là phải trung
thành với Thiên Chúa, với những người trong gia đình, và với những người mà
Thiên Chúa đã trao phó cho họ. Trong Phúc Âm, bà góa phụ thành Nain đã làm Chúa
Giêsu thổn thức vì những tiếng khóc ai oán của Bà cho người con trai độc nhất.
Bà nghĩ anh sẽ là người săn sóc và chôn cất Bà trong lúc tuổi già xế bóng;
nhưng nay Bà phải chôn cất con, một điều Bà không ngờ có thể xảy ra. Chúa Giêsu
đã an ủi Bà, và Ngài làm cho cậu con trai của Bà sống lại và trao lại cho Bà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Giám quản phải là người không ai chê trách được.
1.1/
Điều kiện để trở thành Giám-quản (episcopoi): Thánh Phaolô liệt kê nhiều đức
tính cần thiết phải có để trở thành Giám-quản, chúng ta có thể sắp xếp theo 3
phạm trù sau:
(1)
Trung thành với Thiên Chúa: Người Giám-quản không được là tân tòng, kẻo lên mặt kiêu căng mà
bị kết án như ma quỷ. Đây là lời khuyên rất khôn ngoan, vì đức tin cần phải được
thử thách bằng đau khổ và thời gian. Điều thánh Phaolô lo sợ nhất là sự kiêu
căng, tự mãn, vì ma quỉ có thể dùng tính kiêu căng để phá hủy không chỉ cá nhân
Giám quản, mà còn cả gia đình và cộng đoàn.
(2)
Trung thành với gia đình: chỉ có một đời vợ, biết điều khiển tốt gia đình mình, biết dạy
con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh; vì ai không biết điều khiển gia đình
mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của Thiên Chúa được?
(3)
Trung thành với tha nhân: không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, không hay gây sự,
không ham tiền, phải nhã nhặn, hiếu khách, và có khả năng giảng dạy.
1.2/
Điều kiện để trở thành Trợ-tá (deacon): Vẫn theo 3 phạm trù trên, người Trợ-tá phải:
(1)
Trung thành với Thiên Chúa: họ phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch
và được mạnh dạn nhiều nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô.
(2)
Trung thành với gia đình: phải là người chỉ có một đời vợ, biết điều khiển con cái và gia
đình cho tốt.
(3)
Trung thành với tha nhân: không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn, không bị ai khiếu nại, không
nói xấu, và đáng tin cậy mọi bề.
2/
Phúc Âm: Chúa động lòng thương và cho con trai duy nhất của Bà mẹ Nain sống lại.
Đứng
trước cái chết con người hòan tòan bất lực và hỏang sợ khi phải đương đầu với
cái chết, nhất là những cái chết trẻ, nhiều người, và đột ngột. Như Bà mẹ Nain
hôm nay, Bà đã góa chồng và chỉ có một con duy nhất là niềm hy vọng để nâng đỡ
Bà trong cuộc sống trên dương gian; thế mà anh cũng vĩnh viễn ra đi. Chắc Bà
không bao giờ nghĩ là Bà sẽ phải chôn con.
Người
Hy-Lạp, nhất là những người theo chủ thuyết Khắc Kỷ, họ tin có Đấng Tối Cao;
nhưng không tin Ngài có cảm xúc trước những đau khổ của con người. Họ lý luận:
Nếu con người có thể làm cho Ngài vui hay buồn, tức là con người có ảnh hưởng
trên Ngài; khi con người có ảnh hưởng trên Ngài là con người lớn hơn Ngài;
nhưng không ai có thể lớn hơn Đấng Tối cao. Vì vậy, Đấng Tối Cao phải là Đấng
không có cảm xúc. Niềm tin này hòan tòan ngược lại với niềm tin của người Công
Giáo, Thiên Chúa cảm thương với nỗi đau khổ của con người. Thánh Luca tường thuật
Chúa Giêsu chạnh lòng thương Bà mẹ góa chỉ có đứa con côi mà giờ đây cũng không
còn nữa, Ngài an ủi: "Bà đừng khóc nữa!" Trước khi cho Lazarus sống lại,
Gioan tường thuật “Chúa khóc” (Jn 11:35) và “Chúa thổn thức trong lòng” (Jn
11:38).
Thiên
Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Trong Cựu Ước, chỉ có tiên tri Elisha làm
cho con trai của Bà góa miền Shunem sống lại bằng cách kề miệng ông trên miệng
nó (2 Kgs 4:34-37). Trong Phúc Âm, có ít nhất 3 lần Chúa làm cho kẻ chết sống lại:
Cho con gái của ông trưởng hội đường Giaia sống lại (Mt 9:18-26, Mc 5:35-43, Lk
8:40-56); Chúa Giêsu làm cho anh thanh niên sống lại và trao anh lại cho bà mẹ
Nain hôm nay (Lk 7:11-17); và Chúa cho Lazarus chết 3 ngày được sống lại (Jn
11:38-44). Khi chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa cho kẻ chết sống lại, con
người kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện
giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần phải trung thành với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời:
khi ấm no hạnh phúc cũng như lúc buồn thảm lệ rơi; vì chỉ có ai trung thành mới
được cứu thoát.
-
Thiên Chúa là Đấng thương xót những người bất hạnh, những mẹ góa con côi. Chúng
ta hãy chạy đến với Ngài trong những lúc gian lao khốn khó.
-
Đức Kitô muốn chúng ta nhận Đức Mẹ như người Mẹ thiêng liêng của chính mình. Đây
là điều lợi ích cho phần linh hồn. Chúng ta hãy đối xử với Đức Mẹ cho hết tình
con thảo.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 24–
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Lc 7,11-17
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim :
- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin
Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
- Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre
già khóc măng non.
- Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị
trao nó lại cho mẹ nó.
B.... nẩy mầm.
1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng
vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh
khổ của người khác.
- Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm
được cái khổ của người nghèo.
- Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm
được nỗi đau của họ.
- Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn
người ta ngày càng chìm sâu trong tội…
Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng
trái tim bằng thịt.
2. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị : thấy được
nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng
như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
3. “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài” : việc
này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại
gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương
giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.
4. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu
giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông
đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không
ngõ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa
kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.
Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ,
Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.
5. “Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói :
‘Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy chỗi dậy’. Người chết liền ngồi lên và
bắt đầu nói” (Lc 7,14-15)
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ… Chúa nhựt
nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi.
Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải ?
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng
dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe
nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai
gọi mình mà !
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của
nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã
gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại
từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI
– Gp.Cần Thơ
17/09/13 THỨ BA TUẦN 24 TN
Th. Rôbetô Belaminô, giám mục, tiến sĩ HT
Lc 7,11-17
Th. Rôbetô Belaminô, giám mục, tiến sĩ HT
Lc 7,11-17
NGƯỜI MẸ GÓA MẤT CON
Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một
người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà
góa. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói :”Bà đừng khóc nữa.” (Lc 7,12-13)
Suy niệm: Ai
mà không xúc động trước cảnh tượng thương tâm: người mẹ goá mất đi đứa con một.
Chúa Giêsu “chạnh lòng thương” người goá phụ làng Nain vì Ngài cũng có một trái
tim nhân loại nhạy cảm; mà hơn nữa, đám tang này còn là một lời tiên báo một
ngày kia, người mẹ goá là Đức Maria cũng khóc thương Người Con Một là chính
Ngài. Và như thế, cử chỉ Ngài “sờ vào quan tài” và truyền cho chàng trai “chỗi
dậy” cũng mang đậm tính cách ngôn sứ: một dấu chỉ tiên báo chính Ngài cũng sẽ
chỗi dậy như thế. Phải chăng chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria rằng: trước
nỗi đau của người mẹ goá đứng dưới chân thập giá, Thiên Chúa cũng “chạnh lòng
thương”, nên đã cho Người Con Một được chỗi dậy?
Mời Bạn: Bắt
chước Chúa Giê-su biết cảm thông, biết cùng đau với nỗi đau của biết bao người
Mẹ ngày nay đang mất con vì những cái chết quái ác: cái chết do tội lỗi. Chính
sự cảm thông đó sẽ khiến Chúa chạnh thương và ban ơn cứu độ.
Chia sẻ: Kiểm
điểm xem mình có thiếu sự cảm thông với chính những thân trong gia đình mình
không.
Sống Lời Chúa: Cầu
nguyện cho những người đang đau khổ vì sự sa sút, tội lỗi của những người thân
của họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xin ban cho con tấm lòng
biết cảm thông với anh em, và xin cho con biết sẵn sàng làm một cái gì đó tốt
đẹp để làm dịu nỗi đau khổ của anh em.
Người cho kẻ chết sống lại
Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì người ta khiêng một người
chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa.
Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng
thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”Rồi Người lại gần sờ vào quan tài. Các người
khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” (Lc. 7, 12-14)
Trong bốn Tin Mừng, chỉ một mình Thánh Lu-ca kể
lại câu chuyện cho thanh niên con bà góa thành Naim sống lại.
Hôm đó, hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng
Naim: một đoàn có vị dẫn đầu là Đấng ban sự sống và một đoàn tiễn đưa người chết.
Người chết là một con trai duy nhất của một bà góa. Tình trạng càng đau khổ hơn
nữa cho bà mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình
trước pháp luật và bảo vệ danh dự mình trong xã hội trọng nam khinh nữ đó. Đó
là lý do đau khổ cùng cực của bà khiến cho đoàn người đông đảo đã cảm thương đến
tiễn đưa con bà, như bản văn lưu ý tới.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn
lớn lao này. Người là con Thiên Chúa thấy rõ những khốn cực của loài người, người
là con người nên càng vô cùng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của
loài người. Nhiều trang Tin Mừng đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người
dừng lại trước bà mẹ tuyệt vọng và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm
thương nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Bà đừng khóc nữa!”.
Rồi Người tiến về phía quan tài, sờ vào nó,
Người kêu gọi với giọng nói lạ lùng: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi
dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ!
một sự thật vô cùng kinh ngạc! không phải chỉ xảy ra lúc này mà còn cho đến tận
cùng lịch sử loài người, mãi mãi Đức Kitô còn cho người ta sống lại, mãi mãi sứ
điệp sự thật về phục sinh vẫn còn tiếp tục cho loài người. Đức Kitô, nhờ sự sống
lại của Người đã mặc khải một sự sống phục sinh muôn đời: Một sự sống không bao
giờ phải chết nữa, một sự sống hoàn toàn mới, vượt trên mọi xác phàm trần gian.
“Đức Giêsu đã trao anh ta cho bà mẹ”, Thánh
Lu-ca đã đặc biệt chú thích thêm, để nhấn mạnh đến vai trò các phụ nữ trong thế
giới đã liệng bỏ phụ nữ vào bóng tối không còn đếm xỉa gì đến công lao của họ.
Người ta có thể đoán rằng chính lúc đó, Đức Giêsu đã tha thiết nghĩ đến Mẹ Người
biết chừng nào! quyền năng và tâm tình tế nhị cảm thương đi đôi với nhau khi
các Ngài bởi Thiên Chúa đến với nhân loại.
Suy niệm
Đoạn Tin Mừng này kết
thúc bằng lời tôn vinh của dân chúng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất
hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7, 16). Quả
thật, Luca muốn mặc khải cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là một vị ngôn sứ
mới.
Chúa cho con trai bà góa
thành Naim sống lại. Thành Naim này gần thành Shunem mà ngôn sứ Êlisê đã gặp,
lưu lại và chữa lành cho đứa con trai của một bà góa sau khi nó đã chết (2V
4,1-36)
“Chúa Giêsu đến
gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này
là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa” (Lc 7,12). Tất cả những chi tiết tiết
này làm cho chúng ta nhớ đến câu chuyện ngôn sứ Êlia làm dấu lạ cho hũ bột
không vơi, bình dầu không cạn tại nhà của bà góa thành Sarepta (1V17, 7-16).
Với phép lạ làm cho đứa
con trài bà góa thành Naim chết sống lại, rõ ràng Chúa Giêsu là một vị ngôn sứ
mới.
Vị ngôn sứ mới này được
Luca diễn tả từ cái nhìn: “Trông thấy bà”, từ lời nói: “Bà
đừng khóc nữa”, từ hành động: “Sờ vào quan tài” là “Đấng
chạnh lòng thương”. Đó là sự thật về vị ngôn sứ mới. Đó là sự thật về Thiên
Chúa.
Ngài thấy được hoàn cảnh
của mỗi người. Ngài ra tay cứu giúp bằng hành động cụ thể. Qua việc cho người
thanh niên sống lại, Ngài muốn hướng họ đến sự sống thật, sự sống vĩnh cửu.
Sự thật về một vị ngôn sứ
vĩ đại đó cũng đi vào cuộc đời chúng ta, giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa
luôn yêu thương chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Không phải Thiên Chúa đứng bên
ngoài cuộc đời chúng ta rồi người thấy xót xa cho những phận đời nghèo khổ, đớn
đau, tội lỗi… mà cùng mang lấy tất cả những khổ đau, bệnh tật và tội lỗi chúng
ta nữa. Tất cả những điều đó vẫn nặng trĩu trên đôi vai của Ngài: Ngài đang vác
lấy cuộc đời chúng ta.
Từ sự thật đó làm cho
chúng ta an tâm, vững vàng trong mọi hoàn cảnh vì có Chúa luôn nâng đỡ chúng
ta. Chúng ta không sợ khi mình nghèo túng, vì Chúa cũng đã từng nghèo và Chúa
hứa ban cho chúng ta gia tài vĩnh cửu trên nước Thiên Đàng. Hãy tìm kiếm gia
tài đó!
Chúng ta không sợ mình
đau khổ vì Chúa cũng đã từng đau khổ và hứa ban cho chúng ta hạnh phúc đích
thực ở đời sau. Hãy tìm kiếm hạnh phúc đó!
Chúng ta không sợ mình
tội lỗi vì Chúa cũng đã từng gánh lấy hậu quả của tội lỗi là sự chết, để ban ơn
cứu độ cho chúng ta. Hãy ăn năn sám hối và đón lấy ơn cứu độ!
Sự thật về vị ngôn sứ vĩ
đại này cũng mời gọi chúng ta hãy biết quan tâm, thông cảm, nâng đỡ cho những
anh chị em xung quanh chúng ta, nhất là những người nghèo, những người đau khổ
và những người tội lỗi.
“Khi tôi lầm lỡ mới biết
sớt chia với kẻ lỡ lầm. Khi tôi nghèo đói, tôi mới hiểu nỗi đau người lầm than.
Khi tôi bơ vơ mới biết sớt chia với kẻ không nhà. Khi tôi đau khổ, đời tôi mới
biết cảm thông”.
Khi cảm nhận được Chúa đã
từng sống như tôi để nâng tôi lên một giá trị cao hơn, tôi hãy cố gắng để hướng
đến giá trị đó, và hãy đưa tay để nắm lấy anh em tôi cùng nhau tiến về hạnh
phúc đích thực.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Chín
17 THÁNG CHÍN
Thánh Thần, Đấng Dẫn Dắt Chúng Ta
Hội Thánh, được sinh ra từ Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Đức
Kitô, vẫn không ngừng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần, Đấng
mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho anh em mọi sự và làm cho anh
em nhớ lại tất cả mọi điều [Thầy] đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Hội Thánh trên trần gian vẫn không ngừng được dẫn dắt bởi
Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh để đào sâu chính chân lý mà Hội Thánh đã nhận
lãnh trực tiếp từ môi miệng của Thầy. Trải qua bao thế kỷ, Hội Thánh đã thấu hiểu
hơn chân lý ấy nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Đó là con đừơng giúp Hội Thánh
ngày càng nhận hiểu Đức Kitô nhiều hơn. Sự hiểu biết có sức cứu độ này đã thật
sự được sở đắc bởi Hội Thánh khải hoàn, là “Giêrusalem trên trời” (Gl 4,26).
Chúa Thánh Thần khích lệ Hội Thánh tại thế bằng viễn cảnh huy hoàng của Hội
Thánh vinh quang.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 17-9
Thánh Rôbertô Bellarminô, giám mục tiến sĩ Hội
Thánh
1Tm 3, 1-13; Lc 7, 11-17
LỜI
SUY NIỆM: Trong câu chuyện Chúa Giêsu cho con trai một bà góa thành Na-in sống
lại. Qua hình ảnh một bà góa đưa dám con trai mình. Chúa Giêsu đã nhìn thấy và
thấu hiểu hoàn cảnh và nỗi đau của bà, nên đã chạnh lòng thương. Ngài đã lấy
quyền năng mà cho người thanh niên được sống lại và trao lại người thanh niên
này cho bà. Điều này cũng cho chúng ta thấy được Chúa Giêsu trước đó chưa hề gặp
người thanh niên. Nhưng qua bà mẹ của anh ta, Chúa đã cho anh được diễm phúc là
đã chết mà được sống lại. Giúp cho chúng ta biết quý trọng những người chung
quanh của chúng ta; những ân phúc mà chúng ta đang có; nhiều khi chính là nhờ đời
sống của những người chung quanh chúng ta. Qua họ mà chúng ta nhận lãnh ân phúc
từ Thiên Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 17-09 THÁNH RÔBERTÔ BELLARMINÔ (1452 -
1621)
Thánh Rôbertô Bellarminô sinh ngày 4 tháng 10
năm 1452 tại Montepulcianô. Cha Ngài là Vinconzo Bellarminô. Mẹ Ngài là Cynthia
Cervini. Em Đức giáo hoàng Marcellô II. Ngay khi còn là một học sinh tại trường
các cha dòng Tên. Ngài đã tỏ ra thông minh đặc biệt. Cha Ngài đã định cho Ngài
theo học y khoa. Dầu vậy năm 1560, Ngài xin gia nhập dòng Tên và đã được cha mẹ
ưng thuận.
Theo học triết tại Roma, Ngài đã tỏ ra là một
học sinh nổi bật. Từ Roma Ngài đã được gởi đi dạy học trong các trường của dòng
Tên trong 4 năm tại Florence và Modevi. Lúc này Ngài đã thông thạo tiếng Hy lạp
và được chỉ định dạy cho các bạn cùng lớp. Dầu chưa làm linh mục, Ngài thường
được mời đi giảng và được coi như là nhà giảng thuyết từ bẩm sinh. Ngài học thần
học trước hết ở Padua, rồi sau ở Louvain và thụ phong linh mục tại đây năm
1570. Các bài giảng của Ngài tại Louvain mang lại thành công đăc biệt. Anh em
Tin Lành tại Anh cũng tìm đến nghe Ngài và nhiều người đã trở lại. Với dáng nhỏ
bé, Ngài thường đứng trên ghế đẩu từ bục giảng.
Là giáo sư thần học tại Louvain, Ngài rất mộ mến
các tác phẩn của thánh Tôma. Trong các bài diễn thuyết, Ngài đã chống lại một
cách hữu hiệu nhưng đầy tình thương với các giáo thuyết khơi nguồn cho thuyết
Giansenisme sau này. Thánh Robertô cũng thúc đẩy các sinh viên học tiếng Do
thái và đã soạn cho họ một cuốn văn phạm ngắn gọn. Ngài đọc nhiều về các giáo
phụ và các văn sĩ khác trong Giáo hội, một nỗ lực còn ghi lại trong tác phẩm
"về các văn sĩ trong Giáo hội" (xb năm 1623).
Sau thời kỳ ở Louvain, Ngài được trao phó thi
hành một công việc khó khăn là làm giáo sư phụ trách các cuộc tranh luận tại
Roma. Các cha dòng Tên đã tổ chức việc diễn giảng này nhằm trả lời bằng ngôn ngữ
thời đại đối với các cuộc tấn công của anh em tin lành. Suốt 11 năm, thánh
Robertô đã nỗ lực cho công cuộc này với sự thành công rực rỡ. Nhiều sinh viên của
Ngài đã trở thành thừa sai tại Anh và tại Đức. Một số người đã đổ máu vì đức
tin tại Anh.
Các bài diễn thuyết của Ngài được xuất bản lần
đầu tại Ingolstudt, từ năm 1586 - 1593 dưới tựa đề "các cuộc tranh luận về
đức tin công giáo chống lại các người theo lạc giáo thời nay". Có 20 ấn bản
khi Ngài còn sống và nhiều ấn bản sau này nữa. Đây là một công trình bảo vệ đức
tin đầy đủ nhất của Giáo hội có được và suốt ba thế kỷ liền nó là áo giáp cho
các nhà giảng thuyết và các văn sĩ.
Những trách vụ khác thánh Robertô đảm nhận thời
kỳ này là tu chính tác phẩm chú giải của Salmeron, một bạn dòng, làm việc trong
ủy ban tu chính nghi thức phụng vụ Roma và bản kinh thánh phổ thông. Ngài cũng
góp phần lớn cho Đức Sixtô V trong việc ấn hành các tác phẩm của thánh
Ambrosiô.
Với vai trò thần học gia của Đức Hồng y
Goetni. Vị đặc sứ của Đức giáo hoàng tại Pháp năm 1589, thánh Robertô chứng tỏ
rằng: Ngài là một nhà ngoại giao lẫn một học giả có khả năng. Việc đại diện tại
Paris thật nặng nhọc. Nhưng thử thách lớn lao nhất lại đến từ một phía khác. Đức
giáo hoàng Sixtô V quyết định đặt cuốn I trong bộ những cuộc tranh luận vào sổ
sách bị cấm. Đức giáo hoàng không bằng lòng với chủ trương của thánh Robertô,
cho rằng uy quyền của giáo hoàng trực tiếp trong các vấn đề vật chất, và nếu có
thì chỉ qua uy tín tinh thần mà thôi. Chủ trương này đã trở nên thông thường
trong Giáo hội ngày nay. Nhưng Đức Sixtô đã qua đời và Đấng kế vị Ngài đã rút lại
quyết định. Dầu bị thử thách nhưng thánh Robertô đã góp phần vào ấn bản Kinh
thánh thời Đức Sixtô và đã viết tựa cho ấn bản cũ được vạch ra với một tinh thần
bác ái.
Thánh Robertô liên tiếp làm cha tinh thần và
viện trưởng của học viện Roma, rồi làm bề trên tỉnh dòng Naples. Tại Roma Ngài
hướng dẫn một thánh trẻ dòng Tên là Luy Gonzaga. Tại Naples, chính Ngài được một
cha dòng Tên khác là thánh Bernadiô Realinô sau này gọi là thánh.
Bị ép buộc nhận chức Hồng y năm 1599, từ đó Ngài
lo các việc cho toàn thể Hội Thánh, chẳng hạn như vụ án Galilêô và cuộc tranh
luận về ơn thánh giữa các cha dòng Daminh và dòng Tên.
Ngài làm Tổng giám mục Capua trong ba năm, rồi
chấm dứt những ngày hạnh phúc ấy vào năm 1605 khi Ngài được triệu về Roma và cầm
viết bênh vực Giáo hội. Liên tiếp Ngài dàn xếp với Fra Sarpi miền Venice, với
vua Giacôbê I nước Anh và với văn sĩ Pháp Guillaume Barchony.
Thánh Robertô qua đời ngày 17 tháng 9 năm
1621, được tuyên thánh năm 1928 và được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
17
Tháng Chín
Lời Nói Không Mất Tiền Mua
Mahatma Gandhi, người
đề xướng chủ trương tranh đấu bất bạo động, đến Phi Châu. Ông vào dùng bữa
trong một quán ăn bình dân. Sau khi dùng bữa, ông trả tiền và nói với người
giúp bàn: "Xin cám ơn vì sự tử tế của anh". Người giúp bàn trả lời:
"Thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ quên ngài. Từ 25 năm phục vụ ở đây, tôi
chưa bao giờ nghe được một tiếng cám ơn".
"Lời
nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Một tiếng cám
ơn, một lời chào hỏi, nếu được thực thi với tất cả chân tình là một biểu lộ của
một lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng cám ơn, biểu lộ một cử chỉ thân thiện với
người khác là muốn nói lên rằng tình liên đới giữa con người là một điều thiết
yếu và ta cần có người chung quanh để sống với. Nói một tiếng cám ơn với người
nào đó là khẳng định giá tị và nhân phẩm của người đó. Nhưng ở đời, có ai mà
không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ bài học nào đó.
(Lẽ Sống)
Thứ Ba 17-9
Thánh Robert Bellarmine*
(1542-1621)
K
|
hi Robert Bellarmine thụ
phong linh mục năm 1570, vấn đề học hỏi lịch sử Giáo Hội và các Giáo Phụ bị
lãng quên một cách đáng buồn. Ngay từ thời thanh niên ở Tuscany, ngài đã có
triển vọng là một học giả nổi tiếng, vì ngài dành nhiều thời giờ nghiên cứu về
những đề tài nói trên, cũng như Kinh Thánh, để hệ thống hóa học thuyết Công
Giáo nhằm đương đầu với các cuộc tấn công của Tin Lành. Ngài là linh mục dòng
Tên đầu tiên làm giáo sư ở Louvain.
Công trình nổi tiếng
nhất của ngài là bộ sách Tranh Luận về Những Mâu Thuẫn trong đức tin Kitô Giáo.
Ðặc biệt nhất là các đoạn nói về thế quyền của đức giáo hoàng và vai trò của
giáo dân. Ngài chọc tức cả nước Anh và nước Pháp khi chủ trương rằng thần quyền
của các vua chúa không thể tồn tại. Ngài khai thác học thuyết về thẩm quyền
gián tiếp của đức giáo hoàng trong các giao tế nhân sự; mặc dù ngài bảo vệ đức
giáo hoàng chống với triết gia Barclay, ngài cũng bị Ðức Giáo Hoàng Sixtus V
tức giận.
Bellarmine được Ðức Giáo
Hoàng Clement VIII tấn phong hồng y là vì "ngài chưa được những gì xứng
với tài học." Trong khi sống ở Vatican, Bellarmine không thua gì các
nhà tu khổ hạnh. Ngài giới hạn các chi tiêu cá nhân tới mức tối đa chỉ còn
những gì thật cần thiết, ngài ăn các thực phẩm dành cho người nghèo. Ðược biết
là ngài đã chuộc một người lính bị sa thải khỏi quân đội, và dùng các màn cửa
trong dinh cơ của ngài để may quần áo cho người nghèo, vì theo ngài nói, "Các
vách tường không thể bị cảm lạnh được."
Một trong những công
việc của ngài là trở nên thần học gia của Ðức Giáo Hoàng Clement VIII, và chuẩn
bị hai bộ giáo lý có ảnh hưởng rất lớn trong Giáo Hội.
Sự khó khăn sau cùng lớn
nhất trong đời Bellarmine là năm 1616 khi ngài phải khiển trách người bạn của
ngài là Galileo, người mà ngài rất khâm phục. Bellarmine đại diện cho Tòa Thánh
chuyển trao văn thư cảnh cáo, mà trong đó quyết định rằng lý thuyết về thái
dương hệ của Galileo thì trái với Phúc Âm. Sự khiển trách chung quy là một lời
cảnh cáo đừng đề cao các lý thuyết chưa được hoàn toàn chứng minh -- khác với
giả thuyết. Ðây là một thí dụ điển hình cho thấy các thánh vẫn có thể sai lầm.
Bellarmine từ trần ngày
17-9-1621. Tiến trình phong thánh cho ngài được bắt đầu năm 1627 nhưng bị đình
hoãn cho đến năm 1930 vì lý do chính trị, phát xuất từ các văn bản của ngài.
Vào năm 1931, Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Lời Bàn
Sự canh tân Giáo Hội mà
Công Ðồng Vatican II theo đuổi thì thật khó cho nhiều người Công Giáo. Trong sự
thay đổi, nhiều người cảm thấy thiếu xót một hướng dẫn vững chắc từ giới có
thẩm quyền. Họ mong muốn có những lý luận chính truyền vững như bàn thạch, và
một mệnh lệnh cứng cỏi có xác định thẩm quyền hẳn hoi.
Trong văn kiện Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay, Công Ðồng Vatican II đảm bảo chúng ta rằng, "Có
nhiều thực thể không thay đổi và có nền tảng thực sự từ Ðức Kitô, Ðấng hôm qua
cũng như hôm nay, và mãi mãi."
Thánh Robert Bellarmine
đã hy sinh cuộc đời để nghiên cứu Kinh Thánh và học thuyết Công Giáo. Các văn
bản của ngài giúp chúng ta hiểu rằng, không chỉ có nội dung đức tin là quan
trọng, mà còn chính con người sống động của Ðức Giêsu Kitô--như được biểu lộ
qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Người--đó là nguồn gốc của ơn cứu độ.
Nguồn gốc thực sự của
đức tin không chỉ là mớ lý thuyết nhưng đúng hơn là con người của Ðức Kitô hiện
đang sống động trong Giáo Hội ngày nay.
Khi từ giã các tông đồ,
Chúa Giêsu đảm bảo với họ về sự hiện diện sống động của Người: "Khi
Thần Khí của chân lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt anh em đến chân lý toàn vẹn"
(x. Gioan 16:30).
Lời Trích
"Chia sẻ mối quan
tâm với tất cả giáo hội, các giám mục hành xử quyền bính của mình, mà họ đã
lãnh nhận qua lễ tấn phong, trong sự hiệp thông với Ðức Giáo Hoàng Tối Cao và
dưới quyền của người. Tất cả kết hợp thành một tập thể hay thân thể để giảng
dạy về Giáo Hội hoàn vũ của Thiên Chúa và để điều hành giáo hội như các mục tử" (Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của Các Giám Mục,
3).
*Thánh Rôbetô Bêlaminô được đặt làm quan thầy
cho các Giáo lý viên và người Dự tòng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét