LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN
Bài 6 : ĐỜI SỐNG THỐNG NHẤT VÀ CHÂN THẬT (PHONG CÁCH 2)
I. ĐỜI SỐNG THỐNG NHẤT
LÀ GÌ ?
Thống nhất là hợp thành một cho phù hợp với
nhau, không mâu thuẫn trái ngịch với nhau. Ví dụ : đất nước thống nhất là đất
nước có cùng chung một tổ chức, một lãnh đạo duy nhất.
Như vậy,
đời sống thống nhất là đời sống có một đường lối duy nhất, một chương trình được
sắp đặt, mọi lời nói, việc làm, được gắn bó chặt chẽ với nhau, không “tiền hậu bất nhất” và không có
hai đời sống tách biệt và đối nghịch nhau.
II. ĐỜI SỐNG CHÂN THỰC .
Chân thực
là trong lòng thế nào thì bày tỏ ra ngoài như vậy, nghĩa là lời nói và việc
làm phát xuất từ đáy lòng, nghĩ sao nói vậy, trong lòng muốn gì thì bày tỏ như
vậy, không giả dối, việc giả hình hay lừa gạt.
Đời sống
chân thực là đời sống đích thực chứ không giả hiệu giả hình, nghĩa là lời nói,
cử chỉ, việc làm đều đúng với thâm tâm hay lương tâm, không phải chỉ có tính
cách xã giao, chiến thuật hay thủ đoạn.
Đời sống
thống nhất và chân thực luôn phải đi đôi với nhau. Đời sống thống nhất thì cần
phải luôn chân thực vì có thể thống nhất để xã giao theo thủ đoạn xảo quyệt, thống
nhất một cách giả hiệu để lừa gạt và đời sống chân thực thì cũng cần thống nhất
theo một chương trình kỷ luật trước sau như một, chứ không “tiền hậu bất nhất”.
III. ĐỜI SỐNG THỐNG
NHẤT VÀ CHÂN THỰC RẤT CẦN THIẾT :
1. Vì nhiệm vụ của
giáo lý viên.
Giáo lý viên phải vận dụng tất
cả đời sống và con người mình vào nhiệm vụ loan báo Lời Chúa. Trước khi loan
báo Lời Chúa, thì giáo lý viên phải cởi mở và sống Lời Chúa. Dạy giáo lý không
phải là dạy một môn học về văn hóa, cũng không phải dạy ý kiến của giáo lý
viên, mà là dạy Lời Chúa, dạy những điều mà Hội Thánh tin, nên giáo lý viên phải
tin và sống những điều mình tin trước, cảm nghiệm về niềm tin ấy để có thể làm
chứng cho mọi người.
Vì thế,
trước khi dạy giáo lý, giáo lý viên đã phải cố gắng sống theo những giáo lý
mình dạy cách chân thực. Làm như vậy, giáo lý viên chứng minh cho mọi người rằng
mình là một con người, là một giáo lý viên có phẩm chất, có ý thức trách nhiệm
và sống đúng trách nhiệm của giáo lý viên.
2. Vì thế giới hôm nay.
Thế giới
hôm nay đã phải nghe nhiều lời tuyên truyền rất hùng hồn và hấp dẫn cho những hạng
người (nói vậy mà không phải vậy).
Vì vậy, người ta đòi hỏi những người đi Phúc Âm hóa người khác phải nói cho họ
về một Thiên Chúa mà chính người đó đã hiểu biết quen thân, cảm nghiệm được,
như thể người ấy đã thấy được “Đấng vô
hình”. Vậy, giáo lý viên là người đi Phúc Âm hóa người khác mà mình đã học
trong sách vở chứ chẳng quen thân hay cảm nghiệm gì, thì đời sống giáo lý viên
đã không thống nhất, không gắn bó chặt chẽ giữa biết và sống, giữa dạy và làm, đời sống như thế làm sao cảm hóa
và thuyết phục người khác được.
Giáo lý
viên cần nhớ lời thánh Mác-cô nói về ơn gọi làm tông đồ để áp dụng cho chính
mình như sau :” Chúa Ki-tô đã lập Nhóm Mười
Hai tông đồ để họ ở với Người và sai họ đi rao giảng”.(Mc 3,14-15), nghĩa
là giáo lý viên cũng phải ở với Chúa Ki-tô, sống thân quen và cảm nhận được
tình thương của Chúa Ki-tô, rồi mới có thể rao giảng về Người cách xác tín được.
Đây là một nét riêng biệt mà thánh Mác-cô lưu ý chúng ta.
IV. ĐỜI SỐNG CHÂN THỰC
ĐƯỢC BIỂU HIỆN NHƯ THẾ NÀO ?
Đời sống
chân thực là phong cách thứ hai của linh đạo giáo lý viên, nó được biểu hiện
qua ba hành động chính là : cầu nguyện, cảm nghiệm về Thiên Chúa và sẵn sàng
buông theo Chúa Thánh Thần.
1. Cầu nguyện :
Cầu nguyện là gặp gỡ để nghe
Chúa nói và để nói với Chúa, để có cùng ý nghĩ và ước muốn như Chúa. Cầu nguyện
là “ở với
Chúa” (như cây nho, cành nho).
Chúa Ki-tô có đời sống chân thực nhờ cầu nguyện, nhờ thái độ “ở với Chúa Cha”. Người tìm nơi thanh vắng, dành thời gian ban đêm để
gặp gỡ, tâm tình với Chúa Cha, nhờ đó đời sống của Người luôn chân thực vì Người
chỉ lo thực thi đúng ý Chúa Cha mọi nơi mọi lúc.
Giáo lý
viên cầu nguyện thực thi đời sống chắc chắn phải chân thực, vì cầu nguyện thực sự là hiệp thông, là hiệp nhất với Chúa,
nhờ đó giáo lý viên không thể nào sống giả hiệu, giả hình, dối trá.
2. Cảm nghiệm về
Thiên Chúa.
Đây là một dấu chỉ sâu sắc
hơn về đời sống chân thực, nó phát xuất từ việc gặp gỡ, hiểu biết, cảm phục, tạ
ơn, chúc tụng và xin ơn cần thiết cho hồn xác, đó là những tâm tình của việc cầu
nguyện. Nó nằm ở bề sâu tấm lòng của con người. Chính trong bề sâu của lòng ta,
mà ta có kinh nghiệm rằng : Thiên Chúa rất gần gũi, đáng kính, đáng yêu. “Cảm
nghiệm” khác với suy nghĩ hay suy luận, cảm nghiệm như một trực giác
nghĩa là một cảm nhận trực tiếp không do suy luận nhưng do Chúa Thánh Thần gợi
lên trong đáy lòng.
Cảm
nghiệm về Thiên Chúa làm cho ta đạt tới mức thân mật với Thiên Chúa cách đơn sơ
chân thành, nghĩ sao nói vậy. Cảm nghiệm sao bày tỏ vậy. Đây chính là đời sống
chân thực ở mức độ cao. Chẳng hạn, cảm nghiệm của hai môn đệ làng Emmau :”Lòng chúng ta chẳng bừng cháy lên sao ...”
(Lc 24,30-34).
3. Sẵn sàng buông
theo Chúa Thánh Thần.
Giáo lý viên cần ý thức vai
trò quan trọng của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giê-su đã gởi đến để thường xuyên hướng
dẫn uốn nắn mỗi Ki-tô hữu. Người gợi hứng cho ta biết cầu nguyện đơn sơ và chân
thành với Chúa Cha. Người dạy ta cầu nguyện sao cho phải (xem thư gởi Rô-ma
8,26). Do đó, ta cứ buông theo Chúa
Thánh Thần hướng dẫn, uốn nắn, thì đời sống ta sẽ chân thực, không thể giả hiệu,
giả hình. Buông theo Chúa Thánh Thần không phải là ta thả mình như “bèo lục bình trôi” nhưng là phải cố gắng
dẹp bỏ mọi bám víu vấn vương bụi trần để Chúa Thánh Thần dẫn ta theo ý Chúa Cha
trên trời.
V. ĐỜI SỐNG THỐNG NHẤT
VÀ CHÂN THỰC CÓ LIÊN QUAN GÌ TỚI LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN.
Nhiệm vụ
giáo lý viên đòi hỏi giáo lý viên hiểu biết Chúa Ki-tô mỗi ngày mỗi hơn và sống
theo Người để đời sống luôn thống nhất và chân thực. Đây là việc không dễ, cần
có nghị lực
và quyết tâm, cần theo một kỷ luật bản thân bề trong (như ý
nghĩ, tình cảm ...) lẫn bề ngoài (như lời nói, hành động ....) và cần lo liệu
cho đời sống kỷ luật ấy phù hợp với hoàn cảnh của một giáo dân sống giữa đời.
Vì thế, giáo lý viên cần xác tín về tầm quan trọng của mối liên quan giữa đời sống
và linh đạo.
1. Càng sống thống nhất và chân thực, giáo lý viên càng làm chứng
và dạy dỗ hữu hiệu hơn :
Muốn xác tín như vậy, giáo
lý viên cần phải dẹp bỏ ý nghĩ sai lầm là mình chỉ là giáo dân sống giữa hoàn cảnh
trần thế, làm sao tổ chức được đời sống kỷ luật và có điều kiện thuận lợi như
các linh muc và tu sĩ.
Thực
ra, giáo dân không thể tổ chức đời sống và có điều kiện thuận lợi như linh mục
và tu sĩ, nhưng bất cứ Ki-tô hữu nào,
bất cứ ai sống theo linh đạo nào cũng phải lo sắp xếp để
có những lúc cầu nguyện với Chúa,
gặp gỡ Chúa trong yên tĩnh và thinh lặng để lòng mình có điều kiện lắng xuống
và cảm nghiệm về Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận sự hướng dẫn và uốn nắn của
Chúa Thánh Thần. Sống như vậy, giáo lý viên trở thành bằng chứng rõ ràng hơn cho
học viên vì mình đã sống với Chúa thực sự, và mọi hoạt động của giáo lý viên sẽ
có sức cảm hóa và thuyết phục mạnh mẽ hơn, đúng với đòi hỏi của linh đạo.
2. Càng sống thống nhất và chân thực, giáo lý viên càng đầy niềm
vui và hy vọng để chia sẻ cho học viên và mọi người.
Cố gắng
sống thống nhất và chân thực sẽ mang lại cho giáo lý viên niềm vui và tự hào, vì
mình không hổ thẹn nói một đàng làm một nẻo, chỉ nói mà không làm. Nhưng mình cảm
thấy an
nhiên tự tại nghĩa là an bình và hồn nhiên, vì đời sống
chân thực và trong sáng ; tự tại là bản thân được thư thái vì mình sống trong
trung thực, nói và làm đi đôi với nhau.
KẾT LUẬN : Đời sống thống
nhất và chân thực là phong cách quan trọng và cần thiết của giáo lý viên, vì nó
là dấu chỉ giáo lý viên sống đích thực linh đạo giáo lý viên của mình trước mặt
học viên cũng như mọi người. Giáo lý viên dạy sao sống vậy, dạy các em cầu nguyện
thì mình cũng thực hành cầu nguyện như vậy. Phong cách này làm cho giáo lý viên
dễ cảm hóa các học viên. Nhiệm vụ của giáo lý viên sẽ dễ dàng và chắc chắn hữu
hiệu hơn. Đời sống thống nhất và chân thực theo linh đạo giáo lý viên sẽ làm cho
giáo lý viên hưởng được hoa quả của Chúa Thánh Thần là : bác ái, hoan lạc, bình
an, trung tín, hiền hòa (x.Gl 5,22-23).
Giáo lý
viên sẽ được hưởng hoa quả của Chúa Thánh Thần thì nhân danh Hội Thánh, giáo lý
viên phải là người gieo rắc niềm vui và hy vọng mà Chúa Ki-tô Phục Sinh đã đem
lại cho mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét