THỨ TƯ 25/09/2013
Thứ Tư sau Chúa Nhật
25 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Esd 9, 5-9
"Thiên Chúa
không bỏ rơi chúng tôi trong cảnh nô lệ".
Trích
sách Esdra.
Tôi
là Esdra, khi dâng lễ tế ban chiều, tôi vùng dậy khỏi cơn âu sầu, áo trong áo ngoài
đều rách hết, tôi quỳ gối xuống, giơ tay lên Chúa là Thiên Chúa tôi mà thưa rằng:
"Lạy Chúa, con hổ ngươi thẹn thuồng không dám ngước mặt lên cùng Chúa: vì
những sự gian ác của chúng con chồng chất trên đầu chúng con, và tội lỗi chúng
con cao lên tới trời. Kể từ thời cha ông chúng con cho tới ngày nay, tội lỗi
chúng con đã quá nhiều, và vì sự gian ác của chúng con, nên chúng con, vua
chúa, tư tế của chúng con, bị trao vào tay vua các dân ngoại, bị gươm đao, bị
lưu đày, bị cướp bóc và bị thẹn mặt như ngày nay.
"Và
hiện giờ đây, Chúa vừa tạm ban cho chúng con một chút lòng thương xót, là để
cho chúng con sống sót phần nào, và cho chúng con một nơi ẩn náu trong chốn
thánh của Chúa, để soi sáng mắt chúng con, và ban cho chúng con một chút sự sống
trong cảnh nô lệ của chúng con, vì chúng con là nô lệ mà Thiên Chúa không bỏ
rơi chúng con trong cảnh nô lệ, nhưng Chúa đã khiến các vua Ba-tư thương xót
chúng con, mà cho chúng con còn sống để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa chúng
con, tu bổ những nơi hoang tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong xứ Giuđêa và tại
Gierusalem".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tb 13, 2. 3-4. 6. 7. 8.
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa
cao cả muôn đời (c. 1b).
Xướng: 1) Chúa trừng phạt,
rồi lại tha thứ. Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát
khỏi tay Chúa. - Ðáp.
2)
Bởi vì thế, Chúa đã phân tán các ngươi giữa các dân tộc không nhìn biết Chúa, để
các ngươi tường thuật các việc kỳ diệu của Người, để các ngươi làm cho họ biết
rằng ngoài Người ra, không có Thiên Chúa toàn năng nào khác. - Ðáp.
3)
Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng
cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các
ngươi. - Ðáp.
4)
Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm
tội. - Ðáp.
5)
Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên
Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi. - Ðáp.
Alleluia: 1 Ga 2, 5
Alleluia,
alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt
hảo nơi người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 1-6
"Người sai các
ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng
trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao
giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi
đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc
hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những
ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân
lại, để làm chứng tố cáo họ". Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao
giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Huấn Lệnh Truyền Giáo
Ðược
Chúa Giêsu tuyển chọn và sống với Chúa, các Tông đồ cũng đã nghe Chúa giảng dạy
và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Luca
thuật lại biến cố Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc nhở
các ông phải sống khó nghèo và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
So
với lần Chúa sai các môn đệ thì lần này có điểm khác biệt là thay vì được sai
đi từng hai người, các Tông đồ được sai đi từng người một và được ban cho sức mạnh
và quyền năng để trừ ma quỉ và chữa lành bệnh tật. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ
được sai đi trước để loan báo Ngài sắp đến. Huấn lệnh cho các Tông đồ trước khi
lên đường có thể gồm 3 phần: Thứ nhất, trên đường đi các ông không được mang
theo gì cả, mặc dù sứ vụ của các ông kéo dài một thời gian, chứ không phải chỉ
có một vài ngày; điều đó có nghĩa là các ông phải hoàn toàn từ bỏ chính mình và
chỉ tin vào sức mạnh của Lời Chúa. Thứ hai: khi tới nhà nào thì phải kiên trì,
không được lùi bước; nói khác đi, các ông phải tin vào sứ mệnh của mình, tin
vào sự quan phòng và chờ đợi thời giờ của Chúa. Thứ ba: các ông phải có can đảm
trước sự cứng đầu của những kẻ chống đối các ông.
Mỗi
thời đại có những cám dỗ riêng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ sứ mệnh cứu
thế, cũng như cám dỗ Ngài làm những việc lạ lùng, như hóa đá thành bánh, gieo
mình xuống từ nóc Ðền thờ để mọi người thấy và tin. Ngày nay, không thiếu những
người chỉ muốn dùng tiền bạc để giảng dạy hoặc dùng quyền bính để làm cho người
khác kinh sợ. Một cám dỗ khác mà người Tông đồ thời nay thường mắc phải, đó là
sự thiếu kiên nhẫn, chờ đợi thời giờ của Chúa. Họ dễ thoái lui rời bỏ nhiệm sở,
thay đổi công việc. Cũng có những người Tông đồ không dám nói rõ những sai lầm
của người khác cũng như những gì trái ngược với giá trị Tin Mừng. Thái độ chung
của con người thời nay là ích kỷ và hưởng thụ, số người sẵn sàng để Chúa sai đi
thật hiếm hoi, số các tệ nạn do sự sai lầm thiêng liêng ngày càng gia tăng,
trong khi đó cái tôi tự do được thổi phồng.
Có
lần nhà hiền triết Diogène đứng ở một góc đường và cười rã rượi như người điên
loạn. Một khách bộ hành hỏi ông: "Có gì mà ông cười ngặt nghẽo như thế?"
Ông đáp: "Anh có thấy tảng đá to ở giữa đường kia không? Từ khi tôi tới
đây, đã có mười người vấp ngã vì nó và nguyền rủa nó, nhưng không ai quan tâm lấy
nó đi để tránh cho người khác khỏi vấp ngã".
Có
nhiều cách làm việc Tông đồ, nhưng hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt
lành của mình. Xin Chúa giúp chúng ta đáp lại lời mời của Chúa và hăng say dấn
thân phục vụ những người xung quanh vì Chúa.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 25 TN1,
Năm lẻ.
Bài đọc: Ezr 9:5-9;
Lk 9:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải nhận ra tình
thương Thiên Chúa và tội lỗi của mình.
Có
những người ngông cuồng, chẳng chịu vâng lời những gì Thiên Chúa dạy bảo, nhưng
khi phải chịu hậu quả, thì lại đổ lỗi cho Thiên Chúa không thương xót và trách
mắng Ngài đủ điều. Làm như thế, chẳng những họ vẫn phải mang hậu quả, mà còn
càng ngày càng lấn sâu trong tội lỗi. Nhưng nếu họ biết kiểm điểm quá khứ, họ sẽ
nhận ra tội lỗi của họ và tình thương Thiên Chúa. Ngài luôn cho họ cơ hội trở về
để làm lại cuộc đời.
Các
Bài Đọc hôm nay có mục đích giúp con người nhận ra tội lỗi mình và tình thương
Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tư tế Ezra nhận ra tội lỗi của mình, của cha ông,
và của mọi con cái Israel thời đại ông, là nguyên do của việc lưu đày. Ông cũng
nhận ra uy quyền và tình thương Thiên Chúa dành cho ông và con cái Israel, qua
việc thay đổi lòng dạ của các vua Ba-tư để họ phóng thích dân Do-thái, cho hồi
hương để tái thiết đất nước, và xây dựng lại Đền Thờ ở Jerusalem. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu huấn luyện các tông-đồ, ban mọi quyền hành cho các ông, và sai
các ông ra đi để chữa lành và loan truyền Tin Mừng. Ai tin và đón nhận, sẽ nhận
được ơn cứu độ và chữa lành; ai không tin, sẽ không được lãnh nhận những điều
đó. Các tông-đồ sẽ phủi bụi ở chân lại để làm cớ tố cáo sự cứng lòng của họ.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân Ngài trong cảnh nô lệ.
1.1/
Hình phạt phải chịu xứng đáng với tội lỗi của Israel: Lịch sử của sách
Erza là Thời Lưu Đày của dân tộc Do-thái bên Assyria và Babylon. Trước Thời Lưu
Đày, Thiên Chúa đã không ngừng gởi các ngôn sứ của Ngài đến sửa dạy và đe dọa
lưu đày sẽ xảy ra, nếu họ cứng lòng không chịu ăn năn, hối cải. Hai tội mà các
ngôn sứ không ngừng tố cáo là: (1) tội quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy
theo thờ lạy các thần ngoại bang; (2) tội lỗi đức công bằng, tước đoạt tài sản
và đối xử bất công với những người cô thân, cô thế. Họ chẳng những đã không chịu
nghe, mà còn bắt giam các ngôn sứ, đánh đập, và giết đi. Hậu quả là Thiên Chúa
để cho quân thù phá tan hoang đất nước, cả miền Bắc (721 BC) và miền Nam (587
BC), đem tất cả đi lưu đày, và san phẳng Đền Thờ.
Sống
cực khổ trong Thời Lưu Đày, nhiều người vẫn chưa nhận ra tội lỗi của mình và
trách Thiên Chúa đã để cho quân thù dày xéo dân tộc Thiên Chúa đã lựa chọn; nhất
là quân thù cũng tội lỗi như họ hay còn hơn nữa! Nhưng tư tế Ezra đã không giống
như những người này, ông nhận ra lý do tại sao Thiên Chúa để mặc cho quân thù
dày xéo Israel. Trình thuật kể tâm trạng của ông: "Vào giờ đó, tôi mới ra
khỏi cơn sầu khổ, trỗi dậy; áo dài trong, áo choàng ngoài xé rách, tôi quỳ gối,
giơ tay lên Đức Chúa, Thiên Chúa của tôi và thưa: "Lạy Thiên Chúa của con,
con thật xấu hổ và nhục nhã khi ngẩng mặt nhìn Ngài, lạy Thiên Chúa của con, vì
tội chúng con quá nhiều đến nỗi dâng ngập đầu, lỗi chúng con cứ chồng chất lên
mãi tới trời."
Không
chỉ nhận ra tội lỗi của mình, của tổ tiên, và của tất cả mọi con cái Israel.
Ông nhận thấy hình phạt mà dân tộc phải chịu là xứng đáng: "Từ thời tổ
tiên chúng con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên
các vua và các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại
bang; chúng con đã bị nộp cho gươm giáo, phải đi đày, bị cướp bóc và bẽ mặt hổ
ngươi như ngày hôm nay."
1.2/
Ân huệ được nhận lãnh hoàn toàn do tình hương của Thiên Chúa.
(1)
Thiên Chúa bày tỏ tình thương khi con người còn là tội nhân: Vua Ba-tư ký chiếu
chỉ phóng thích cho dân Do-thái hồi hương để kiến thiết xứ sở và xây dựng lại Đền
Thờ. Các Vua Ba-tư còn giúp đỡ vật chất để họ có thể xây dựng Đền Thờ cách
nhanh chóng. Ezra nhận ra bàn tay Thiên Chúa trong sự quan phòng kỳ diệu này:
"Và bây giờ, chỉ mới đây thôi, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng con, ban cho
chúng con ân huệ này là để lại cho chúng con một số người sống sót, và cho
chúng con được một chỗ ở vững chắc trong nơi thánh của Ngài; như thế, Thiên
Chúa chúng con đã toả ánh sáng làm cho đôi mắt chúng con được rạng ngời, và làm
cho chúng con được hồi sinh đôi chút trong cảnh nô lệ."
(2)
Tình thương Thiên Chúa được bày tỏ qua các vua Dân Ngoại: Từ xưa tới nay, chẳng
có vua Dân Ngoại nào đối xử tử tế với kẻ thù của mình; thế mà các vua Ba-tư đã
phóng thích dân Do-thái, cho về hồi hương, và giúp vật chất để họ xây dựng lại
Đền Thờ. Điều này chứng tỏ tình thương và uy quyền của Thiên Chúa đã dành cho
con cái Israel. Họ phải xấu hổ vì một người Dân Ngoại đã tuyệt đối vâng lời làm
theo những gì Thiên Chúa truyền; còn họ, dân riêng của Ngài, lại chạy theo các
thần ngoại và luôn bất tuân lệnh Ngài: "Tuy chúng con là những kẻ nô lệ,
Thiên Chúa chúng con đã không bỏ rơi chúng con trong cảnh nô lệ đó. Ngài đã làm
cho các vua Ba-tư tỏ lòng yêu thương chúng con, khiến chúng con được hồi sinh
mà dựng lại Nhà Thiên Chúa chúng con, tái thiết ngôi Nhà đã hoang tàn, và xây lại
tường thành tại Jerusalem ở Judah."
2/
Phúc Âm: Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân.
2.1/
Ân sủng được Đức Kitô trao cho các môn đệ để ban phát cho mọi người: Trong khi còn ở thế
gian, Chúa Giêsu không những vất vả ngược xuôi để rao giảng Tin Mừng và chữa
lành mọi vết thương hồn xác, Ngài còn chọn lựa các môn-đệ, huấn luyện để các
ông tiếp tục sứ vụ của Ngài. Điều này chứng tỏ tình yêu của Chúa Giêsu dành cho
các thế hệ tương lai.
(1)
Chữa lành mọi bệnh tật hồn xác: Trước khi sai các ông đi rao giảng cho dân chúng, Đức
Giêsu tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ
mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật.
(2)
Rao giảng Tin Mừng: Rồi
Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Chúa
Giêsu dạy các môn đệ một điều hết sức quan trọng: "Anh em đừng mang gì đi
đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo."
Tại sao Chúa Giêsu truyền điều này? Trước tiên, người lữ hành dễ dàng ra đi mọi
nơi là người có ít hành trang nhất. Thời Chúa Giêsu và các thế kỷ đầu, con người
chưa có phương tiện di chuyển như bây giờ, cách phổ thông nhất là đi bộ; con
người cũng chưa có những phương tiện truyền thông như bây giờ, cách thức duy nhất
là trực tiếp đến và nói với khán giả. Hơn nữa, nếu những nhà rao giảng quá chú
trọng đến vật chất, họ sẽ có rất ít thời gian và lòng nhiệt thành cho việc rao
giảng Tin Mừng.
2.2/
Phản ứng của con người:
Chúa Giêsu biết trước phản ứng của con người dành cho các môn đệ, như họ đã từng
dành cho Ngài. Vì thế, Ngài căn dặn các ông:
(1)
Những người tiếp nhận các môn đệ: "Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và
cũng từ đó mà ra đi." Nếu khán giả nhận ra các ông là những sứ giả của
Ngài, họ sẽ đón tiếp các ông vào nhà và đối xử tử tế với các ông. Phần thưởng
cho những người này là họ sẽ có dịp nghe Tin Mừng, được chữa lành các vết
thương hồn xác, và có sự bình an.
(2)
Những người từ chối các môn đệ: Con người có tự do để tiếp nhận hay từ chối. Nếu họ
chọn không đón nhận các môn đệ, họ sẽ phải lãnh mọi hậu quả của việc từ chối: họ
đã bỏ lỡ cơ hội được lắng nghe Tin Mừng, được chữa lành, và không nhận được lời
chúc bình an của các môn đệ. Đối với những người cứng lòng này, Chúa Giêsu căn
dặn: "Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy
giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa luôn yêu thương và cho chúng ta nhiều cơ hội để lắng nghe và học hỏi
Tin Mừng. Chúng ta hãy biết thành tâm đón nhận và tận dụng khi cơ hội tới.
-
Nếu chúng ta khinh thường và bỏ lỡ cơ hội, chúng ta phải lãnh nhận mọi hậu quả
do việc hững hờ gây ra. Lúc đó, chúng ta đừng trách Thiên Chúa đã gây ra đau khổ
cho chúng ta.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 25–
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Lc 9,1-6
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu sai Nhóm 12 đi loan Tin Mừng và chỉ
dẫn họ những điều cần thiết khi thi hành sứ mạng :
1. Sứ mạng :
- Họ sẽ được tham dự vào chính sứ mạng của Thầy
mình, cho nên Chúa Giêsu ban cho họ năng lực, năng lực của chính Ngài, năng lực
mà Ngài đã dùng để thực hiện các phép lạ mà chúng ta đã thấy ở các đoạn trước ;
Ngài cũng ban cho họ quyền phép, cũng là quyền phép của chính Ngài, quyền phép
mà Ngài đã dùng để xua trừ ma quỷ mà chúng ta cũng đã thấy ở những đoạn trước.
- “Trừ mọi thứ quỷ và chữa các thứ bệnh” : người do thái quan niệm bệnh tật là
dấu hiệu thống trị của Satan và tội lỗi. Vậy trừ quỷ và chữa lành bệnh đều có
cùng một ý nghĩa là quyền lực Thiên Chúa đã chiến thắng Satan.
2. Những chỉ dẫn cần thiết :
- Chỉ dẫn thứ nhất là về lúc đi đường : đừng để
mình bị quá vướng víu với những nhu cầu và phương tiện vật chất, nhờ thế mà sẽ
biết phó thác vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa hơn. Muốn thế người tông đồ phải
: a/ “Đừng mang gì đi đường” để được thảnh thơi khỏi cồng kềnh ; b/ “Đừng mang
gậy” : gậy nhằm tự vệ khi bị kẻ ác tấn công dọc đường. Người tông đồ khỏi lo
việc này vì chính Chúa Quan Phòng sẽ bảo vệ họ ; c/ “Bao bị, lương thực, tiền
bạc, cũng đừng có hai áo” : đó là những món có tính cách dự trữ, phòng xa cho
những nhu cầu vật chất. Việc phòng xa này cũng không cần thiết vì Chúa Quan
Phòng đã lo sẵn có những người dọc đường cung cấp các thứ cần thiết ấy cho
người tông đồ.
- Chỉ dẫn thứ hai là về chỗ ở : Tông đồ không nên
so đo chọn nơi ở sao cho vừa ý nhất, do so đo như vậy mà cứ đổi từ chỗ này sang
chỗ khác cho dễ chịu hơn. Chúa Giêsu dặn phải chọn người xứng đáng ở trọ nhà họ
rồi trọ luôn một chỗ đó. Cv 16,15 là một thí dụ minh họa cho điểm này.
- Chúa Giêsu cũng dự trù một trường hợp đặc biệt
: có thể có nơi sẽ không chịu đón tiếp người tông đồ. Gặp trường hợp đó người
tông đồ hãy "Ra khỏi thành và giũ sạch bụi chân để tỏ dấu phản đối
họ" : theo tục lệ do thái, cử chỉ này có nghĩa là đoạn tuyệt. Xứ nào không
đón nhận Lời Chúa thì bị kể không phải là Đất Thánh, bụi của xứ đó đều là bụi
dơ, phải phủi lại kẻo mang bụi dơ ấy sang những xứ biết đón nhận Lời Chúa. Cử
chỉ phủi bụi chân và ra đi cũng có ý tuyên bố rằng từ nay người tông đồ không
còn trách nhiệm với nơi đó nửa, trách nhiệm thuộc về chính nơi đó. Cv 13,51 cũng
là một minh họa cho điểm này.
B.... nẩy mầm.
1. Đã lãnh nhận đức tin cách nhưng không thì
chúng ta cũng có bổn phận truyền bá đức tin ấy cách nhưng không. Truyền giáo
không phải là một việc “nhiệm ý làm thêm”, mà là một trách nhiệm của công bằng.
2. Dù không có sẵn bao bị, gậy, bánh, tiền… tức
là những khả năng phương tiện, ta cũng đừng ngại thi hành bổn phận truyền giáo,
bởi vì dù chúng ta có những thứ đó Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta đừng mang theo.
Chúng ta có được sự hỗ trợ đắc lực nhất là chính Chúa.
3. Truyền giáo trước tiên không phải là nhằm dạy
cho người ta biết một số kiến thức về giáo lý mà là nhằm “xua trừ ma quỷ và
chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là đẩy lùi những sự dữ và sự xấu ra khỏi con
người.
Có lẽ từ trước tới nay tôi chưa ý thức mục tiêu
này.
4. “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa
và chữa lành bệnh nhân. Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc, loan báo Tin Mừng
và chữa bệnh khắp nơi”.
Các môn đệ xưa là những người dân lương thiện,
chất phát. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau : trí thức có, bình dân có…
tất cả đều được sai đi để loan báo Tin Mừng. Với cả sự nỗ lực và lòng nhiệt
thành, họ đã ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Những người trẻ chúng ta cũng được mời gọi rao
giảng Lời Chúa. Có thể chúng ta không phải đến những nơi xa xôi, mà ở đây, bằng
chính cuộc sống của mỗi người nơi môi trường học đường, gia đình, làng xóm…
Lạy Chúa, xin ở bên con và bước đi cùng con
(Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
25/09/13 THỨ TƯ TUẦN 25 TN
Lc 9,1-6
Lc 9,1-6
SỐNG TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA
“Người sai các Tông Đồ đi rao
giảng Nước Thiên Chúa.” (Lc 9,2)
Suy niệm: Những
nơi đáng sống nhất trên thế giới năm 2012 là Vienna (Áo), Zurich (Thụy Sĩ), hay
Sydney (Úc)… với chất lượng cuộc sống hàng đầu là niềm mơ ước của bao người.
Sống trong xã hội công bằng, cuộc đời an vui, hạnh phúc như thiên đàng ở trần
gian luôn là khao khát của con người. Thế nhưng, ước mơ vẫn chỉ là mơ ước, ta
không tìm đâu một thiên đàng lý tưởng như vậy, dù đang cư ngụ ở những nơi đáng
sống nhất thế giới. Đang khi ấy, Đức Giêsu dạy các môn đệ đi loan báo về Nước
Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ấy là gì? Thưa là xã hội trần thế hòa bình, công lý
và tình thương, nơi ý Thiên Chúa được thực hiện dưới đất cũng như trên trời,
nơi mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành, và sống yêu thương nhau
như anh em, chị em. Nước Thiên Chúa ấy chính là thiên đàng hạ giới đáng cho ta
mơ ước.
Mời Bạn: Nhà văn J. Renard cho rằng “Không có thiên đàng ở trần gian, chỉ có những
mảnh của thiên đàng ấy.” Còn
bạn, bạn được mời gọi nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện trên trần gian và
làm cho những giá trị của Nước ấy như công bằng, sự thật, yêu thương, liên đới…
thấm vào môi trường bạn đang sống.
Sống Lời Chúa: Gia đình, cộng đoàn tôi sẽ là thiên đàng trần
gian nếu quan tâm thi hành ý muốn của Thiên Chúa thay cho làm theo ý riêng
mình. Tôi sẽ nỗ lực sống theo ý hướng mới này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con góp phần xây dựng Nước Thiên
Chúa ở trần gian. Xin cho chúng con biết đặt thánh ý Chúa lên trên mọi sự, và
luôn cố gắng chu toàn vuông tròn thánh ý ấy. Amen.
Đừng
mang gì
Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ bảo
ta đừng đem gì? Đâu là những nét đặc trưng của khuôn mặt người tông đồ thế kỷ
21? Đâu là những bệnh tật và nô lệ của con người hôm nay?
Suy niệm:
Sau một thời gian sống
bên Thầy Giêsu,
thấy việc Thầy làm và
nghe lời Thầy giảng,
giờ đây nhóm Mười Hai đã
tương đối cứng cáp
để được chia sẻ chính
công việc Thầy đã làm.
Đó là rao giảng Nước
Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân (c. 2).
Nhưng trước khi được chia
sẻ công việc,
họ được chia sẻ quyền trừ
quỷ và chữa bệnh của Thầy (c. 1).
Sứ vụ họ sắp làm là một
thực tập cho sứ vụ lớn sau này (Lc 24, 46-47).
Thầy Giêsu sai nhóm Mười
Hai lên đường với những chỉ thị rõ rệt.
Không thấy Thầy bảo phải
chuẩn bị hành trang.
Ngược lại, Thầy cấm không
được mang theo gì cả.
“Đừng mang gậy, bao bị,
lương thực, tiền bạc, hai áo” (c. 3).
Ngay cả những người giảng
rong theo phái Khắc Kỷ,
tuy rất khắc khổ, nhưng
cũng được mang theo gậy và bị để ăn xin.
Thầy Giêsu muốn môn đệ
của mình hoàn toàn cậy trông vào Thiên Chúa,
và hoàn toàn cậy trông
vào lòng tốt của con người.
Họ phải tập chấp nhận
sống bấp bênh và thiếu thốn trong bình an.
Không mang đồ dự trữ,
không gậy để bảo vệ khi đi đường,
các môn đệ buộc phải mang
theo lòng tín thác vô bờ nơi Thiên Chúa.
Thầy còn chỉ thị cho cả
nhóm biết về chuyện ăn ở của họ.
Họ sẽ đến ở chung nhà với
dân chúng, ăn uống những gì họ cho.
“Khi anh em vào bất cứ
nhà nào, thì ở lại đó…” (c. 4).
Đừng đi từ nhà nọ sang
nhà kia để tìm chỗ tiện nghi hơn.
Khi ăn ở nơi nhà dân,
người tông đồ có cơ hội gần gũi với họ,
và chia sẻ cuộc sống thật
của họ, để dễ loan báo Tin Mừng hơn.
Nhưng cũng phải bình an
chấp nhận những từ khước (c. 5).
Có khi trong cả một
thành, không tìm được một gia đình để trú chân.
Thái độ phủi bụi chân lại
cho thấy một sự dứt khoát đoạn tuyệt,
không muốn dính dáng gì
với những người ở đó nữa (x. Cv 13, 50).
Khuôn mặt của người được
sai cách đây hai ngàn năm thật là đẹp.
Vừa quyền năng để trừ mọi
thứ quỷ và bệnh tật,
vừa khiêm tốn cậy dựa vào
lòng quảng đại của người khác.
Vừa có gì để cho, vừa có
gì để nhận:
cho Tin Mừng cứu độ và sự
chữa lành, nhận sự giúp đỡ vật chất.
Vừa gần gũi thân thiết
với nỗi đau thân xác của con người,
với những lo âu rất đời
thường trong một gia đình,
vừa thanh thoát với tiền
bạc, không bị chi phối bởi nhu cầu vật chất.
Nhóm Mười Hai sẽ phải đối
diện với sức mạnh của ác thần
đang tác oai tác quái
trong đời nhiều người.
Họ sẽ phải dùng quyền
Thầy trao để giải phóng con người khỏi nô lệ.
Nếu hôm nay Đức Giêsu sai
chúng ta đi, Ngài sẽ bảo ta đừng đem gì?
Đâu là những nét đặc
trưng của khuôn mặt người tông đồ thế kỷ 21?
Đâu là những bệnh tật và
nô lệ của con người hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin
sai chúng con lên đường
nhẹ
nhàng và thanh thoát,
không
chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay
vào những phương tiện trần thế.
Xin
cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm :
rao
giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa
lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia
sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người
tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói
về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả
năng
đẩy lui bóng tối của sự
dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau
khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể
xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá
nhỏ.
Xin dạy chúng con biết
nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy
Niệm
Bài Tin Mừng ghi lại lời căn dặn chân thành của Đức
Giêsu khi sai các môn đệ ra đi loan báo tin mừng: "Khi đi đàng, các con
đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo." Lời
căn dặn của Ðức Giêsu, phải chăng muốn nói: Khi rao giảng phải bỏ hết những đồ
dùng, kể cả lương thực? Thưa không. Ngài không bảo loan báo Tin Mừng thì không
cần đến vật chất, nhưng chỉ muốn nhấn mạnh rằng: Với sứ mệnh loan báo Tin Mừng,
đừng để cho vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ mình. Vì nếu bị những thứ đó
chi phối, người tông đồ không đủ nghị lực và bất an. Hơn nữa, người môn đệ phải
biết cậy dựa vào ơn Chúa nhiều hơn. Không có ơn Chúa thì không có sự bình an
thanh thoát trong tâm hồn, và không thể loan báo niềm vui. Chỉ trong sự từ bỏ
và quên mình hoàn toàn mới chu toàn được sứ vụ cao trọng này. Như thế, tinh
thần khó nghèo là điều đầu tiên mà Đức Giêsu dạy cho người loan Tin Mừng, trước
tất cả những điều khác.
Rõ ràng làm việc truyền giáo thì phải có tiền: muốn mở
một khóa huấn luyện thì phải có tiền, muốn truyền giáo cho lương dân thì phải
làm việc xã hội, mà làm việc xã hội thì cần rất nhiều tiền... Bởi thế nhiều
linh mục ở các xứ đạo rất lo kiếm tiền. Các ngài thường chạy tới chạy lui với
các nhà hảo tâm hoặc các tổ chức từ thiện... Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu nói
điều đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là tinh thần nghèo? Thưa là vì Chúa
muốn nhà truyền giáo phải dựa vào ơn Chúa trước khi dựa vào tiền bạc, dựa vào
sự trợ giúp của Chúa hơn là sự trợ giúp của phương tiện vật chất. Hơn nữa, loan
Tin Mừng cốt yếu là làm chứng cho Đức Giêsu. Mà làm chứng cho Đức Giêsu tức là
làm chứng cho một người đã sinh ra trong nghèo khó, đã sống nghèo và chết trơ
trụi trên thập giá. Nếu người loan báo Tin Mừng tỏ ra giàu có hoặc quá cậy dựa
vào của cải vật chất để loan báo Tin Mừng thì đó là phản chứng. Người đó đang
loan báo báo một thứ gì khác chứ không phải là Tin Mừng của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con thoát
khỏi những mê hoặc lôi cuốn của thế gian. Xin đừng để tiền tài, danh vọng làm
chúng con chóa mắt mà quên đi ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Xin Chúa giúp
chúng con luôn biết hướng về Chúa, sống theo tinh thần của Chúa và giới thiệu
Chúa cho anh chị em chúng con. Nhiệt tâm của Thánh Phaolô nhắc bảo chúng con:
"Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng". Vâng, lạy Chúa, thật
là bất hạnh cho chúng con, nếu chúng con lo lắng về những gì khác mà không thao
thức cho Tin Mừng của Chúa được loan truyền. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng Chín
25
THÁNG CHÍN
Tiếng Gọi Làm Môn Đệ
Chúa
Chúng
ta đã tìm hiểu những chân lý mà Giáo Hội tuyên xưng và rao giảng. Những chân lý
này thiết lập nên nền tảng của Giao Ước Mới với Thiên Chúa trong Đức Giêsu
Kitô.
Chúng
ta đã nắm hiểu mục đích của việc giáo dục Kitô giáo. Ngay từ những năm đầu đời
của chúng ta tại gia đình và giáo xứ, chúng ta đã nghe lời mời gọi trở thành
môn đệ Đức Giêsu Kitô. Đây là mục tiêu của lời cầu nguyện chúng ta. Lời cầu
nguyện của chúng ta cùng với gia đình và cộng đoàn xứ đạo của mình đã đưa chúng
ta đến gần hơn bao giờ hết mầu nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô.
Đó
là mục tiêu của việc giáo dục Kitô giáo. Nhờ Phép Rửa, chúng ta trở thành con
cái của Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta lại trở nên những môn đệ của Đức Giêsu
Kitô.
Các
con, và cả Cha nữa, chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về cha mẹ và về các cha xứ
của chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những ai đã giúp chúng
ta nhận hiểu chân lý được Thiên Chúa mạc khải qua Đức Giêsu Kitô và được Hội
Thánh truyền giảng.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
25-9
Er
9, 5-9; Lc 9, 1-6
LỜI SUY NIỆM: Chúa Giêsu sai Mười
Hai Tông Đồ đi rao giảng. Các Tông đồ là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi
và chon lựa, Ngài cho họ ở với Ngài, Ngài giáo huấn họ, Ngài gây niềm tin và
tình yêu thương với họ. Để chính họ sẽ là những con người tiếp nối công
trình khai mở cho nhân loại nhận biết về
Thiên Chúa độc Nhất, về tình yêu thương và cứu độ của Thiên Chúa. Ngày hôm nay,
mỗi người Ki-Tô hữu cũng phải như các Tông Đồ xưa. Tất cả chúng ta đều có bổn
phận phải làm ngôn sứ cho Ngài, tùy vào ơn sủng và khả năng Chúa ban. Chúng ta
phải tích cự làm tốt vai trò ngôn sứ của mình.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 25-09 THÁNH GIUSE CALASANZ -
LINH MỤC (1557 - 1648)
Thánh Giuse Calasanz sinh năm
1557 tại Peralta de la Sal miền Aragonia. Cha mẹ Ngài là những một giàu có
trong miền, nhưng đã dày công dạy cho con biết yêu Chúa thiết tha, ham thích cầu
nguyện và gớm ghét tội lỗi. Chính Giuse ngay từ niên thiếu đã tỏ dấu có lòng
bác ác đặc biệt với trẻ nhỏ và ưu tư giáo dục chúng. Ngài thường tụ họp các bạn
trẻ lại để dạy cho chúng biết các mầu nhiệm đức tin và biết cách cầu nguyện.
Lớn lên, Giuse được gởi học văn
phạm và các môn cổ điển tại Estadilla. 15 tuổi Ngài đã hoàn tất chương trình
trung học. Cha mẹ Ngài đặt rất nhiều hy vọng vào tương lai của con. Giuse lại
mong chờ một sứ mệnh cao cả hơn. Ngài xin theo học một chương trình sống rất
nghiêm khắc để đề phòng những dục vọng bất chính. Ngài còn nhiệt thành dạy giáo
lý cho người dốt nát, thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân và những người nghèo khổ.
Dầu vậy Ngài đã thành công mỹ mãn và được phép cha cho ở lại để học dân luật và
giáo luật.
Ngày 11 tháng 4 năm 1575, Ngài chịu
phép cắt tóc gia nhập hàng giáp sĩ.
Sau khi đậu tiến sĩ giáo luật và
dân luật, Giuse tiếp tục học thần học tại Valence. Nơi hoa lệ này, quỉ đã ra sức
tấn công đức trinh khiết của Giuse. Nhưng quyết hiến thân cho Chúa, Giuse đã
chiến thắng vẻ vang. Từ đó Ngài bỏ Valence để tiếp tục theo học tại Alcada.
Tuy nhiên một hung tin làm xáo trộn
cuộc đời Ngài. Người anh của Giuse, một sĩ quan trong quân đội từ trần mà chưa
có con nối dõi tông đường. Giuse trở về quê nhà vâng lời cha mẹ nhưng vẫn nuôi
ước vọng làm linh mục. Ngài ra sức cầu nguyện và được nhậm lời. Ngài bị lâm trọng
bệnh và các y sĩ đều bó tay. Người cha của Giuse hứa sẽ cho Ngài làm linh mục nếu
được chữa lành. Giuse đã lành bệnh.
Ngày 17 tháng 12 năm 1583, Giuse
được thụ phong linh mục. Từ đó cha Giuse lao mình vào công việc chấn hưng đạo đức.
Ngài đã thành công đến nỗi 35 tuổi đã được đặt làm bề trên địa phận Urgel. Dầu
vậy, Ngài cảm thấy sức thúc đẩy đến Roma. Ngài lên đường và suốt năm năm. Ngài
đã sống tại giáo đô như là một khách hành hương khiêm tốn. Trong thời gian này,
thánh nhân đã thấy tận mắt sự khốn cùng và những tật xấu của đám dân nghèo.
Ngài xác tín rằng tình trạng này gây nên bởi sự thiếu hiểu biết về đạo.
Hiện đang sở hữu tài sản lớn lao
do người cha từ trần để lại, Ngài liền thiết lập những trường miễn phí cho dân
nghèo. Nhiều người đến cộng tác với Ngài, phần lớn là các giáo sĩ. Dần dần họ họp
thành một dòng giáo sĩ triều được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa. Năm
1622 cha Giuse đã đặt làm bề trên tiên khởi. Các trường dưới sự hướng dẫn của
Ngài ngày càng thêm nhiều, công cuộc của Ngài lan rộng sang Đức, Bohemia và Ba
Lan.
Về già, cha Giuse trở thành nạn
nhân của một âm mưu nhằm truất phế Ngài xuống. Mầm mống chia rẽ vì ghen tỵ mọc
lên trong dòng, khiến Đức Innocentê X hạ dòng xuống thành hội đạo đức mà thôi.
Cha Giuse vẫn vui vẻ chấp nhận. Tuy nhiên Chúa lại thưởng công cho Ngài và nhiều
phép lạ, nhất là được thấy Đức Mẹ ẵm Chúa Giêsu đến xem các học trò của Ngài lần
hạt và ban phép lành cho họ. Ngài còn được ơn nói tiên tri, cho biết 10 năm sau
dòng sẽ phục hồi và bành trướng mạnh mẽ.
Ngày 25 tháng năm 1648, thánh
Giuse từ trần vì một cơn sốt, thọ 92 tuổi, năm 1767 Ngài được tuyên thánh. Năm
1948 Ngài được đặt làm vị tông đồ việc giáo dục và làm đấng bảo trợ các trường
công giáo.
(daminhvn.net)
25 Tháng
Chín
"Con Người Bất
Hạnh Nhất Trần Gian"
Cuộc đời của nhạc
sĩ Beethoven, ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, cũng không phải là một
cuộc đời hạnh phúc. Tất cả những người viết tiểu sử của nhạc sĩ đều ghi nhận rằng
ông đã qua một thời tuổi thơ khốn khổ. Cha ông đã xem kỳ tài âm nhạc của ông
như một cơ hội để làm tiền. Thần đồng âm nhạc đã phải ngồi vào đàn Piano từ
sáng tới chiều, đến độ ông đâm chán cả âm nhạc. Chỉ có mẹ ông mới là nguồn an ủi
duy nhất của ông trong lúc tuổi thơ, nhưng bà đã mất năm ông mới 17 tuổi.
Năm 28 tuổi,
Beethoven bắt đầu bị điếc. Ông cảm thấy thất vọng hoàn toàn. Và tai họa đã tiếp
diễn cho đến cuối đời ông.
Tuy nhiên, con người
"bất hạnh nhất trần gian ấy" như ông thường nói về mình đã sáng tác
những dòng nhạc bất hủ nhất ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19.
Kho
tàng ẩn dấu trong ta chỉ có thể được khám phá và đem ra thi thố với thế giới nếu
ta biết chiến đấu. Ðiều đó đòi hỏi những năm tháng dài, tuy nhiên, trở ngại cuối
cùng mà ta có thể vượt qua sẽ làm ló rạng kho tàng ẩn dấu trong ta. Thánh
Basiliô đã nói: vĩ nhân không phải là người chỉ đọ sức với những điều cả thể,
nhưng chính là biết làm cho những việc tầm thường trở thành cao cả bằng chính sức
mạnh của mình.
(Lẽ
Sống)
Thứ Tư 25-9
Thánh Elzear và Chân Phước Delphina
(1286-1323) (1283-1358)
Ð
|
ây là cặp vợ chồng duy
nhất của dòng Phanxicô được chính thức phong chân phước và phong thánh.
Ông Elzear xuất thân từ
một gia đình quý tộc ở phía nam nước Pháp. Sau khi lấy bà Delphina thì ông mới
biết vợ mình thề giữ đồng trinh trọn đời; chính đêm tân hôn ông cũng đã thề như
vậy. Vào lúc đó ông Elzear, là Bá Tước của Ariano, và là cố vấn cho Công Tước
Charles của Calabria ở phía nam nước Ý. Elzear cai quản lãnh thổ của mình trong
vương quốc Naples và ở phía nam nước Pháp với sự công bằng.
Hai ông bà Elzear và Delphina
gia nhập dòng Ba Phanxicô và tận hiến trong công việc bác ái cho người nghèo.
Hàng ngày, có đến mười hai người cùng ăn với họ. Có một bức tượng Thánh Elzear
diễn tả ngài đang chữa người cùi.
Lòng đạo đức của họ đã
ảnh hưởng tất cả mọi gia nhân trong nhà. Hàng ngày họ đều tham dự Thánh Lễ, đi
xưng tội hàng tuần và sẵn sàng tha thứ cho người khác.
Sau khi ông Elzear chết,
bà Delphina tiếp tục công việc bác ái trong hơn 35 năm nữa. Ðặc biệt bà có công
trong việc nâng cao trình độ luân lý của triều đình vua Sicily.
Hai ông bà Elzear và
Delphina được mai táng ở Apt, nước Pháp. Ông được phong thánh năm 1369, và bà
được phong chân phước năm 1694.
Lời Bàn
Giống như Thánh
Phanxicô, hai ông bà Elzear và Delphina nhận biết nguồn gốc của các tạo vật. Do
đó, họ không nhẫn tâm thống trị bất cứ tạo vật nào nhưng dùng tạo vật như một
phương tiện để cảm tạ Thiên Chúa.
Dù hiếm muộn, hôn nhân
của họ là một hy sinh cho người nghèo và người đau yếu ở chung quanh họ.
Lời Trích
Thánh Bonaventura viết:
"Thánh Phanxicô tìm mọi cơ hội để yêu mến Thiên Chúa trong mọi sự. Ngài
vui thích với mọi công trình của bàn tay Thiên Chúa, và từ cái nhìn hân hoan ở
trần thế tâm trí ngài vươn cao đến nguồn ban sự sống và là cùng đích của mọi
tạo vật. Trong bất cứ gì đẹp đẽ, ngài đều nhìn thấy Ðấng Toàn Mỹ, và ngài đi
theo Tình Yêu của ngài ở bất cứ đâu mà chân dung ấy được lưu vết nơi các tạo
vật; qua tạo vật ngài làm thành một cái thang để có thể trèo lên cao và âu yếm
Ðấng là nguồn khao khát của mọi loài" (Legenda Major, IX, 1).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét