THỨ SÁU 27/09/2013
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
25 Quanh Năm
Thánh Vinh sơn Phaolô, linh mục. Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn,
nước Pháp. Người làm linh mục rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập
Tu Hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được
thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập Tu Hội Nữ Tử Bác Ái. Người là
gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Kitô dạy, luôn sẵn sàng cứu
giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô nơi bất cứ ai
đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.
Bài
Ðọc I: (Năm I) Kg 2, 1b-10
"Còn một ít
lâu nữa, Ta sẽ làm cho đền thờ này đầy vinh quang".
Trích sách
Tiên tri Khác-gai.
Năm thứ hai
triều đại vua Ðariô, đến ngày hai mươi mốt tháng bảy, có lời Chúa dùng tiên tri
Khác-gai mà phán rằng: "Ngươi hãy nói với Giorôbabel, con trai tướng lãnh
Giuđa, là Saluthiel, nói với Giosua, con trai thượng tế Giosêđec, và với những
kẻ sống sót lại trong dân rằng: "Ai trong các ngươi là kẻ sống sót lại đã
nhìn thấy vinh quang thuở xưa của đền thờ này: và giờ đây các ngươi xem thấy nó
thế nào? Chớ thì nó chẳng là không trước mắt các ngươi sao? Và Chúa lại phán: Hỡi
Giorôbabel, giờ đây hãy can đảm. Hỡi Giosua, con trai thượng tế Giosêđêc, hãy
can đảm; và toàn dân trên lãnh thổ, hãy can đảm, đây Chúa các đạo binh phán:
Các ngươi hãy khởi công, vì Ta ở cùng các ngươi, Chúa các đạo binh phán như vậy.
Có lời Ta đã giao ước với các ngươi, khi các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, là thần
linh Ta sẽ ở giữa các ngươi, nên các ngươi đừng sợ".
Vì Chúa các
đạo binh phán như thế này: "Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển
khơi và đất cạn chuyển động. Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng
mọi dân tộc trông đợi sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo
binh phán như vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh
quang đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các đạo
binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh phán
như vậy".
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 42, 1. 2. 3. 4
Ðáp: Hãy cậy trông Ðức Chúa Trời, vì
con còn ca tụng Chúa, Ðấng cứu thể diện và là Thiên Chúa của con (c. 5bc).
Xướng: 1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi
Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu con
khỏi tay người độc ác, điêu gian! - Ðáp.
2) Vì lạy
Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi
vì bị quân thù áp bức? - Ðáp.
3) Xin chiếu
giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con
lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến
tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui.
Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 18-22
"Thầy là Ðấng
Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc xảy ra
là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì
Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông
thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn
người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người
lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon
Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm
các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều
đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng
ngày thứ ba sẽ sống lại".
Ðó là lời
Chúa.
Suy niệm : Thầy Là Ðức Kitô
Trong số các
trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một danh
nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về
nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng phương
thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa lạ hơn
là chính Ngài. Ðã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả lời của
Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vốn
là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài đều từ từ
bị chứng minh là sai. Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả, nhưng trong cách sống
và giáo lý của Ngài, có nhiều điểm khác với Gioan Tẩy giả; có kẻ bảo Ngài là
Êlia hay một ngôn sứ nào đó, nhưng ở đây cũng vậy, giáo lý và thái độ của Chúa
Giêsu có nhiều điểm vượt quá và cắt đứt với giáo lý và thái độ của bất cứ ngôn
sứ nào trong Cựu Ước. Dù đồng hóa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy giả, với Êlia hay với
một ngôn sứ nào đó, tất cả đều giống nhau ở chỗ chưa có câu trả lời nào nhận ra
Chúa Giêsu là nhân vật chính, còn các vị kia chỉ là người loan báo và chuẩn bị.
Chúa Giêsu
đã bị dư luận quần chúng coi là một trong các vị tiền hô cuối cùng, cho đến khi
Phêrô đưa ra câu trả lời chính xác: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên
Chúa". Phêrô đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi.
Ngài là Ðức Kitô, có nghĩa là Ðấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người,
là Ðấng quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Ðấng nắm giữ và đưa lịch
sử đến hồi kết thúc. Ðức Kitô có đủ mọi tư cách đó, bởi vì Ngài là Ðấng được
Thiên Chúa sai đến, Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu linh cảm thấy
lời tuyên xưng của Phêrô có thể bị giải thích sai lạc, nếu được tung ra cho mọi
người biết; chính vì thế chẳng những Ngài cấm ngặt các ông không được nói điều ấy
với ai, mà kể từ đó Ngài còn đích thân nói rõ về tư cách Kitô của Ngài.
Xin Chúa cho
chúng ta biết lặp đi lặp lại mỗi ngày lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Thầy
là Ðức Kitô Con Thiên Chúa" để chúng ta vững bước trên con đường theo Chúa
và làm chứng cho Chúa.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 25 TN1
Bài đọc: Hag 2:1-9; Lk 9:18-22
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Xây dựng kết quả lâu dài hơn là
những chấp vá tạm thời.
Khi phải
đương đầu với những thách đố của cuộc sống, nhiều người thích những giải quyết
dễ dãi, nhanh chóng, và tạm thời; nhưng những giải quyết như thế không đem lại
cho con người những kết quả tốt đẹp và lâu bền. Rốt cuộc, họ lại phải bắt đầu lại
từ đầu. Ví dụ, việc học sinh ngữ: thay vì phải bắt đầu với việc học văn phạm và
nhớ từ ngữ, nhiều người lại bắt đầu ngay với việc nhớ các câu thông dụng. Vì thế,
khi phải nói những "câu có sẵn," họ trả lời được; nhưng khi phải làm
câu mới, họ không biết phải xếp đặt làm sao! Để đạt được kết quả lâu bền, con
người cần tìm ra căn nguyên thật sự của vấn đề, và kiên nhẫn tìm cách thức
thích hợp để giải quyết, cho dù phải tốn nhiều thời gian và phải chấp nhận gian
khổ.
Các Bài Đọc
hôm nay đưa ra hai ví dụ để giúp con người biết giải quyết tận gốc vấn đề. Trong
Bài Đọc I, tiên-tri Haggai khuyên tất cả những người có trách nhiệm và dân
chúng chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng Đền Thờ, hơn là cố gắng ổn định đời
sống; vì Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ở với con người để dạy dỗ và ban ơn. Việc
xây dựng Đền Thờ sau Thời Lưu Đày chắc chắn sẽ gặp khó khăn, nhưng họ phải cố gắng
khắc phục hoàn cảnh, vì Đền Thờ sẽ mang lại nhiều lợi ích đến cho con cái
Israel. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu, Ngài
báo trước Cuộc Thương Khó lần thứ nhất để các tông-đồ chuẩn bị đương đầu với
đau khổ khi nó xảy đến; đồng thời, Ngài cũng báo trước Ngài sẽ sống lại vinh
quang sau ba ngày trong huyệt mộ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Diễn từ thứ hai của tiên-tri Haggai
1.1/
Tiên-tri Haggai đốc thúc dân xây cất Đền Thờ Thiên Chúa.
(1)
Lý do Đền Thờ bị phá hủy: Đền
Thờ Jerusalem do vua Solomon xây dựng bị phá hủy là vì con cái Israel đã bỏ
Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại và đối xử bất công với đồng loại của
mình. Sau hơn 50 năm lưu đày, giờ đây họ được hồi hương trở về để tái thiết xứ
sở. Phản ứng đầu tiên của dân chúng là chỉ biết nghĩ đến cá nhân và gia đình của
họ; để tìm cách ổn định đời sống cách nhanh chóng hết sức có thể. Tiên-tri
Haggai không suy nghĩ như dân chúng. Ông biết căn nguyên của vấn đề là phải sống
đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Việc xây dựng Đền Thờ cần thiết
để qui tụ và dạy dỗ dân chúng; nếu không, họ sẽ mạnh ai nấy sống, và việc phải
lưu đày lần nữa chắc chắn sẽ xảy ra.
(2)
Phải biết nhìn lại quá khứ và suy xét: Tiên-tri Haggai mời gọi dân chúng nhìn lại Đền Thờ quá khứ:
"Ai trong các ngươi trong số người còn sót lại đã từng được chứng kiến cảnh
rực rỡ vinh quang của Đền Thờ ban sơ? Và bây giờ các ngươi thấy Đền Thờ như thế
nào? Trước mắt các ngươi, nó chẳng còn là gì nữa đó sao?" Dĩ nhiên, Haggai
không chỉ giới hạn việc xây dựng Đền Thờ bên ngoài; nhưng còn chú trọng đến việc
xây dựng đền thờ trong tâm hồn, là biết sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa,
và với anh chị em đồng loại.
1.2/
Vinh quang có được sau này là hậu quả của cố gắng khắc phục khó khăn bây giờ.
(1)
Phải can đảm khắc phục hoàn cảnh khó khăn: Con cái Israel phải đương đầu với rất nhiều khó khăn khi hồi
hương: công ăn, việc làm, nhà ở, chính quyền địa phương, kẻ thù chung quanh...
Haggai biết tất cả những điều đó; nhưng ông nhìn thấy những lợi ích của Đền Thờ:
sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng đạo đức của dân chúng, và sự an toàn quốc
gia. Vì thế, ông khuyên tất cả phải khắc phục khó khăn, để dốc toàn lực vào việc
xây dựng Đền Thờ trước hết, các sự khác không quan trọng bằng Đền Thờ, và Thiên
Chúa sẽ chúc lành cho họ sau. Ông nói: "Vậy bây giờ, hỡi Zerubbabel, hãy mạnh
bạo lên! Này thượng tế Joshua, con ông Jehozadak, mạnh bạo lên nào! Toàn dân
trong xứ hãy mạnh bạo lên! Sấm ngôn của Đức Chúa. Hãy bắt tay vào việc, vì
chính Ta ở với các ngươi. Sấm ngôn của Đức Chúa các đạo binh."
(2)
Vinh quang sẽ xảy đến trong tương lai: "Quả thật, Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chỉ còn một thời
gian ngắn nữa thôi, Ta sẽ làm rung chuyển trời đất, biển khơi và đất liền. Ta sẽ
làm cho tất cả các dân tộc phải chấn động và các kho tàng của các dân tộc sẽ đổ
về, rồi Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh quang. Đức Chúa các đạo binh
phán. Bạc là của Ta, vàng là của Ta."
Lời sấm này
không chú trọng đến của cải vật chất cho bằng tài sản tinh thần. Hai điều quan
trọng và có liên quan Haggai muốn chú trọng ở đây là (1) Đấng Thiên Sai sẽ đến;
và (2) Niềm tin vào Thiên Chúa của các dân tộc trên địa cầu. Niềm tin vào Thiên
Chúa không chỉ còn giới hạn trong vòng con cái Israel; nhưng sẽ được mở rộng đến
tất cả các quốc gia trên địa cầu, và Đền Thờ Jerusalem sẽ là trung tâm cho các
dân tộc hướng về (Isaiah).
2/
Phúc Âm: Con Người phải chịu đau khổ nhiều... và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.
2.1/
Cần nhận ra căn tính của Đấng Thiên Sai: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với
Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai?"
(1)
Dân chúng không nhận ra căn tính của Chúa Giêsu: Có người cho Chúa Giêsu là
- Gioan Tẩy
Giả, như tiểu vương Herode: vì Chúa dám nói thật và thẳng tay sửa sai.
- Có kẻ khác
bảo là ông Elijah: vì lời Chúa có uy lực và Ngài làm nhiều phép lạ.
- Kẻ khác nữa
lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.
(2)
Ông Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ:
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng
Kitô của Thiên Chúa."
Mối liên hệ
giữa con người với Thiên Chúa, hay mối liên hệ giữa người môn đệ với Đức Kitô
là một mối liên hệ cá nhân. Người khác có thể nói cho chúng ta biết về Thiên
Chúa. Họ có thể chỉ đường và tạo cơ hội cho chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa;
nhưng để sống mối liên hệ với Ngài, chúng ta cần bỏ thời gian để học hỏi, cầu
nguyện, và sống mối liên hệ với Ngài.
2.2/
Cần nhận ra con đường cứu độ của Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái đang mong một Đấng Thiên
Sai sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để dẹp tan quân thù, lên ngôi cai trị, và phục
hồi danh dự và uy quyền cho con cái Israel. Điều này không phải là ý muốn của
Thiên Chúa. Ngài muốn Đấng Thiên Sai phải chấp nhận gian khổ và cái chết để cứu
chuộc con người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.
(1)
Con người sẽ phải chịu đau khổ và bị giết chết: Chúa Giêsu báo trước Cuộc Thương Khó lần thứ
nhất: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng
kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."
(2)
Con Người sẽ sống lại hiển vinh ngày thứ ba: Đau khổ của Chúa Giêsu chỉ tạm thời; nhưng
Ngài sẽ phục sinh vinh hiển vào ngày thứ ba.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần
đương đầu với sự thật của mọi vấn đề, với căn nguyên của chiến tranh và đau khổ;
trước khi có thể giải quyết vấn đề, và xây dựng một cuộc đời tốt đẹp hơn.
- Để đạt được
thắng lợi vinh quang, chúng ta cần có can đảm để chấp nhận đau khổ tạm thời. Nếu
không chấp nhận đau khổ, làm sao có vinh quang?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 25–
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Lc 9,18-22
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục nói đến những dư
luận về Chúa Giêsu :
- Trong dân chúng thì có 3 dư luận : a/ Ngài là
Gioan Tẩy giả sống lại ; b/ Ngài là Êlia xuất hiện ; c/ Ngài là một ngôn sứ
thời xưa sống lại. Cách chung, dân chúng đánh giá Ngài khá cao : Ngài không
phải là một người thường như mọi người, nhưng là người đặc biệt thuộc hàng tiên
tri : giảng hay và có khả năng làm phép lạ.
- Chỉ một mình Phêrô, do ơn soi sáng đặc biệt,
nên biết Chúa Giêsu chính là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”.
- Tuy nhiên Phêrô vẫn nghĩ về Đấng Kitô theo cách
nghĩ thông thường của đa số người thời đó, tức là một Đấng cứu thế oai phong
hiển hách. Bởi đó Chúa Giêsu phải sửa lại cách nghĩ ấy : Ngài là Đấng Kitô chịu
nạn chịu chết rồi mới sống lại.
B.... nẩy mầm.
1. Tôi hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Giêsu.
Nhưng tôi hãnh diện về phương diện nào ? Vì Chúa Giêsu là Chúa, cao cả hơn Đức
Phật và các vị sáng lập những tôn giáo khác ? Vì Giáo Hội của Chúa có đông tín
đồ, có tổ chức quy mô ? vv… Có khi nào tôi hãnh diện vì Chúa của tôi là một vị
Thiên Chúa chết trên Thập giá không ? Tôi có nghĩ như thánh Phaolô rằng “Vinh
dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô” không ?
2. “Simon Phêrô thưa rằng ‘Thầy là Đức Kitô của
Thiên Chúa’. Và Ngài ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai” : Ngày nay
chắc Chúa không còn ngăn cấm chúng ta rao giảng về Ngài như là một Đức Chúa
quyền phép vinh quang. Nhưng Ngài sẽ chưa hài lòng nếu chúng ta chưa rao giảng
về Ngài như một Đức Chúa chết trên Thập giá vì tội loài người và vì yêu thương
loài người.
3. Vị khách đến uỷ lạo một thương binh trong bệnh
viện
- Anh thuộc giáo hội nào ?
- Tôi thuộc giáo hội của Chúa Kitô.
- Cái gì thuyết phục anh vào giáo hội đó ?
- Thuyết phục ư ? Rồi nhìn lên tượng chịu nạn, anh tiếp : phải, tôi bị Ngài
thuyết phục đến độ ngay cả sự sống sự chết, thần quyền thế quyền... không gì có
thể tách tôi ra khỏi lòng mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.” (Góp nhặt)
4. “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ
lão, các thượng tế và các luật sĩ từ bỏ” : đau khổ là điều Chúa Giêsu phải chịu
; bị từ bỏ, và từ bỏ không những bởi dân thường mà bởi những kẻ chính thức mắm
quyền lãnh đạo tôn giáo, đó cũng là điều Chúa Giêsu phải chịu.
Khi tôi gặp đau khổ ; khi tôi bị từ bỏ, nhất là
từ bỏ bởi những người mà tôi đặt rất nhiều hy vọng vào họ, tôi có nghĩ đó là
thập giá mà tôi phải vác không ? Tôi có ý thức rằng mình đang được chia sẻ thân
phận của Chúa tôi không ?
5. “Chúa Giêsu hỏi : Còn anh em, anh em bảo Thầy
là ai ?” (Lc 9,20)
Hình như có ai đang hỏi, đang mời tôi suy nghĩ.
Giờ này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai ? Giờ này,
đối với tôi, Ngài có còn là Ngài không ?
Hay chỉ là một chiếc bóng bên đường, một lần cất
bước đi qua để lại thoáng nhớ mong manh, rồi chìm dần vào quên lãng.
Giờ này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai ? Giờ này,
đối với tôi, Ngài có còn là Ngài không ?
Hay một lần Ngài đến giữa đêm khuya, rồi thầm cất
bước ra đi, để lại thoáng chút dư âm, tàn dần với thời gian…
Ngài là ai ? Là ai lúc tôi vui, lúc tôi buồn, lúc
tôi ghen, lúc tôi hờn, lúc tôi yêu… ?
Ngài là ai ? là ai khi tôi thành công, lúc tôi
thất vọng, khi lầm than, lúc thanh nhàn, và trong suốt cuộc đời… ?
Giêsu ơi, khi quì đây và trong suốt cuộc đời, xin
được gọi Ngài là Cứu Chúa của con. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp.Cần Thơ
27/09/13 THỨ SÁU TUẦN
25 TN
Th. Vinhsơn Phaolô, linh mục
Lc 9,18-22
Th. Vinhsơn Phaolô, linh mục
Lc 9,18-22
THẦY LÀ ĐẤNG KI-TÔ
Phêrô thưa :”Thấy là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa.” (Lc 9,20)
Suy niệm: Tin
Mừng mời gọi chúng ta nhìn lại cách nghĩ của chúng ta về dung mạo đích thực của
Chúa Giêsu. Khi thánh Phêrô đại diện các môn đệ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng
Kitô, thánh nhân cũng chỉ hiểu chữ Kitô ấy theo quan niệm thông thường của
người Do thái bấy giờ: là Đấng cứu tinh dân tộc Israel thoát ách nô lệ và xây
dựng đất nước phồn vinh. Các môn đệ chỉ nhận ra dung mạo đích thực của Chúa
Giêsu sau khi Ngài sống lại. Và lúc ấy các ông cũng hiểu rằng tuyên xưng Chúa
Giêsu là Đức Kitô có nghĩa là đi theo con đường thập giá.
Mời Bạn: Câu
hỏi ngày xưa Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?” giờ đây cũng được đặt ra cho từng Kitô hữu.
Chắc chắn chúng ta cũng tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô nhưng chúng ta tuyên
xưng một Đấng Kitô nào lại hệ tại cách sống của chúng ta. Chúng ta phải sống
thế nào để bày tỏ được cho những người chung quanh dung mạo đích thực của Đức
Kitô chịu chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để ai tin vào Ngài thì được cứu
độ (x. Cv 4,10-12).
Sống Lời Chúa: Muốn
bày tỏ Chúa cho người khác, cuộc sống của bạn phải là một cuộc sống khiêm hạ,
hy sinh, từ bỏ. Là người cha, bạn phải biết hy sinh những thú vui riêng để lo
cho vợ con. Là người mẹ, bạn phải biết dành nhiều thời giờ hơn để chăm sóc
chồng và con cái. Là con cái, bạn phải biết yêu thương vâng lời cha mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin giúp con sống xứng đáng ơn gọi Kitô hữu là sống hy
sinh vì người khác. Ước gì thập giá Chúa Kitô luôn là lẽ khôn ngoan và sức mạnh
của chúng con.
Ông
này là ai?
Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là
ai?” Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó. Để trả lời, phải bước vào
một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.
Suy niệm:
Đức Giêsu với các môn đệ
của Ngài đã nổi tiếng ở vùng Galilê,
qua các hoạt động rao
giảng và chữa bệnh.
Tiếng đồn về Ngài ngày
càng lan rộng (Lc 5, 15).
Điều đó hẳn đã đến tai
của Hêrôđê (c. 7),
vị tiểu vương cai quản
vùng Galilê trong hơn bốn mươi năm (Lc 3, 1).
Hêrôđê bối rối và lúng
túng trước những tin mình nhận được.
Ông đã cho chém đầu Gioan
Tẩy giả, kẻ được coi là ngôn sứ (c. 9).
Bây giờ lại nổi lên một
người khác tên là Giêsu.
Người ta đồn đãi nhiều về
nhân vật Giêsu này.
Có một số người nói ông
này là Gioan bị chém đầu nay sống lại.
Có những người khác nói
đó là ông Êlia tái giáng
sau khi đã được đưa về
trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11).
Cũng có những kẻ nói
Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại.
Quả thật nhìn việc làm,
lời giảng và lối sống của Giêsu,
người ta dễ thấy Ngài là
một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17).
Mà chính Đức Giêsu cũng
nhận mình là ngôn sứ (Lc 4, 24; 13, 33).
“Ông này là ai mà ta nghe
đồn những chuyện như thế?”
Hêrôđê tò mò muốn biết
Ngài là ai.
Ông không tin Đức Giêsu
là Gioan bị chém đầu, nay sống lại.
Và ông tìm cách gặp mặt
Ngài (c. 9).
Hêrôđê đã được gặp Đức
Giêsu trong cuộc Khổ Nạn (Lc 23, 6-12).
Lúc ấy Ngài xuất hiện
trong tư cách một phạm nhân.
Dù vậy Hêrôđê cũng vui
sướng vì ước ao của mình được thỏa nguyện.
Ông đã nghe Ngài làm được
những phép lạ lớn lao,
nên ông ước mong được
chứng kiến tận mắt một vài phép lạ.
Tiếc thay Đức Giêsu đã
không muốn chiều Hêrôđê.
Ngài đã không trả lời
ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào.
Ngài thanh thản bình an
trước những lời tố cáo của các thượng tế.
Ngài không muốn tránh cái
chết mà Ngài biết nằm trong ý định của Cha.
“Ông này là ai ?”, Hêrôđê
đã tìm thấy câu trả lời khiến ông bị hụt hẫng.
Giêsu chỉ là một anh khờ
dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu.
Cuộc tìm kiếm với nhiều
tò mò của Hêrôđê kết thúc.
Ông chẳng bao giờ biết
được Đức Giêsu thật sự là ai.
Nhiều người đã đặt câu
hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” (Lc 5,21; 7,49; 8,25).
Hôm nay nhân loại vẫn đặt
câu hỏi quan trọng đó.
Để trả lời, phải bước vào
một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.
Tò mò, thích những điều
giật gân, muốn thấy những điều lạ thường:
tất cả những điều ấy
không giúp ta khám phá mầu nhiệm một con người.
Sự thật về Giêsu có khi
lại được nhận ra qua cái im lặng cam chịu,
qua sự bất lực đớn đau
trên thập giá hơn là qua sự thi thố quyền năng.
Phải đổi toàn bộ cái nhìn
của mình để nhận ra được Giêsu là ai,
để không vội vã đánh giá
Ngài dựa trên tiêu chuẩn người đời.
Như Hêrôđê, chúng ta có
thể có cơ hội gặp mặt Giêsu,
nhưng vẫn không biết Ngài
là ai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
khi
đến với Chúa
con
tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con
cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con
đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con
bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để
con được ở một mình với Ngài,
lạy
Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con
sẽ xỏ giày vào
để
đi theo đường của Chúa,
con
sẽ đeo đồng hồ
để
sống trong thời gian của Chúa,
con
sẽ đeo kính vào
để
nhìn thế giới của Chúa,
con
sẽ mở bút ra
để
viết những tư tưởng của Chúa,
con
sẽ cầm chìa khóa lên
để
mở những cánh cửa của Chúa.
(Graham
Kings)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Cầu nguyện như Chúa
Lời tuyên xưng của thánh tông đồ Phêrô: "Thầy là Ðấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.
Lời tuyên xưng đó chuẩn bị cho một giai đoạn mới trong cuộc đời của Chúa Giêsu,
giai đoạn được bắt đầu cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để hoàn tất công
trình cứu chuộc nhân loại.
Ðoạn Phúc Âm được chia ra làm ba phần:
- Chúa Giêsu hỏi các tông đồ xem người ta nghĩ gì về chính
Ngài và hỏi các tông đồ xem các ông nghĩ như thế nào về Chúa.
- Lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Ðấng Kitô, Con
Thiên Chúa"
- Chúa Giêsu loan báo lần đầu tiên về cuộc thương khó của
Ngài. Biến cố này cũng được kể như Phúc Âm theo thánh Marcô và Mátthêu, nhưng
Luca có ghi thêm chi tiết đặc biệt, đó là việc Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi
hỏi các môn đệ về thực thể mình là ai?
Chúng ta biết rằng thánh sử Luca luôn luôn ghi lại chi tiết
Chúa Giêsu cầu nguyện trong những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa. Chúa
cầu nguyện khi lãnh nhận phép rửa của Gioan tiền hô để bắt đầu cuộc đời rao
giảng Tin Mừng; Chúa cầu nguyện suốt đêm trước khi gọi riêng mười hai tông đồ;
rồi Chúa cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ: "Các con nghĩ Thầy là
ai?"; Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi dạy các tông đồ kinh Lạy Cha; Chúa
Giêsu cầu nguyện nơi vườn cây dầu trước khi bước vào cuộc thương khó và Chúa
Giêsu cầu nguyện trên thập giá. Việc Chúa cầu nguyện cho những giây phút quan
trọng của cuộc đời Chúa, mời gọi chúng ta tự vấn về đời sống thiêng liêng của
mình: "tôi thường cầu nguyện lúc nào và trong những giây phút quan trọng của
cuộc đời tôi có cầu nguyện hay không và cầu nguyện như thế nào?"
Biến cố Chúa Giêsu tra hỏi các môn đệ về thực thể Ngài là ai
để cuối cùng đi đến lời tuyên xưng đức tin: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống" là một biến cố quan trọng. Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước
khi bắt đầu tra hỏi các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là
ai?" để theo Chúa trọn vẹn, không cần biết rõ cái chết của Chúa cho bằng
có được mối tương quan thân tình mật thiết với Chúa. Chúa Giêsu không hỏi các
môn đệ về giáo lý nhưng về chính mình, về chính thực thể Ngài là ai đối với họ.
Và để trả lời được cho câu hỏi này thì cần phải trả lời hai điều: thứ nhất là
biết Chúa và thứ hai là yêu mến Chúa. Ðây không phải là vấn đề biết Chúa một
cách trí thức qua sách vở, nhưng là biết cảm nghiệm trực tiếp giữa người với
người, giữa Chúa và đích thân mỗi người, biết Chúa như biết một người bạn; đây
không phải là vấn đề giáo thuyết nhưng là vấn đề cụ thể con người, hoặc trực
tiếp tiếp xúc với con người Chúa Giêsu Kitô, là Ðấng hằng luôn luôn hiện diện
bên cạnh mỗi người chúng ta. Do đó, cần phải có đức tin và tình yêu thương thì
ta mới có thể trả lời đúng cho câu hỏi Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Một người
không có đức tin hay ít đức tin, sống nguội lạnh thì quả thực là khó để trả lời
cho câu hỏi của Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho con được ơn trưởng thành trong đức tin và
trong tình thương Chúa. Xin cho con luôn được trung thành với lời tuyên xưng
"Thầy là Ðấng Kitô" để rồi có thể múc lấy từ đó sức mạnh để dấn thân
phục vụ Chúa và anh chị em chung quanh trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm
Nếu
đặt vào bối cảnh lịch sử thì câu chuyện này xảy ra vào khoảng giữa hai giai đoạn
của cuộc đời công khai của Chúa Giêsu: giai đoạn thứ nhất, Chúa Giêsu đi rao giảng
và làm phép lạ; giai đoạn thứ hai, Chúa Giêsu đi vào con đường đau khổ thập
giá. Kết thúc giai đoạn thứ nhất Chúa Giêsu muốn biết dư luận nghĩ sao về Ngài
khi đã nghe Ngài giảng và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Nếu người ta nghĩ
đúng về Ngài thì người ta mới có thể cùng với Ngài đi vào giai đoạn hai, tức là
đi vào con đường khổ giá. Tuy nhiên trong thực tế, người ta có nhiều cách hiểu
khác nhau về Đức Giêsu, dẫn đến nhiều cách đi theo Ngài: Nếu hiểu Chúa Giêsu là
một Đức Kitô vinh quang quyền phép, thì người ta đi theo Ngài chỉ để xin ơn huệ.
Còn khi nào người ta hiểu Ngài là một Đức Kitô chết trên thập giá thì khi đó
người ta mới sẵn sàng bỏ tất cả để đi theo Ngài, cho dù phải chịu nhiều đau khổ
và có thể hy sinh cả mạng sống mình nữa.
Về
phần Phêrô, ông hiểu hơn dân chúng, ông hiểu và tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Đấng
Kitô của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong đầu Phêrô, hình ảnh "Đức Kitô của
Thiên Chúa" gợi lên một nhân vật vinh quang, uy quyền. Bởi thế, sau khi
Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết thì Phêrô ngăn cản Chúa. Như thế,
cho dù người ta hiểu Đức Giêsu là Đức Kitô đi nữa, nhưng cũng chưa hẳn vì thế
mà người ta dám đi theo Ngài tới chỗ chết.
Ngày
xưa, Ðức Giêsu đã hỏi các môn đệ: Ngài là ai đối với họ. Chắc chắn hôm nay Ngài
cũng đang đặt câu hỏi đó với mỗi người chúng ta. Chúng ta thử nghĩ xem, chúng
ta sẽ trả lời Ngài như thế nào? Chúng ta có tin rằng Ðức Giêsu là Thiên Chúa,
là Ðấng làm chủ cuộc đời chúng ta không? Chúng ta có sẵn sàng sống cho Ngài và
theo Ngài không? Ðức Giêsu có chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống của ta
không? Hay chỉ có vật chất, lợi lộc, hưởng thụ mới là điều quan trọng?
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con đang bước theo ngài không phải vì được Ngài an ủi, cũng
không phải vì được ban ơn, hay để chia sẻ vinh quang, nhưng là để cùng Ngài đi
trên con đường thập giá. Con hiểu rằng đường đời của mỗi chúng con là đường thập
giá. Chắc chắn sẽ có nhiều đau thương khổ giá đòi chúng con phải từ bỏ rất nhiều.
Nhưng vì chúng con muốn làm môn đệ thực sự của Ngài nên chúng con xin sẵn sàng
cùng với Ngài đi trên con đường ấy. Xin cho cuộc sống của chúng con luôn hướng
về Chúa trong tâm tình yêu mến, phụng sự và tín thác. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng Chín
27 THÁNG CHÍN
Được Xức Dầu Là Được Tăng Lực
Đức Giám Mục, chung quanh có các
linh mục hữu trách cộng đoàn giáo xứ, kêu xin Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người
chúng ta ân sủng của Ngài: “Xin ban cho họ… thần trí khôn ngoan và thông hiểu,
thần trí lo liệu và sức mạnh, trần trí suy biết và đạo đức, xin ban cho họ đầy
lòng kính sợ Chúa”.
Lời cầu nguyện ấy được nối tiếp bởi
việc xức dầu thánh. Đức Giám Mục đã kêu xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở
thành đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Thực vậy, Con Thiên
Chúa đã làm người để dẫn dắt mọi người đến sự viên mãn của Chúa Thánh Thần, Đấng
mà Ngài không ngừng ban tặng cho con cái loài người. Đây là Đức Kitô, Đấng
Mêsia, có nghĩa là Đấng được xức dầu. Người là Đấng đầu tiên được Thánh Thần xức
dầu và thông ban sức mạnh. Qua Bí Tích Thêm Sức, bằng một cách thế đặc biệt, chúng
ta trở thành người thông dự trong Thánh Thần mà Đức Kitô đã mang đến cho chúng
ta.
Đức Giám Mục vừa xức dầu trên
trán những người lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức vừa cầu nguyện: “Hãy lãnh nhận ấn
tín ơn Chúa Thánh Thần”, và từng người đáp lại: “Amen” (ước gì được như vậy).
Sau đó Đức Giám Mục chào những người lãnh nhận Bí tích Thêm Sức: “Bình an của
Chúa ở cùng con !” (Ga 20,19). Đây chính là những lời mà Đức Kitô Phục sinh đã
nói khi Ngài ban Thánh Thần cho các tông đồ. Vâng, chúng ta hãy hoan hỷ trong
ân sủng mà Chúa Thánh Thần đang trao ban các bạn trẻ của chúng ta. Chúa Thánh
Thần là nguồn suối bình an của Thiên Chúa vọt lên trong con người và đem lại
cho họ sự sống đời đời. Hãy chúc tụng Thiên Chúa !
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
27-9
Thánh
Vinh Sơn Phaolô, linh mục
Kg
1, 15b-2,9; Lc 9, 18-22
LỜI SUY NIỆM: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các
môn đệ cũng ở đó với Người, và người hỏi các ông: ‘Dân chúng nói Thầy là ai?”
(Lc 9,18)
Hôm nay sau hơn hai ngàn năm. Chúa
Giêsu cũng đang hỏi chúng ta câu hỏi này. Dân số thế giới bao nhiêu tỷ người,
có bao nhiêu người đã nhận ra Ngài là Đấng Cứu Độ họ. Trách nhiệm của toàn thể
Ki-Tô hữu, phải biết nói rõ về Chúa Giêsu cho mọi người, chứ không chỉ tuyên
xưng trong các nhà thờ, trong các cộng đoàn dòng tu của mình, Chúng ta cần phải
tích cực giới thiệu Chúa cho mọi người với những phương tiện sẵn có: Cầu nguyện,
Hy sinh, Hãm mình Chay tịnh; chung sức thực hiện những công tác bác ái từ thiện,
công lý và hòa bình cùng những phương tiện văn minh của nhân loại.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 27-09 THÁNH VINHSƠN PHAOLÔ -
LINH MỤC (1581 - 1660)
Gia đình Phaolô là những nông dân tại
Pouy, gần Dax. Vincentê sinh năm 1581 là con thứ ba trong gia đình sáu người
con. Trong những ngày còn thơ ấu, Ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng
gió này, Vincentê đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng quê
và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho Ngài những kinh nghiệm đầu
tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nẩy nở trong tâm hồn
Vincentê. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối với Ngài, nhưng Ngài
đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác trên đường tới nhà máy xay
Ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người nghèo.
Thấy con mình có lòng bác ái lại
thông minh, ông Gioan đệ Phaolô quyết hy sinh cho Vincentê theo ơn gọi làm giáo
sĩ. Vincentê theo học các cha dòng Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương
trình đại học của Vincentê, cha Ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của
con. Dầu vậy, khi học thần học tại Toulouse, Vincentê cũng vừa lo học vừa lo dậy
kèm tư gia kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.
Sau khi thụ phong linh mục trong hai
năm trời Vincentê biến mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong
thời gian này Vincentê ra sao. Người ta kể lại rằng có một góa phụ tại Toulouse
đã công đức tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne để nhận
gia tài Ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một ngư phủ. Không quên nghề Ngài lại bị
bán cho một người hồi giáo làm thợ kim hoàn. Sau cùng Ngài lại bị rơi vào tay một
người phản đạo tên là Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện cha đã cải hóa được
ông. Chính ông đã đưa cha trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo cha đi Roma và
vào hội bác ái để đền tội cho đến ngày qua đời.
Từ đây, cha Vincentê bắt đầu thi
hành chức vụ linh mục của Ngài. Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng
Marguerrite de Valois. Lúc này, cha Vincentê có dịp quen biết cha Phêrô
Berulle, Đấng sáng lập dòng giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng
của cha Phêrô Bérulle, cha Vincentê bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt
tình. Theo lời khuyên của Ngài, cha Vicente nhận làm tuyên úy cho gia đình
Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Vincentê đã khám phá ra
tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và biếng nhác của
nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài quyết tâm sửa đổi thực
trạng.
Vincentê đã trở nên bạn của người
nghèo và dùng mọi phương tiện khả năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống
luân lý và tôn giáo của họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại
Chatillon les Dober cho Ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực
cải tiến họ đạo, Ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở
lại Paris với sự trợ giúp của bà Gondi Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn
cùng bất cứ ở nơi đâu, Ngài tổ chức "hội bác ái" trên khắp đất Pháp
cung cấp áo xống thuốc men cho người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt
chèo thuyền từ Paris tới Marseille. Ngài thành lập một hội dòng Lazarits với mục
đích truyền đạo cho dân quê và đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc
lên hội nữ tử bác ái mà y phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng
của lòng bác ái nối liền với danh hiệu Vincentê.
Một linh mục nhà quê đã trở nên quan
trọng đối với toàn quốc từ căn phòng tại xứ thánh Lazane Ngài bành trướng ảnh
hưởng ra khắp nước Pháp, tới Balan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa.
Nữ hoàng Anne d'Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý
Ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, Ngài đã không ảnh hưởng được tới
đường lối của vị giám mục này lại còn bị khổ vì ông khi nội chiến xảy ra.
Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn
phá do cuộc chiến xảy ra tại Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các
nỗ lực trên cùng với các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã
giam Ngài tại phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thơ cho
các Giám mục lẫn Linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ
trong nước. Các thư tín của Ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê người đọc
vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái ngập tình người.
Các thư tín và các bài giảng thuyết
của Vincentê cho thấy Ngài là một trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp
thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh tâm Ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức
và những cuộc tĩnh tâm hàng tháng Ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả
những khuôn mặt lớn tham dự như De Rotz, Bossuet...) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng
của Ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
Năm 1660, cha Vincentê ngã bệnh liệt
giường và đau đớn vì bệnh tật Ngài vẫn vui tươi tin tưởng : - Chúa còn phải chịu
hơn tôi gấp bội.
Đối diện với cái chết Ngài bình tĩnh
: - 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình chết. Ngày 27 tháng 9 năm 1660, cha
Vincentê từ trần và được tuyên thánh năm 1737.
(daminhvn.net)
27 Tháng Chín
Tuyên Úy Của Tù
Nhân
Hôm nay là ngày
kính nhớ thánh Vinh Sơn đệ Phaolô. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 17, linh mục Vinh
Sơn được cử đi làm tuyên úy cho các tù khổ sai bị trói vào những cột chèo lớn
trên các thuyền buồm của đế quốc Pháp. Với bản chất nóng nảy, hiếu thắng, cục mịch...
cộng với những phản ứng thô lỗ mà có lẽ vị linh mục tuyên úy đã bị tiêm nhiễm
trong suốt thời kỳ ở với tù nhân, cha Vinh Sơn đã được một nữ bá tước ra mời
làm trưởng nhóm của một số linh mục đang phục vụ như những thừa sai giữa giới
nghèo trong khắp nước Pháp... Cha Vinh Sơn đã chấp thuận lời đề nghị.
Một khúc quanh lịch
sử không những bắt đầu với cha mà còn cho cả Giáo Hội nữa: các linh mục dòng
thánh Vinh Sơn đệ Phaolô mà chúng ta thường gọi là các cha Lazaristes đã ra đời
từ đó. Ngoài ba nhân đức thông thường ma các tu sĩ phải khấn giữ, họ còn cam kết
phục vụ hoàn toàn cho giới nghèo.
Thời gian sau, với
sự cộng tác của chị Louise de Marillac, cha Vinh Sơn đã thiết lập dòng Nữ Tử
Bác Ái cũng đeo đuổi cùng một mục đích: đó là phục vụ người nghèo... Cha Vinh
Sơn đã định nghĩa dòng nữ này như sau: nhà dòng của họ là nhà thương, nhà nguyện
của họ là nhà thờ giáo xứ, khu nội cấm của họ là các ngả đường phố xá.
Chúc thư và cũng là
tinh thần của thánh Vinh Sơn đệ Phaolô được chứa đựng trong các lá thư của
ngài. Chúng ta hãy đọc qua một đoạn sau đây: "Hãy cố gắng bằng lòng ngay
giữa những điều làm cho chúng ta bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí con khỏi những
điều đang làm con giao động. Chúa sẽ lo liệu cho mọi sự... Cha van xin con, hãy
tín thác nơi Chúa. Con sẽ có mọi sự tâm hồn con khao khát".
Chúa
Giêsu đã bắt đầu bằng con số không: Ngài nghèo đến nỗi không có nơi gối đầu. Thế
nhưng ngày nay, khi nhìn vào Giáo Hội, người ta nghĩ ngay đến quốc gia Vatican,
với một bảo tàng viện phong phú nhất, với những vương cung thánh đường lộng lẫy,
với những cuộc biểu dương rầm rộ. Người ta cũng có thể nhìn vào các tòa giám mục
đồ sộ.
Các
vị sáng lập dòng cũng thường bắt đầu với con số không. Nhưng ngày nay, có ai chối
cãi được rằng những cơ sở lớn mà người ta thường thấy trong các đô thị lại thuộc
về các hội dòng.
Giáo
Hội và cách riêng các hội dòng có phục vụ người nghèo và có thuộc về người
nghèo không?... Có lẽ, nhiều hội dòng mà mục đích nguyên thủy là phục vụ người
nghèo và sống nghèo, cần phải đấm ngực tự thú rằng mình đã quá đi xa tinh thần
của Ðấng sáng lập... Sống nghèo trước hết đó là sống tín thác vào Chúa quan
phòng. Có thể nói đó là nhân đức trỗi vượt và cũng là mẫu số chung của các vị
thánh: phó thác hoàn toàn vào Tình Yêu của Chúa.
Chúa
kêu mời chúng ta chớ có lo lắng thái quá về ngày mai. Càng lo lắng, con người
càng nuôi dưỡng sự tham lam và càng thiếu lòng tin tưởng vào Chúa. Lòng tin của
chúng ta được đo lường bằng chính sự phó thác vào Chúa.
(Lẽ Sống)
Thứ Sáu 27-9
Thánh Vinh-sơn Phao-lô
(1580?-1660)
Cảnh một người hầu hấp
hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt Vinh-sơn để nhìn thấy nhu cầu tâm
linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc
đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà bấy giờ,
việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện
nghi.
Chính nữ Bá Tước de
Gondi (có người đầy tớ được Vinh-sơn giúp đỡ) đã thúc giục chồng bà cung cấp
tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động
cho người nghèo, người hầu và tá điền. Lúc đầu Cha Vinh-sơn quá khiêm tốn nên
không nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này, nhưng sau một thời gian hoạt động
cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức
mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai, hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh-sơn. Các linh
mục này, với lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm
việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc.
Sau này Cha Vinh-sơn tổ
chức các nhóm bác ái để trợ giúp tinh thần cũng như thể chất của những người
nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của Thánh Louis de
Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái, "mà tu viện là bệnh xá, nhà
nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố." Ngài huy
động các bà giầu có ở Balê để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo,
xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô
lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng
hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc
huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, Vinh-sơn
là một người hay cáu kỉnh -- ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy.
Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ "rất khó khăn và lạnh lùng,
cộc cằn và gắt gỏng." Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất
nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Ðức Giáo Hoàng Leo XIII
đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ
chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh-sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân
Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ Thánh Vinh-sơn.
Lời Bàn
Giáo Hội là của mọi con
cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình
dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ
-- đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn
ác. Thánh Vinh-sơn Phao-lô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày
nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng
đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.
Lời Trích
"Hãy cố gắng vui
lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm
trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi
bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Người thấy bạn không
tôn kính Người đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Người,
tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát" (Thánh Vinh-sơn Phao-lô, Thư Từ).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét